Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Khảo sát hoạt động chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư tại một bệnh viện chuyên khoa ung bướu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 122 trang )

BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI

BẠCH VĂN DƢƠNG
MÃ SINH VIÊN: 1201091

KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ
VÀ THỰC HIỆN THUỐC ĐIỀU TRỊ
UNG THƢ TẠI MỘT BỆNH VIỆN
CHUYÊN KHOA UNG BƢỚU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ

HÀ NỘI – 2017


BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI

BẠCH VĂN DƢƠNG
MÃ SINH VIÊN: 1201091

KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ
VÀ THỰC HIỆN THUỐC ĐIỀU TRỊ
UNG THƢ TẠI MỘT BỆNH VIỆN
CHUYÊN KHOA UNG BƢỚU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƢỢC SĨ
Người hướng dẫn:
1. ThS. Cao Thị Bích Thảo
2. ThS. Trần Thị Thúy
Nơi thực hiện:


1. Bộ môn Dƣợc Lâm Sàng
2. Bệnh viện chuyên khoa Ung Bƣớu

HÀ NỘI – 2017


Lời cảm ơn
Bằng tất cả sự chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn tới
ThS. Cao Thị Bích Thảo – Bộ môn Dược lâm sàng, Trường Đại học Dược Hà Nội
và ThS. Trần Thị Thúy – Khoa Dược, Bệnh viện chuyên khoa Ung Bướu, những
người thầy đã luôn tận tụy, hết lòng quan tâm, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ nhiệt tình của TS. Vũ Đình Hòa, ThS.
Đồng Thị Xuân Phƣơng và DS. Nguyễn Thị Thu Thủy, cùng toàn thể các thầy cô
bộ môn Dược lâm sàng – Trường Đại học Dược Hà Nội đã giúp đỡ, chia sẻ, luôn
cho tôi những lời khuyên quý báu cũng như hỗ trợ tinh thần cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo bệnh viện, lãnh đạo các khoa cùng
toàn thể các bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng và cán bộ nhân viên đang công tác tại khoa
Dược, khoa Nội I và khoa Nội II – Bệnh viện chuyên khoa Ung Bướu đã ủng hộ,
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo cùng các
bộ môn, phòng ban khác của Trường Đại học Dược Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn bên cạnh,
ủng hộ và chia sẻ khó khăn, động viên tôi thực hiện khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn

Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2017
Sinh viên


Bạch Văn Dƣơng


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU – CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN ...................................................................................... 3
1.1. Một số khái niệm liên quan tới thuốc điều trị ung thƣ .................................... 3
1.2. Tổng quan về sai sót liên quan đến thuốc điều trị ung thƣ ............................. 4
1.2.1. Giới thiệu về sai sót liên quan đến thuốc ........................................................... 4
1.2.2. Sai sót liên quan đến giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc ............................. 6
1.3. Kỹ thuật xác định sai sót liên quan đến chuẩn bị và thực hiện thuốc ............ 9
1.4. Nguy cơ phơi nhiễm với thuốc độc hại ............................................................. 10
1.4.1. Phơi nhiễm nghề nghiệp với thuốc độc hại ....................................................... 11
1.4.2. Ảnh hưởng của phơi nhiễm với thuốc độc hại .................................................. 12
1.5. Các biện pháp thực hành an toàn trong quy trình chuẩn bị và thực hiện
thuốc điều trị ung thƣ ............................................................................................... 13
1.5.1. Biện pháp phòng tránh phơi nhiễm với thuốc độc hại ...................................... 13
1.5.2. Kỹ thuật vô khuẩn ............................................................................................. 16
1.5.3. Tiêu chuẩn thực hành trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung
thư................................................................................................................................ 18
1.6. Hoạt động chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thƣ tại một bệnh viện
chuyên khoa Ung Bƣớu ............................................................................................ 18
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................... 21
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu......................................................................................... 21
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................... 21
2.3. Chỉ tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 23

2.3.1. Chỉ tiêu nghiên cứu của mục tiêu 1 ................................................................... 23
2.3.2. Chỉ tiêu nghiên cứu của mục tiêu 2 ................................................................... 24


2.4. Xử lý số liệu nghiên cứu..................................................................................... 25
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................ 28
3.1. Đặc điểm sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung
thƣ của điều dƣỡng ................................................................................................... 28
3.1.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu................................................................................. 28
3.1.2. Tỉ lệ quan sát có sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc ............. 28
3.1.3. Phân loại quan sát theo số lượng sai lệch ......................................................... 29
3.1.4. Đặc điểm từng loại sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc ........ 29
3.1.4.1. Sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị thuốc ......................................................... 30
3.1.4.2. Sai lệch trong giai đoạn thực hiện thuốc ........................................................ 32
3.1.5. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sai lệch trong quy trình chuẩn bị và
thực hiện thuốc ............................................................................................................ 33
3.1.5.1. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị
thuốc ............................................................................................................................ 33
3.1.5.2. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn thực hiện
thuốc ............................................................................................................................ 36
3.2. Đặc điểm thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn và các biện pháp bảo hộ lao
động trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thƣ .................... 39
3.2.1. Đặc điểm thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn trong quy trình chuẩn bị và thực
hiện thuốc .................................................................................................................... 39
3.2.2. Đặc điểm thực hiện các biện pháp bảo hộ cá nhân trong quy trình chuẩn bị và
thực hiện thuốc ............................................................................................................ 41
CHƢƠNG 4. BÀN LUẬN ......................................................................................... 43
4.1. Bàn luận về phƣơng pháp nghiên cứu.............................................................. 43
4.2. Bàn luận về sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc ................ 45
4.2.1. Bàn luận về sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị thuốc ......................................... 45

4.2.2. Bàn luận về sai lệch trong giai đoạn thực hiện thuốc ....................................... 48
4.2.3. Bàn luận về các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sai lệch trong quy trình chuẩn bị
và thực hiện thuốc của điều dưỡng ............................................................................. 53


4.3. Bàn luận về vấn đề thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn và các biện pháp bảo
hộ lao động ................................................................................................................. 57
4.3.1. Bàn luận về vấn đề thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn ........................................ 57
4.3.2. Bàn luận về vấn đề thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động .......................... 59
CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ............................................................... 62
5.1. Kết luận ............................................................................................................... 62
Kết luận về đặc điểm sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị
ung thư của điều dưỡng ............................................................................................... 62
Kết luận về đặc điểm thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn và các biện pháp bảo hộ lao
động trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư của điều dưỡng ... 63
5.2. Đề xuất................................................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Tiêu chuẩn thực hành trong giai đoạn chuẩn bị thuốc điều trị ung thư dựa
trên tiêu chuẩn của Hội ung thư dược Canada (CAPhO)
Phụ lục 2. Tiêu chuẩn thực hành trong giai đoạn thực hiện thuốc điều trị ung thư
dựa trên tiêu chuẩn của Hội dược sĩ Mỹ (ASHP)
Phụ lục 3. Một số khuyến cáo về thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn trong thực hành
tiêm truyền
Phụ lục 4. Các thao tác của nhân viên y tế có thể dẫn đến phơi nhiễm với thuốc độc
hại
Phụ lục 5. Các khuyến cáo cần thực hiện trong quy trình cung cấp thuốc độc hại
nhằm hạn chế phơi nhiễm
Phụ lục 6. Phân loại sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc
Phụ lục 7. Bảng khuyến cáo cách sử dụng thuốc điều trị ung thư

