Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Cát Bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.42 KB, 55 trang )

Chuyên đề thực tập
MỤC LỤC
NỘI DUNG...............................................................................................................................................5
Chương 1: Cơ sỞ lý luẬn vỀ phát triỂn du lỊch sinh thái và du lỊch bỀn vỮng
...................................................................................................................................5
THỰC trẠng phát triỂn du lỊch sinh thái Ở Cát Bà..........................................19
2.3.3. Thực trạng về các yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch sinh thái..............28
2.3.4.Thị trường khách du lịch.............................................................................33
2.4. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của du lịch sinh thái Cát Bà.....................34
Chương 3................................................................................................................37
MỘt sỐ giẢi pháp phát triỂn du lỊch sinh thái theo hưỚng phát triỂn du lỊch
bỀn vỮng tẠi Cát Bà.............................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................................53
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN...................................................54
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN.....................................................55
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN CAM KẾT
Kính gửi: Ban Giám Hiệu trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đồng kính gửi: Các thầy cô trong khoa Du lịch & Khách sạn
Tên em là : Hoàng Thị Dịu
Lớp : Du lịch 48
Mã SV : CQ480338
Em xin cam đoan những nội dung trong báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đều do em tự thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy Nguyễn Đình Hòa. Bài
viết này có sử dụng một số tài liệu tham khảo từ sách, báo, bài viết trên các website
của một số tác giả làm tư liệu viết bài nhưng có ghi chú, trích dẫn rõ ràng.
Nếu vi phạm lời cam kết trên em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2010


Người viết
Hoàng Thị Dịu
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, đã có nhiều bước phát triển trong lĩnh vực du lịch, du
lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới. Quan trọng nhất là việc du lịch sinh thái
không chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm. Ngược lại, nó
đã trở thành một thực tế trên toàn cầu. Ở một số quốc gia, nó không được quan tâm
phát triển. Song ở nhiều nước khác, thì vấn đề phát triển du lịch sinh thái lại rất
được chính phủ quan tâm, thường xuất hiện trên các bản tin chính hay các quảng
cáo thương mại công cộng. Du lịch sinh thái mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh
vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở Costa Rica và Velezuela, một số chủ trang
trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ
rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp
bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa
phương. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng
cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng
tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Chính phủ Ba Lan cũng tích
cực khuyến khích du lịch sinh thái và gần đây đó thiết lập một số vùng Thiên
nhiên và Du lịch của quốc gia để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát
triển du lịch quốc gia.
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt Nam
có những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú, kinh tế và giao
lưu quốc tế giúp cho sự phát triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và khu
vực. Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở thành ngành kinh tế quan trọng và trong
tương lai gần hoạt động du lịch được coi là con đường hiệu quả nhất để thu ngoại
tệ và tăng thu nhập cho đất nước. Cát Bà - Hải Phòng, còn gọi là đảo ngọc, được
UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cát Bà được thiên nhiên ban
tặng với rừng nguyên sinh nhiệt đới có nhiều động thực vật quý hiếm, nhiều hang động,

bãi tắm đẹp…Thiên nhiên Cát Bà vẫn còn giữ được nét hoang sơ rất có tiềm năng phát
triển du lịch sinh thái.
Do vậy, em đã chọn đề tài:” Phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà theo hướng
phát triển du lịch bền vững” , với mong muốn có thể hiểu về du lịch sinh thái, và
nghiên cứu về tình hình phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó đưa ra một số
kiến nghị những giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo hướng
phát triển bền vững.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu tổng quan về du lịch sinh thái, mối quan hệ giữa du lịch sinh
thái và phát triển du lịch bền vững.
- Đánh giá thực trạng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà.
- Đưa ra những giải phát nhằm phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà theo
hướng phát triển bền vững.
Nhiệm vụ của đề tài
- Tìm kiếm và thu thập thông tin chính xác và đầy đủ để phục vụ cho việc
trình bày và làm sáng tỏ đề tài.
- Sau khi thu thập thông tin đầy đủ, sẽ tiến hành tổng hợp và phân tích tài liệu
để hoàn thành đề tài.
Đối tượng nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội của Cát Bà.
- Các tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại Cát Bà, từ đó để khai thác hợp
lý và ứng dụng vào việc phát triển du lịch sinh thái ở đây.
Phạm vi nghiên cứu
Khu du lịch Cát Bà- Cát Hải- Hải Phòng.
Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin, tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, đặc
biệt là nét đặc trưng của khu du lịch sinh thái Cát Bà qua sách, báo,
internet…