Phụ lục 8. Mẫu phiếu thu thập thông tin giai đoạn chuẩn bị thuốc
Phụ lục 9. Mẫu phiếu thu thập thông tin giai đoạn thực hiện thuốc


Phụ lục 10. Các QS có sai lệch do sử dụng loại bơm tiêm chia vạch không phù hợp
để định lượng liều dung dịch thuốc theo thể tích
Phụ lục 11. Các thuốc sai thể tích dung môi hoàn nguyên
Phụ lục 12. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Phụ lục 13. Các thuốc sai thể tích dung môi pha loãng so với khuyến cáo
Phụ lục 14. Các cặp thuốc dùng có nguy cơ tương kỵ


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU – CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASHP

Hội dược sĩ Mỹ (American Society of Health-System Pharmacists)

BCCA

Cơ quan ung thư British Columbia (British Columbia Cancer Agency)

BSA

Diện tích bề mặt cơ thể (Body surface area)

BSC

Tủ an toàn sinh học (Biological safety cabinet)


CAPhO

Hội Ung thư Dược Canada (Canada Association of Pharmacy in
Oncology)

CI
IARC

Khoảng tin cậy (Confidence Inteval)
Hội nghiên cứu ung thư quốc tế (International Agency for research on
cancer)

ICD10

Phân loại bệnh tật quốc tế (International Classification of Diseases)

ISMP

Viện thực hành an toàn thuốc Hoa Kỳ (Institute for Safe Medication
Practices)

ISOPP

Hiệp hội quốc tế của Uỷ ban tiêu chuẩn Dược học Ung thư
(International Society of Oncology Pharmacy Practitioners Standards
Committe)

ME

Sai sót liên quan đến thuốc (Medication errors)


NCCMREP Hội đồng điều phối quốc gia Hoa Kỳ về báo cáo và phòng tránh sai
sót liên quan đến thuốc (The National Coordinating Council for
Medication Error Reporting and Prevention)
NIOSH

Viện an toàn lao động và sức khỏe quốc gia Mỹ (National Institute for
Occupational Safety and Health)

OR

Tỉ suất chênh (Odds Ratio)

PPE

Trang bị bảo hộ (Personal protective equipment)

QS

Quan sát

VIF

Variance Inflation Factor (Yếu tố lạm phát phương sai)


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Bảng
1


3.1

Tên bảng
Tỉ lệ quan sát có sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực

Trang
28

hiện thuốc
2

3.2

Phân loại QS theo số lượng sai lệch

29

3

3.3

Tỉ lệ từng loại sai lệch trong chuẩn bị và thực hiện thuốc

30

4

3.4


Tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị thuốc

31

5

3.5

Tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn thực hiện thuốc

32

6

3.6

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn

34

chuẩn bị thuốc
7

3.7

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn thực

37

hiện thuốc

8

3.8

Tỉ lệ không thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn trong quy trình

40

chuẩn bị và thực hiện thuốc
9

3.9

Tỉ lệ thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động trong quy

41

trình chuẩn bị và thực hiện thuốc
10

4.1

So sánh tỉ lệ từng loại sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị

45

thuốc giữa các nghiên cứu
11

4.2


So sánh tỉ lệ từng loại sai lệch trong giai đoạn thực hiện
thuốc giữa các nghiên cứu

49


DANH MỤC CÁC HÌNH

STT

Hình

1

1.1

Tên hình
Sơ đồ quy trình kê đơn, cấp phát, chuẩn bị và thực hiện

Trang
19

thuốc điều trị ung thư tại một bệnh viện chuyên khoa
Ung Bướu
2

4.1

Phân bố các loại sai lệch trong giai đoạn chuẩn bị theo

nhóm thuốc

54


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đang là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên
toàn thế giới. Theo thống kê của Hội nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC), ước tính
mỗi năm có khoảng 14 triệu ca mới mắc, số người tử vong trong 5 năm khoảng 8,2
triệu bệnh nhân. Cũng theo tổ chức này, năm 2012 Việt Nam có khoảng 125 nghìn
ca ung thư mới mắc với số người tử vong trong 5 năm khoảng 94 nghìn người [42].
Để điều trị ung thư có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó hóa trị liệu
là một trong những phương pháp thường được sử dụng.
Việc sử dụng hóa trị liệu rất phức tạp do thuốc điều trị ung thư là thuốc có
chỉ số điều trị hẹp, độc tính cao dù ở liều điều trị và bệnh nhân ung thư là nhóm
bệnh nhân dễ xuất hiện các phản ứng có hại do họ có khả năng chịu đựng kém [59].
Mục tiêu của điều trị bằng thuốc là cải thiện chất lượng cuộc sống đồng thời giảm
thiểu các nguy cơ cho bệnh nhân. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng thuốc không
thể tránh khỏi xảy ra các sai sót. Những hậu quả của sai sót liên quan đến thuốc là
kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho
bệnh nhân, thậm chí dẫn tới tử vong [9]. Trong một nghiên cứu, sai sót trong sử
dụng thuốc điều trị ung thư là nguyên nhân phổ biến thứ hai trong các sai sót liên
quan đến thuốc có thể dẫn tới tử vong (chiếm 15,4% số trường hợp tử vong do sai
sót liên quan đến thuốc) [66].
Việc cung cấp thuốc điều trị cho bệnh nhân là một quá trình phức tạp. Sai sót
có thể xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào và giai đoạn nào trong thực hành lâm sàng, từ
giai đoạn kê đơn của bác sĩ, cấp phát của dược sĩ đến giai đoạn chuẩn bị và thực
hiện thuốc của điều dưỡng [61]. Trong đó, chuẩn bị và thực hiện thuốc là công việc
có nguy cơ sai sót cao nhất trong công việc thực hành của điều dưỡng [44].
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về sai sót trong giai đoạn chuẩn bị và

thực hiện thuốc nói chung và thuốc điều trị ung thư nói riêng nhằm xác định tỉ lệ sai
sót, nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến sai sót và từ đó đề xuất các biện pháp
để giảm thiểu sai sót trong quá trình chuẩn bị và thực hiện thuốc cho bệnh nhân
[29], [36], [69], [74]. Ở Việt Nam, do nhiều nguyên nhân, vấn đề sai sót y tế nói

1


chung và sai sót trong giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc nói riêng vẫn còn chưa
được quan tâm đúng mức. Có ít nghiên cứu về vấn đề này được tiến hành và đặc
biệt đối với nhóm thuốc điều trị ung thư.
Bên cạnh đó, quá trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư có thể
gây nên những ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe của các nhân viên y tế trong thời gian
tiếp xúc với nhóm thuốc độc hại này. Hiện nay, việc chuẩn bị thuốc điều trị ung thư
được khuyến cáo tiến hành tập trung tại khoa Dược do dược sĩ trực tiếp thực hiện và
đã cho kết quả rất tốt trên cả 3 phương diện an toàn, kinh tế và hiệu quả. Nhưng ở
nhiều bệnh viện tại Việt Nam, trong đó có bệnh viện chuyên khoa ung bướu của
nghiên cứu, việc chuẩn bị thuốc điều trị ung thư vẫn được thực hiện tại khoa lâm
sàng và điều dưỡng là người trực tiếp thực hiện. Tại thời điểm khảo sát, tại bệnh
viện chưa có nghiên cứu nào được triển khai về thực hành thuốc trên bệnh nhân ung
thư, chưa có hướng dẫn chi tiết về quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung
thư, kỹ thuật vô khuẩn cũng như hướng dẫn an toàn khi thao tác với thuốc độc hại.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu ―Khảo sát
hoạt động chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư tại một bệnh viện chuyên
khoa Ung Bướu ‖ với 2 mục tiêu:
1. Khảo sát đặc điểm sai lệch trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều
trị ung thư của điều dưỡng.
2. Khảo sát đặc điểm thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn và các biện pháp bảo hộ
lao động trong quy trình chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư của
điều dưỡng.


2


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm liên quan tới thuốc điều trị ung thƣ
Thuốc điều trị ung thư là khái niệm đề cập đến nhiều loại thuốc được sử
dụng trong điều trị bệnh ác tính như thuốc gây độc tế bào, thuốc độc hại, điều trị
miễn dịch, điều trị nhắm mục tiêu đích, điều trị nội tiết [21].
Trong các nghiên cứu về sai sót liên quan đến thuốc điều trị ung thư thường
đề cập tới khái niệm thuốc gây độc tế bào, hóa trị liệu; nhưng trong các nghiên cứu
về an toàn của nhân viên y tế khi thao tác với thuốc điều trị ung thư thường dùng
khái niệm thuốc độc hại. Để hiểu rõ hơn về các khái niệm liên quan tới thuốc điều
trị ung thư, chúng tôi xin trình bày hai khái niệm phổ biến nhất trong những nghiên
cứu này trên thế giới là thuốc gây độc tế bào (cytotoxic drugs) và thuốc độc hại
(hazardous drugs).
Thuốc gây độc tế bào (cytotoxic drugs)
Thuốc gây độc tế bào (hóa trị liệu, thuốc điều trị ung thư) được sử dụng
trong lâm sàng để điều trị bệnh ung thư và một số bệnh khác. Thuốc gây độc tế bào
là các hoạt chất tác động đến sự lớn lên và sinh sôi của tế bào, hầu hết trong số đó
hoặc liên quan trực tiếp đến vật liệu di truyền trong nhân tế bào hoặc ảnh hưởng đến
sự tổng hợp protein của tế bào. Thông thường, tác động của thuốc gây độc tế bào
không phân biệt lên tế bào bình thường hay tế bào ung thư [9], [26].
Thuốc gây độc tế bào thường được dùng cho bệnh nhân suy giảm miễn dịch
và do hầu hết các loại thuốc này đều ức chế tủy, việc này có thể đặt bệnh nhân vào
nguy cơ phát triển nhiễm khuẩn nặng. Do đó, khi chuẩn bị thuốc gây độc tế bào
đường tiêm, kỹ thuật vô khuẩn phải thực hiện tốt để ngăn ngừa nhiễm khuẩn. Ngoài
ra, do hầu hết các hoạt chất đều có chỉ số điều trị hẹp, độ chính xác của quá trình
chuẩn bị thuốc phải được đảm bảo [26].
Thuốc độc hại (hazardous drugs)

Theo Hội dược sĩ Mỹ (ASHP), một chất độc hại tới sức khỏe được định
nghĩa là một chất có bằng chứng xác thực về mặt thống kê, dựa trên ít nhất một
nghiên cứu tiến hành trên các nguyên tắc khoa học đã được định trước, có khả năng

3


gây ra tác động cấp tính hoặc mạn tính lên sức khỏe người lao động tiếp xúc với nó,
bao gồm các chất hóa học gây ung thư, các tác nhân có độc tính cao, các độc tính
với sinh sản, các chất gây kích thích, các chất gây ăn mòn, chất gây nhạy cảm
(sensitizers) và tác nhân gây ra tác động lên cơ quan đích [12].
Theo Viện an toàn lao động và sức khỏe quốc gia Mỹ (NIOSH), thuốc độc
hại được định nghĩa là thuốc dựa vào độc tính vốn có của nó, biểu hiện ra mối nguy
hiểm tới nhân viên y tế. Các thuốc được xác định dựa vào một hoặc hơn trong 6 tiêu
chí sau: tính gây ung thư, gây độc lên gen (genetoxic), gây quái thai, độc tính trên
hệ sinh sản, độc tính lên cơ quan ở liều thấp trong mô hình động vật hoặc trên
những bệnh nhân được điều trị hoặc các thuốc mới có đặc điểm cấu trúc và độc tính
tương tự các thuốc độc hại đã được xác định bởi các tiêu chí trên [31], [64].
Thuốc độc hại bao gồm thuốc điều trị ung thư, hormon, thuốc kháng virus,
ức chế miễn dịch và kháng thể đơn dòng. Mỗi bộ phận ở những nơi cung cấp dịch
vụ chuẩn bị và thực hiện thuốc điều trị ung thư cần phải có một danh sách các loại
thuốc độc hại có yêu cầu thao tác đặc biệt [21], [26], [30].
1.2. Tổng quan về sai sót liên quan đến thuốc điều trị ung thƣ
1.2.1. Giới thiệu về sai sót liên quan đến thuốc
Có rất nhiều định nghĩa về ―sai sót liên quan đến thuốc‖. Tuy nhiên, định
nghĩa thường được sử dụng và được chấp nhận rộng rãi trên thế giới hiện nay được
đưa ra bởi hội đồng điều phối quốc gia Hoa Kỳ về báo cáo và phòng tránh sai sót
liên quan đến thuốc (NCCMERP). Theo tổ chức này, ―sai sót liên quan đến thuốc
(ME) là bất kỳ biến cố có thể phòng tránh nào có khả năng gây ra hoặc dẫn đến việc
sử dụng thuốc không hợp lý hoặc gây hại cho người bệnh trong khi thuốc được

kiểm soát bởi bệnh nhân, nhân viên y tế hoặc người sử dụng. Các biến cố như vậy
có thể liên quan đến quy trình thực hành chuyên môn và hệ thống chăm sóc sức
khỏe, bao gồm: kê đơn, quá trình chuyển giao đơn thuốc; ghi nhãn, đóng gói và
danh pháp; pha chế, cấp phát, phân phối; quản lý, giáo dục; giám sát và sử dụng
trên người bệnh‖ [61].

4


Một báo cáo của viện Y học Mỹ (Institue of Medicine) ước tính rằng khoảng
từ 44000 đến 98000 ca bệnh tử vong mỗi năm do sai sót y khoa, nhiều hơn do tai
nạn giao thông, do ung thư vú hay do bệnh AIDS. Tính riêng sai sót liên quan đến
thuốc xảy ra ở trong hoặc khi xuất viện, ước tính trên 7000 người tử vong mỗi năm.
Sai sót do thuốc thường xuyên xảy ra tại các bệnh viện và mặc dù không phải tất cả
đều gây thiệt hại cho bệnh nhân nhưng chi phí rất tốn kém [48]. Riêng đối với sai
sót về thuốc liên quan đến hóa trị liệu, một nghiên cứu đã ước tính rằng nếu các lỗi
bị ngăn chặn không được phát hiện ra, sẽ dẫn tới hậu quả là tổng chi phí ước tính
trong 12 tháng là 92907 euro, bao gồm 74% cho chi phí nằm viện và 26% cho chi
phí các thuốc bổ sung [68].
Nguyên nhân của sai sót liên quan đến thuốc được viện thực hành an toàn
thuốc Hoa Kỳ (ISMP - Institute for Safe Medication Practices) tổng kết dựa trên các
yếu tố hệ thống ảnh hưởng đến việc dùng thuốc, bao gồm thiếu thông tin về tình
trạng sức khỏe bệnh nhân; thiếu thông tin về thuốc; ghi nhãn thuốc không rõ ràng,
thiếu nhãn thuốc hoặc nhãn thuốc và bao bì nhìn giống nhau, tên thuốc không rõ
ràng, nhìn giống nhau hoặc nghe giống nhau; nhân viên y tế không được đào tạo
đầy đủ, năng lực và kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm kém; môi trường và điều kiện
làm việc không tốt (không gian chật hẹp, thiếu ánh sáng, nhiệt độ cao, không đủ
điều kiện bảo quản, công việc quá tải) [25].
Sai sót liên quan đến thuốc đối với thuốc điều trị ung thư có thể trở nên đặc
biệt nghiêm trọng do rất nhiều thuốc có chỉ số điều trị hẹp, độc tính cao dù ở liều

điều trị, phác đồ hóa trị liệu rất phức tạp và bệnh nhân ung thư là nhóm bệnh nhân
dễ bị ảnh hưởng bất lợi do họ có khả năng chịu đựng kém [59]. Trong một phân tích
so sánh liên quan tới nhiều khoa tại Israel (2010), tỉ lệ sai sót liên quan đến thuốc
cao nhất ở khoa huyết học – ung thư (2,48 lỗi/100 bệnh nhân – ngày), sau đó là
khoa chăm sóc tích cực (0,82 lỗi/100 bệnh nhân – ngày), trong đó lỗi xảy ra phổ
biến nhất ở nhóm thuốc kháng khuẩn (38,7%) và nhóm thuốc điều trị ung thư
(15,6%) [72]. Sai sót liên quan đến thuốc ở khoa ung bướu thường do rất nhiều
nguyên nhân, bao gồm gián đoạn quá nhiều trong quá trình xử lý đơn thuốc hoặc

5


chuẩn bị thuốc; khoảng cách xa giữa khoa dược và khu vực điều trị cho bệnh nhân,
thiếu bản sao chép đơn đúng của bác sĩ kê đơn hoặc sử dụng bản sao chép không
đọc được; thông tin nhãn và đóng gói của nhà sản xuất không đầy đủ; viết tắt tên
thuốc; tên thuốc trong cùng nhóm phát âm tương tự nhau (paclitaxel/docetaxel,
vincristin/vinblastin, doxorubicin/daunorubicin/idarubicin/epirubicin); thiếu kết quả
của phòng xét nghiệm và/hoặc thiếu thông tin về bệnh nhân như tuổi, chiều cao, cân
nặng; nhầm lẫn liều của mỗi chu kỳ với liều hằng ngày, tiêm nhầm các thuốc như
vincristin, doxorubicin và daunorubicin vào trong nội tủy sống có thể gây tử vong
[46].
Hiện nay trên thế giới, công tác phòng chống sai sót liên quan đến thuốc điều
trị ung thư được coi là một ưu tiên trong các bệnh viện [10], với nhiều tài liệu
khuyến cáo, hướng dẫn đã được xuất bản để giảm thiểu khả năng xảy ra sai sót. Các
hướng dẫn này bao gồm các khuyến nghị cho một hệ thống phương pháp tiếp cận
đa ngành bao gồm giám sát sử dụng thuốc, hướng dẫn kê đơn, phương pháp chuẩn
bị, cấp phát và thực hiện thuốc [22], [25], [40], [43].
1.2.2. Sai sót liên quan đến giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc
Sai sót liên quan đến thuốc trong giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc được
định nghĩa là các sai lệch trong quá trình chuẩn bị, thực hiện thuốc so với chỉ định

của bác sĩ, hướng dẫn của bệnh viện và nhà sản xuất [28], [36], [75].
Thực hiện thuốc là giai đoạn có nguy cơ sai sót cao nhất trong công việc thực
hành của điều dưỡng. Thực hiện 5 đúng (đưa đúng liều của đúng thuốc cho đúng
bệnh nhân vào đúng thời điểm bằng đường dùng đúng) là nền tảng để giảm thiểu sai
sót [44].
Về phân loại sai lệch trong chuẩn bị và thực hiện thuốc, các nghiên cứu đều
phân loại như sau: sai lệch trong chuẩn bị bao gồm sai thuốc, sai do bỏ lỡ thuốc, sai
liều do lỗi chuẩn bị, sai liều, sai do thêm liều, sai dạng bào chế, thuốc có nguy cơ bị
hỏng, sai kỹ thuật chuẩn bị, lỗi sai chuẩn bị khác và sai sót trong thực hiện thuốc
bao gồm sai do bỏ lỡ thuốc, sai thời điểm thực hiện thuốc, sai kỹ thuật thực hiện

6


thuốc, sai tốc độ thực hiện thuốc, sai đường dùng và lỗi sai thực hiện khác [9], [15],
[29], [36], [62], [81].
Trong nghiên cứu phối hợp đa ngành của Serrano – Fabia và cộng sự (2010)
về sai sót liên quan đến thuốc điều trị ung thư, sai sót trong chuẩn bị và thực hiện
thuốc chiếm tỉ lệ là 21,0% và 1,1% trong tổng số các sai sót. 70% (41/58 trường
hợp) sai sót trong giai đoạn chuẩn bị ảnh hưởng đến bệnh nhân (67,2% sai dung môi
tương hợp không cần can thiệp, 3,4% sai sót có tác động thực sự lên hiệu quả điều
trị do thiếu liều). Tỉ lệ này trong giai đoạn thực hiện thuốc là 66,6% (2/3 trường
hợp). Trong số các sai sót ảnh hưởng đến bệnh nhân, tỉ lệ lớn nhất (14,1%) thuộc về
sai sót trong chuẩn bị thuốc dùng đường tĩnh mạch, cụ thể là chuẩn bị thuốc với
dung môi khác với dung môi được quy định trong phác đồ [74].
Trong nghiên cứu của Ford và cộng sự (2006) về sai sót trong chuẩn bị và
thực hiện thuốc đường tĩnh mạch trong khoa ung thư, sai sót trong giai đoạn chuẩn
bị và thực hiện thuốc chiếm 38% và 41% tổng số sai sót, trong đó chỉ 2% sai sót
được đánh giá có thể dẫn tới biến cố bất lợi [36].
Trong một nghiên cứu về đặc điểm sai sót liên quan tới hóa trị liệu ở trẻ em

trong cơ sở dữ liệu báo cáo tự nguyện MEDMARX của Mỹ, sai sót trong giai đoạn
thực hiện thuốc chiếm 48%. Các loại sai sót phổ biết nhất là: sai liều (22,9%), sai
thời gian (22,6%), sai do bỏ lỡ thuốc (14,1%), sai kỹ thuật thực hiện thuốc/sai
đường dùng (12,2%). Trong tổng số các sai sót, 85% ảnh hưởng tới bệnh nhân và
15,6% yêu cầu thêm giám sát hoặc can thiệp điều trị tới bệnh nhân [69]. Một nghiên
cứu khác về sai sót liên quan đến thuốc gây độc tế bào đường tiêm cho thấy 42% sai
sót xảy ra trong giai đoạn chuẩn bị thuốc ở khoa Dược, 16% do sai sót xảy ra trong
quá trình chuẩn bị và thực hiện thuốc của điều dưỡng trên bệnh nhân [37]. Sai thời
gian truyền là một trong hai loại sai sót phổ biến nhất trong nghiên cứu Mayank và
cộng sự (2014), chiếm 26% tổng số sai sót [29].
Tổng quan về các biến cố trong quá trình thực hiện vincristin, Gilbar và cộng
sự (2007) đã tổng kết có 23 trường hợp báo cáo tiêm nhầm vincristin vào trong nội
tủy sống, trong đó có 18 trường hợp tử vong [39].

7


Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thùy Giang (2014) về khảo sát cách sử
dụng thuốc chống ung thư tại khoa Phụ ung thư – bệnh viện Phụ Sản Trung Ương
cho thấy sai lệch trong giai đoạn pha chế và thực hiện thuốc trung bình là 3,2 sai
lệch/lượt sử dụng thuốc, trong đó tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn thực hiện chiếm
67,7% và giai đoạn pha chế chiếm 32,3%. Sai lệch trong pha chế chủ yếu là sai kỹ
thuật pha chế (62,7%), tiếp theo là các lỗi sai liều do pha chế (18,9%), thuốc có
nguy cơ hỏng (13,1%) và bỏ thuốc (5,2%). Riêng sai lệch trong giai đoạn thực hiện
thuốc xảy ra 100% số lượt quan sát về lỗi tốc độ tiêm truyền, không tráng dây
truyền trước và sau mỗi lần dùng thuốc [5].
Nguyên nhân của sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc bao gồm sự thiếu
nhận thức về rủi ro có thể gặp phải, thiếu quy trình hợp lý và các thiết bị cần thiết,
không kiểm tra thông tin của bệnh nhân trước khi sử dụng, lưu trữ chế phẩm tương
tự trong cùng khu vực, không đủ số lượng nhân viên, nhân viên không được đào tạo

và không duy trì khả năng tập trung khi thực hành, không kiểm tra thứ tự thực hiện
thuốc và nhãn cảnh báo không đầy đủ, thiếu kiểm tra độc lập bởi dược sĩ thứ hai
trước khi thực hiện thuốc. Ngoài ra, sử dụng các thuốc ít quen thuộc hoặc đòi hỏi
thiết bị chuyên dụng có thể dễ dẫn tới sai sót hơn. Các thuốc cần nhiều bước trong
quá trình sử dụng thuốc cũng có thể tỉ lệ mắc lỗi cao hơn. Các yếu tố môi trường
như tiếng ồn, bị gián đoạn trong khi thực hiện một quy trình dùng thuốc và thiếu
ánh sáng cũng đóng góp vào lỗi này [10], [57].
Để hạn chế cơ hội xảy ra sai sót khi chuẩn bị và thực hiện thuốc, có thể giảm
thiểu các bước trong quy trình, cần có quy trình hướng dẫn tiêm phù hợp và sử dụng
các thiết bị kiểm soát tốc độ tiêm truyền [65], cải thiện chất lượng đào tạo nhân
viên, sử dụng các sản phẩm được chuẩn bị sẵn từ công ty dược [57], giới thiệu và
hướng dẫn các chương trình đào tạo cho điều dưỡng. Các nghiên cứu đã khẳng định
rằng đào tạo, xây dựng quy trình chuẩn và các hướng dẫn là cách tiếp cận thành
công để giảm thiểu tỉ lệ các sai sót liên quan đến thuốc, đặc biệt trong môi trường
thực hành có nguồn lực hạn chế [53], [63], [70]. Ngoài ra, kiểm tra chéo giữa hai

8


nhân viên y tế trong quá trình chuẩn bị và thực hiện thuốc cũng là một kỹ thuật thiết
yếu để giảm thiểu các sai sót liên quan đến thuốc [71].
1.3. Kỹ thuật xác định sai sót liên quan đến chuẩn bị và thực hiện thuốc
Có nhiều kỹ thuật phát hiện sai sót liên quan đến chuẩn bị và thực hiện thuốc
như kỹ thuật tự báo cáo – giấu tên, kỹ thuật tổng hợp hồ sơ bệnh án, kỹ thuật báo
cáo biến cố xảy ra, kỹ thuật phân tích biến cố nghiêm trọng, kỹ thuật quan sát trực
tiếp, kỹ thuật tự báo cáo sử dụng phương pháp phỏng vấn, báo cáo sự thay đổi của
điều dưỡng tham dự [34], [35]. Trong đó kỹ thuật quan sát trực tiếp được nhiều
nghiên cứu lựa chọn để thu thập dữ liệu về các sai sót trong chuẩn bị và thực hiện
thuốc.
Kỹ thuật quan sát trực tiếp (direct observation) là một kỹ thuật được phát

triển bởi Baker và McConnell, xuất hiện từ năm 1960 [9], [14]. Phương pháp này
dựa trên kỹ năng quan sát trực tiếp của người quan sát có chuyên môn đã được đào
tạo [14], được sử dụng chủ yếu để phát hiện sai sót trong giai đoạn chuẩn bị hoặc
thực hiện thuốc [52]. Người quan sát đi theo điều dưỡng viên, chứng kiến quá trình
chuẩn bị và thực hiện thuốc đồng thời ghi chú lại những gì được nhìn thấy. Sau đó
người quan sát đối chiếu với y lệnh hoặc y văn, nếu có sự khác biệt một sai sót sẽ
được tính. Tuy nhiên, kỹ thuật này đòi hỏi người quan sát không tiết lộ mục đích
thực sự của nghiên cứu [9].
Kỹ thuật quan sát trực tiếp có ưu điểm là tính hiệu lực cao và tính khách
quan, tránh được ảnh hưởng do thiếu nhận thức về sai sót, không dám nhận sai sót
để báo cáo sai sót, sai số do nhớ lại, kỹ năng giao tiếp kém, trong khi đó ảnh hưởng
của người quan sát lên đối tượng không đáng kể. Phương pháp được tiến hành đơn
giản, dữ liệu thu được trong vài giờ, không quy trách nhiệm, tạo điều kiện cho các
thử nghiệm dựa trên bằng chứng thiết lập những đề xuất để thay đổi hệ thống, chất
lượng được đánh giá bởi bên thứ 3 và là cơ sở để lập hồ sơ theo dõi sử dụng thuốc
quốc gia [14]. Phương pháp cho phép phát hiện được nhiều sai sót hơn so với các
phương pháp khác đồng thời nhận ra được mối liên quan giữa sai sót và yếu tố liên
quan tới sai sót [9].

9


Trong một tổng quan hệ thống về các phương pháp đánh giá an toàn thuốc
cho thấy kỹ thuật quan sát trực tiếp có thể nhận ra được số lượng lớn nhất các vấn
đề liên quan đến thuốc khi được so sánh với khác như kỹ thuật tổng hợp báo cáo
biến cố xảy ra, tổng hợp hồ sơ bệnh án [55]. Theo nghiên cứu của Flyn và cộng sự
(2002), khi so sánh 3 phương pháp xác định sai sót do thuốc trong 36 cơ sở y tế là
phương pháp tổng hợp báo cáo sự cố, phương pháp xem biểu đồ và phương pháp
quan sát trực tiếp, cho thấy phương pháp quan sát trực tiếp phát hiện lỗi chính xác
hơn với tốc độ cao hơn nhiều so với hai phương pháp còn lại. Tính hợp lệ của kết

quả thu được từ phương pháp quan sát trực tiếp cũng cao hơn, bao gồm cả kết quả
cho các lỗi được đánh giá có tiềm năng đáng kể về mặt lâm sàng [35].
Tuy nhiên kỹ thuật này đòi hỏi người quan sát có một thể chất và tinh thần
tốt. Người quan sát phải được đào tạo kiến thức và chuyên môn, tên thuốc; có khả
năng đọc được chỉ định của người kê đơn, xác định được quy trình chuẩn bị và thực
hiện thuốc đúng để có thể phát hiện và phân loại sai sót. Để giảm thiểu ảnh hưởng
của người quan sát đến đối tượng quan sát (điều dưỡng), người quan sát phải công
bằng và tế nhị [9].
Baker và cộng sự (1966) [16] đã kiểm tra ảnh hưởng của người quan sát đến
đối tượng quan sát và giám sát tỉ lệ sai sót của điều dưỡng trong 5 ngày liên tiếp.
Nghiên cứu chỉ ra sự có mặt của người quan sát không ảnh hưởng đến tỉ lệ sai sót.
Nếu người quan sát công bằng và tế nhị thì đối tượng quan sát sẽ nhanh chóng cư
xử lại bình thường trong một đến ba giờ của lần quan sát ban đầu [9]. Để hạn chế
sai lệch của người quan sát các nghiên cứu thường lựa chọn người quan sát có kinh
nghiệm như dược sĩ và y tá [14].
1.4. Nguy cơ phơi nhiễm với thuốc độc hại
Đối với bệnh nhân ung thư, lợi ích của việc điều trị vượt xa so với nguy cơ
độc tính của các thuốc điều trị ung thư. Tuy nhiên, đối với những người khỏe mạnh,
nguy cơ phơi nhiễm với những thuốc này gây nên nguy cơ tiềm tàng đối với sức
khỏe và sinh sản trong tương lai. Do đó, nhận thức được ảnh hưởng của phơi nhiễm
nghề nghiệp và tuân thủ các hướng dẫn an toàn khi thao tác với thuốc điều trị ung

10


thư là chiến lược tốt nhất để bảo vệ người lao động tham gia vào công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân.
1.4.1. Phơi nhiễm nghề nghiệp với thuốc độc hại
Người lao động có thể bị phơi nhiễm với các thuốc độc hại ở bất kỳ thời
điểm nào trong quá trình sản xuất, vận chuyển, phân phối, giao nhận, lưu trữ, chuẩn

bị, sử dụng cũng như xử lý chất thải, bảo trì và sửa chữa thiết bị [31], [54], [67].
Nguy cơ tác động tới sức khỏe của thuốc độc hại chịu ảnh hưởng bởi mức độ phơi
nhiễm, hoạt lực và độc tính của thuốc. Nhân viên y tế có các loại phơi nhiễm khác
nhau, phụ thuộc vào công việc của họ (kỹ thuật viên dược phơi nhiễm khi chuẩn bị
thuốc còn y tá phơi nhiễm khi thực hiện thuốc hoặc xử lý chất thải của bệnh nhân).
Tuy nhiên, phơi nhiễm cũng có thể xảy ra khi làm việc trong môi trường có nồng độ
cao hóa trị liệu [58].
Thuốc có thể vào cơ thể do hít phải những giọt nhỏ, bụi và hơi của thuốc,
tiếp xúc trực tiếp qua da hoặc mắt, hấp thu qua da, ăn uống, hút thuốc trong quá
trình chuẩn bị, thực hiện hoặc tiêu hủy thuốc gây độc tế bào hoặc ngẫu nhiên do
tiêm phải [58], [78]. Trong đó con đường hấp thu qua da là con đường quan trọng
nhất mà thuốc xâm nhập vào cơ thể, do đó, bề mặt bị nhiễm bẩn trong khu vực làm
việc đóng vai trò quan trọng trong phơi nhiễm nghề nghiệp [49].
Trong thời gian chuẩn bị và thực hiện thuốc, một số thao tác có thể giải
phóng ra các hạt khí dung vào trong khu vực làm việc như khi hoàn nguyên thuốc
tạo áp suất trong các lọ làm thuốc phun ra xung quanh kim hoặc thông qua lỗ kim
hoặc khi áp suất âm quá cao gây ra rò rỉ đầu kim tiêm khi rút thuốc ra khỏi lọ [12],
[18], sử dụng bơm và kim tiêm hoặc ống lọc để luân chuyển thuốc, bẻ ống tiêm
[27].
Phơi nhiễm với thuốc qua da có thể phát sinh do thuốc gây độc tế bào có ở
phía ngoài lọ và ống tiêm. Ô nhiễm có sẵn trên lọ và ống thuốc trước khi chuẩn bị
sẽ dẫn đến phân tán ô nhiễm ra môi trường làm việc [18].
Nguy cơ lớn nhất là tiếp xúc trực tiếp qua da với thuốc khi xảy ra sự cố tràn
hoặc rò rỉ. Một số nghiên cứu cho thấy thuốc bị nhiễm trên các bề mặt như bề mặt

11


lọ, tủ an toàn sinh học (BSC), bàn, sàn nhà, trang thiết bị và hầu hết bề mặt trong
khu vực điều trị bệnh nhân. Tiếp xúc với da cũng xảy ra khi nhân viên làm việc với

bề mặt bị ô nhiễm trong quá trình chuẩn bị, thực hiện thuốc hoặc tiêu hủy thuốc độc
hại. Xử lý chất dịch cơ thể hoặc quần áo, khăn, băng vết thương và vật liệu khác
cũng làm tăng nguy cơ phơi nhiễm [58]. Ngoài ra, nước tiểu, phân, chất nôn, mồ hôi
và bộ đồ giường, quần áo có thể bị ô nhiễm với các loại thuốc. Khả năng này có
nghĩa là nguy cơ không chỉ với y tá mà còn với người làm việc giặt đồ, dịch vụ vận
chuyển, gia đình và bạn bè của bệnh nhân [18].
Khi thực phẩm và đồ uống được chế biến, lưu trữ hoặc tiêu thụ trong khu
vực làm việc, chúng có thể dễ dàng bị nhiễm các tiểu phân thuốc có trong không
khí. Tương tự như vậy, hút thuốc lá, dùng mỹ phẩm và nhai kẹo cao su cũng có thể
dẫn đến phơi nhiễm thuốc gây độc tế bào qua đường tiêu hóa [58].
Các thao tác nghề nghiệp có thể dẫn đến phơi nhiễm với thuốc độc hại được
liệt kê trong Phụ lục 4 [60].
Các yếu tố ảnh hưởng đến phơi nhiễm nghề nghiệp với thuốc độc hại bao
gồm thao tác với thuốc, tần suất và thời gian thao tác với thuốc, con đường phơi
nhiễm, sự sẵn có của trang bị bảo hộ và tủ an toàn sinh học (BSC) hoặc tủ vô trùng
cách ly (isolator) trong khu vực chuẩn bị và người lao động không cân nhắc được sự
nguy hiểm lâu dài của phơi nhiễm [38].
1.4.2. Ảnh hưởng của phơi nhiễm với thuốc độc hại
Nhân viên tiếp xúc với các thuốc độc hại thường gặp phải các triệu chứng
cấp tính như kích ứng da, đau họng, ho, kích thích hoặc loét niêm mạc, kích thích
mắt hoặc họng, chóng mặt, đau đầu, rụng tóc, phản ứng dị ứng, tiêu chảy, buồn nôn
và nôn [17], [18], [67]. Phơi nhiễm nghề nghiệp có liên quan đến gia tăng đáng kể tỉ
lệ phá hủy ADN, vô sinh, sảy thai tự nhiên, sinh non, trẻ thiếu cân, bất thường thai
nhi, dị tật bẩm sinh ở trẻ trước khi sinh, thiểu năng học tập của con cái của y tá xử
lý hóa trị liệu trong thời gian mang thai, tăng nguy cơ bị bệnh bạch cầu và ung thư
khác, tăng các chỉ dấu sinh học của độc tính lên gen, thay đổi di truyền lâu dài [17],
[23], [31], bất thường hình thái tế bào hoặc đột biến gen [58], tăng số lượng sai hình

12



nhiễm sắc thể, trao đổi nhiễm sắc thể chị em, đột biến điểm, chất gây đột biến trong
nước tiểu và tăng thải trừ thioether trên những y tá xử lý thuốc điều trị ung thư [77].
Nhiều độc tính quan trọng xảy ra ở cơ quan và mô như tủy xương (gây giảm bạch
cầu, thiếu máu, giảm tiểu cầu), gan, bàng quang, thận, phổi [18]. Một số thuốc độc
hại được xác định trong mẫu nước tiểu của những người thao tác với thuốc điều trị
ung thư

bao gồm cyclophosphamid,

ifosfamid, doxorubicin,

epirubicin,

cisplatin/carboplatin [38], [60].
Từ những nguy cơ trên, nhiều tổ chức, cơ quan đã đưa ra các tài liệu khuyến
cáo, hướng dẫn về thao tác an toàn với các thuốc độc hại/thuốc điều trị ung thư cho
mọi nhân viên y tế có liên quan đến quá trình phân phối và sử dụng nhóm thuốc này
[12], [26].
1.5. Các biện pháp thực hành an toàn trong quy trình chuẩn bị và thực hiện
thuốc điều trị ung thƣ
1.5.1. Biện pháp phòng tránh phơi nhiễm với thuốc độc hại
Tính gây ung thư, gây quái thai và đột biến không có mối tương quan với
liều lượng tối thiểu của thuốc điều trị ung thư. Việc thay thế thuốc điều trị ung thư
bằng hoạt chất ít độc hơn là khó thực hiện. Biện pháp bảo hộ tổng thể là khó có thể
thực hiện được, đặc biệt trong thời gian điều trị và chăm sóc bệnh nhân [18]. Do đó,
cần có biện pháp phòng tránh phơi nhiễm với thuốc độc hại của nhân viên y tế đến
mức thấp nhất có thể. Chuẩn bị thuốc độc hại trong khu vực tập trung, được thực
hiện bởi nhân viên được đào tạo, có sử dụng tủ vô trùng cách ly (isolator) hoặc tủ an
toàn sinh học (BSC) và trang bị bảo hộ (PPE) là những biện pháp quan trọng nhất

bảo vệ nhân viên y tế phòng tránh phơi nhiễm [58]. Nhân viên y tế thao tác với
thuốc độc hại cần được đào tạo ban đầu và liên tục theo tiêu chuẩn thực hành tốt
nhất bao gồm an toàn khi thao tác và xử trí sự cố tràn hoặc rò rỉ [30]. Nhân viên
không được ăn uống, nhai kẹo cao su, dùng mỹ phẩm hoặc trữ đồ ăn gần khu vực
chuẩn bị thuốc. Nhân viên đang mang thai hoặc dự định có thai hoặc đang cho con
bú nên được chuyển sang làm công việc khác không phải tiếp xúc với thuốc độc hại.
Nhân viên bị nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm kết mạc, nhiễm khuẩn ngoài da,

13


đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch nên ngừng việc chuẩn bị thuốc nếu có thể.
Nhân viên nên có các khoảng giải lao trong thời gian chuẩn bị để duy trì khả năng
tập trung [21].
Trong lúc thao tác, nếu thuốc gây độc tế bào vô ý tiếp xúc với da hoặc quần
áo của người lao động thì ngay lập tức cởi bỏ quần áo, rửa kỹ da khu vực bị ảnh
hưởng bằng xà phòng và nước, sau đó tiếp tục rửa trong vòng 15 phút. Nếu thuốc
bắn vào mắt, cần rửa mắt bằng nước muối sinh lý, sau đó nhỏ mắt bằng dung dịch
thiosylfate 3%; còn trong trường hợp vô tình bị kim đâm hoặc chấn thương do vật
sắc nhọn, nên để vết thương chảy máu tự do, dưới vòi nước chảy nhẹ và rửa kỹ
bằng xà phòng [2], [30].
Hiện nay nhiều tổ chức trên thế giới đã xuất bản nhiều hướng dẫn thao tác an
toàn với thuốc độc hại nhằm giảm thiểu phơi nhiễm nghề nghiệp cho nhân viên y tế,
chủ yếu tập trung vào vấn đề áp dụng trang thiết bị bảo hộ, các biện pháp giám sát y
tế và giám sát môi trường [21], [26], [60].
Các trang phục bảo hộ được khuyến cáo sử dụng bao gồm:
Găng tay: Hai lớp găng tay nên được đeo trong bất cứ quá trình nào thao tác
với thuốc độc hại như tiếp xúc với vỏ hộp và lọ thuốc độc hại, chuẩn bị và thực hiện
thuốc độc hại, xử lý rác thải từ thuốc độc hại và rác thải từ bệnh nhân điều trị thuốc
này, lau dọn khi làm tràn thuốc [12] [54], [58]. Găng tay bảo vệ hiệu quả và chống

lại sự xâm nhập, thẩm thấu của hầu hết thuốc độc hại. Khả năng thấm thuốc phụ
thuộc vào bản chất của thuốc, chất liệu sản xuất găng, độ dày và thời gian phơi
nhiễm với thuốc. Nên sử dụng loại găng tay chất lượng cao, không có bột, làm từ
nitril, polyurethan, neopren, latex. Tần suất thay đổi găng tay dựa vào mức độ phơi
nhiễm ở mỗi giai đoạn trong quy trình sử dụng thuốc [12], [30]. Trong nhiều nghiên
cứu, găng tay sử dụng trong thời gian chuẩn bị sẽ bị thấm thuốc và dẫn đến thuốc
được hấp thu nên cần phải thay đổi găng tay mỗi 30 phút hoặc ngay lập tức nếu bị
thủng, rách hoặc bị nhiễm hóa chất hoặc tay sau khi thực hiện một liều thuốc độc
hại hoặc ngay khi rời khỏi khu vực thực hiện thuốc [12] [18], [21]. Cần sát khuẩn
găng tay bằng cồn 70% hoặc chất sát khuẩn thích hợp trước khi thực hiện bất kỳ

14


hoạt động chuẩn bị vô khuẩn. Cần rửa tay kỹ bằng xà phòng và nước trước khi đeo
găng và ngay sau khi tháo găng [12] [54], [58]. Nên vứt bỏ găng vào hộp/túi chứa
chất thải độc hại theo quy định xử lý rác thải y tế [12].
Áo bảo hộ: Áo trùm bảo hộ nên được mặc trong thời gian chuẩn bị, thực hiện
thuốc, xử lý rác thải thuốc độc hại hoặc rác thải từ bệnh nhân điều trị với thuốc độc
hại và dọn dẹp sự cố tràn thuốc. Áo bảo hộ dùng khi xử lý thuốc gây độc tế bào nên
sử dụng loại dùng một lần và có khả năng chống lại ô nhiễm của thuốc được sử
dụng [12]. Áo choàng cần phải làm từ chất liệu không có xơ và hủy bỏ được, thấm
nước kém hoặc không thấm nước, kín hoàn toàn đằng trước và cổ, tay dài có chun
co giãn hoặc cổ tay ôm vừa khít. Các loại áo vải hoặc áo khoác phòng thí nghiệm
hấp thụ được chất lỏng và không có hàng rào chống lại quá trình thấm thuốc độc
hại. Chỉ có áo bảo hộ làm từ polyethylen mới ngăn chặn được sự thấm thuốc một
cách đầy đủ. Áo phải được thay đổi trong trường hợp bị nhiễm bẩn, đổ thuốc hoặc
bị rách và kết thúc quy trình xử lý thuốc và không được mặc ra khỏi khu vực chuẩn
bị thuốc độc hại [12] [21]. Áo mặc trong thời gian thực hiện thuốc nên được thay
đổi khi rời khỏi khu vực chăm sóc bệnh nhân và ngay lập tức khi bị nhiễm bẩn. Áo

sau khi loại bỏ cần được xử lý cẩn thận và đúng cách như rác thải y tế để phòng
tránh lây nhiễm cho nhân viên khác và môi trường [12], [30].
Khẩu trang: Khẩu trang nên được dùng khi chuẩn bị và thực hiện thuốc, để
phòng bất kỳ trường hợp có nguy cơ bắn thuốc đồng thời ngăn ngừa ô nhiễm vi sinh
vật trong trường hợp yêu cầu vô khuẩn. Mặt nạ nên được đeo khi màn chắn bằng
kính của tủ an toàn sinh học (BSC) được nâng lên, làm sạch chỗ tràn thuốc độc hại
và khử trùng cả bên trong và bên ngoài tủ an toàn sinh học (BSC) [21]. Khẩu trang
phẫu thuật thông thường không bảo vệ nhân viên y tế tránh khỏi nguy cơ hít phải
các hạt khí dung [12].
Kính bảo hộ: Kính bảo hộ được khuyến cáo sử dụng khi có nguy cơ văng,
bắn thuốc độc hại có thể xảy ra. Trong hầu hết các trường hợp, màn chắn bằng kính
của tủ an toàn sinh học (BSC) nên được cung cấp đầy đủ để bảo vệ nhân viên y tế
khỏi nguy cơ dung dịch thuốc độc hại bắn và phun ra khi chuẩn bị thuốc [21].

15


×