- Phương pháp nhiên cứu phân tích,tổng hợp.
- Phương pháp thực địa.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
VÀ DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Du lịch sinh thái
1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái xuất hiện như một khái niệm vào cuối thập niên 1960. Sau này
có rất nhiều định nghĩa về du lịch sinh thái.
Du lịch sinh thái là du lịch mà chủ yếu là đi đến những vùng thiên nhiên tương
đối chưa ai đụng tới hay chưa bị ô nhiễm với mục đích cụ thể là nghiên cứu, ngưỡng
mộ, và thưởng thức phong cảnh cùng với các loại thực vật và động vật hoang dã của
nó, cũng như bất cứ biểu hiện về văn hóa nào (cả quá khứ lẫn hiện tại) được tìm thấy
trong các vùng này…Điểm chính yếu là người đi du lịch sinh thái có cơ hội đắm
mình vào thiên nhiên theo một cách thức thường không có sẵn trong môi trường đô
thị.
Du lịch sinh thái là một cuộc du lịch có trách nhiệm đến những vùng thiên nhiên
mà bảo tồn môi trường và duy trì bền vững phúc lợi của nhân dân địa phương (Hội
Du lịch Sinh thái)
Du lịch sinh thái là một trải nghiệm du lịch thiên nhiên mang lại thông tin bổ ích
mà góp phần vào việc bảo tồn hệ thống sinh thái, trong khi đó tôn trọng tình trạng
nguyên vẹn của các cộng đồng chủ nhà (Hội đồng Tư vấn Môi trường Canada).
Du lịch sinh thái là đi du lịch đến những vùng hoang sơ, dễ bị hư hại và thường
được bảo vệ mà cố gắng gây ra tác động rất thấp và (thường) có qui mô nhỏ. Nó giúp
giáo dục người đi du lịch; cung cấp nguồn quỹ cho việc bảo tồn; trực tiếp làm lợi cho
việc phát triển kinh tế và việc trao quyền về chính trị của các cộng đồng địa phương;
và thúc đẩy sự tôn trọng đối với các nền văn hóa khác nhau và các quyền của con
người (Martha Honey – giám đốc Chương trình An ninh và Hòa bình tại Viện Nghiên

cứu về Chính sách)
1.1.2. Các đặc trưng của du lịch sinh thái
1.1.2.1. Tài nguyên tự nhiên trong du lịch sinh thái là những tài nguyên còn
tương đối nguyên sơ
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
- Môi trường tự nhiên trong du lịch sing thái còn tương đối nguyên sơ, chưa chịu
hoặc ít bị xâm hại bởi bàn tay con người
- Văn hoá bản địa : là các di tích kiển trúc, các giá trị văn hoá tồn tại dướ dạng
vật thể, phi vật thể được tạo ra bởi chính điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển
của nơi điểm đến.
- Mỗi khu vực bảo tồn tự nhiên phải đảm bảo tính đa dạng sinh học,có tính đặc
thù để mỗi điểm đến tham quan có sự hấp dẫn riêng đối với khách du lịch.
1.1.2.2. Các sản phẩm du lịch sinh thái hướng tới bảo tồn giá trị tự nhiên, văn
hoá, xã họi nơi điểm đến
- Bảo tồn các giá trị tự nhiên của hệ sinh thái vốn có: mục đích của du lịch sinh
thái là giúp khách du lịch hiểu biết về thiên nhiên, về hệ sinh thái tự nhiên. Từ
đó đánh giá lại những hành động của mình đối với thiên nhiên,tìm cách sống
hoà hợp với thiên nhiên
- Bảo tồn các giá trị văn hoá của cộng đồng dân cư địa phương
- Bảo tồn và nâng cao các giá trị xã hội của dân cư địa phương
1.1.2.3. Du lịch sinh thái trực tiếp mang lại phúc lợi cho cộng đồng dân cư địa
phương
- Đóng góp về vật chất: xoá đối giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho dân cư địa
phương, giúp tăng thu nhập.
- Đóng góp về tinh thần: người dân địa phương được tôn trọng không bị phân
biệt về văn hoá địa phương, giọng nói ngôn ngữ , phong tục tập quán…, được
thừa nhận làm chủ đối với thiên nhiên.
- Đóng góp nâng cao về mặt nhận thức: dân cư địa phương thấy được tầm quan
trọng của du lịch sinh thái từ đó có ý thức bảo vệ tài nguyên tự nhiên và giữ gìn

bản sắc văn hoá của địa phương.
1.1.3. Các yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của
các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự
nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các
đ
i
ều
kiện địa lý, khí hậu và động vật và
thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal
ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp (agri-cultural
ecology), sinh thái khí hậu (ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology).
Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh
học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể
hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống,
mối liên hệ
giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp
lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu... đó là các hệ sinh thái (eco-systems)
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập

các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (habitats) (Theo
công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hộ nghị thượng đỉnh Rio de
Jannero về môi trường).
Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên
nhiên (natural
-
based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và
phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao

nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích vì sao hoạt
động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt
ở các vườn quốc gia, nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao
và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số
loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn hoặc các trang trại
điển hình.
Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh
thái ở 2 điểm:
- Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch
sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am
hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều
này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch
sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình
tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn
viên.Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác với người dân địa phương
để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò
là một người phiên dịch.
- Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành nguyên
tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và
không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ đơn
giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn
hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc mất đi. Ngược lại, các nhà điều
hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo
tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương
nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ
một cách lâu dài các giá trị tự nhiên
và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng
cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách.
Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt
động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần

Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “
sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả
những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một
thời điểm.
Đứng trên góc độ vật lý, sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa khách
du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn về
không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của
họ.
Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt
đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời sống,
văn hoá, kinh tế-xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa
phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu
du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này thì năng lực
quản lý của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả
năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến
môi trường và xã hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, như vậy khó có
thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác
nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách
tương đối bằng phương pháp thực nghiệm.
Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định sức chứa là “quan niệm” về
sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những điều
kiện phát triển xã hội khác nhau. Rõ ràng để đáp ứng
yêu cầu này, cần phải tiến
hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể
để căn cứ vào đó mà có các
quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối tượng

khách/thị trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái
không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách.
Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách
du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh
nghiệm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn,
song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái.
Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau
công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững.
Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm
khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng
trưởng của du lịch .
Từ những yêu cầu trên đây của du lịch sinh thái ta rút ra những nguyên tắc cơ
bản để phát triển du lịch sinh thái:
- Phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường và
khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự nhiên.
- Không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về
môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên ngoài
(tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó.
- Tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy sự
công nhận các giá trị này .
- Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đặt lên hàng đầu do đó
mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa
của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trường cho
sự thuận tiện cá nhân.
- Phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và
đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay
khoa học).

- Phải đưa ra những kinh nghiệm khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên, đó là
những kinh nghiệm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cái lạ
cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể.
- Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên
đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham
gia .
- Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban nghành chức năng: địa phương,
chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và các khách du lịch (trước,
trong và sau chuyến đi).
- Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu
biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
- Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất quan
trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và
các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động.
- Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ
quốc tế cho ngành.
1.2. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác
1.2.1. Du lịch dựa vào thiên nhiên
Du lịch dựa vào thiên nhiên là loại hình du lịch là loại hình du lịch sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, với động cơ chính của khách du lịch là quan sát và cảm thụ thiên
nhiên. Như vậy, du lịch dựa vào thiên nhiên mang một ý nghĩa rộng bao chùm cả du
lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác.
Du lịch dựa vào thiên nhiên không mang tính trách nhiệm cao đối với môi
trường và cộng đồng cư dân địa phương. Nhưng du lịch sinh thái đòi hỏi tính trách
nhiệm cao đối với môi trường và cộng đồng dân cư địa phương.
Du lịch dựa vào thiên nhiên có các loại hình du lịch như: du lịch nghỉ dưỡng,
tham quan, mạo hiểm.
Du lịch mạo hiểm (theo tổ chức du lịch mạo hiểm tỉnh Quebec Canada): là hoạt

động thể chất ngoài trởi hoặc các hoạt động kết hợp diễn ra tại một khu vực thiên
nhiên nhất định mà nó yêu cầu những phương tiện vận tải khác với truyền thống, có
thể là động cư hay không phải động cơ. Những hoạt động này mang tính mạo hiểm
mức độ rủ ro thì tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường, bản chất của hoạt động và các
phương tiện vận tải được sử dụng.
Du lịch mạo hiểm không chú ý đến việc tìm hiểu về thiên nhiên, hệ sinh thái mà
khai thác tài nguyên tự nhiên nhằm mục đích mạo hiểm,chứng tỏ khả năng chinh
phục thiên nhiên của con người. Còn du lịch sinh thái đi tìm sự thoả thuận cùng
chung sống hài hoà với thiên nhiên.
1.2.2. Du lịch dựa vào văn hóa
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch rất phổ biến, tập trung mối quan tâm tới một
quốc gia hay một vùng đất chủ yếu dưới góc độ văn hoá. Du lịch văn hoá bao gồm
các tuyến du lịch đến những nơi có bề dày lịch sử hoặc những nơi có các công trình
văn hoá như các viện bảo tàng, nhà hát…Ngoài ra cũng có hình thức đưa khách đến
các vùng hẻo lánh để dự các lễ hội ngoài trời, đi thăm các nơi ở của những doanh
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
nhân văn hoá, những công trình kiến trúc hay những thắng cảnh thiên nhiên được biết
đến và ca ngợi qua văn chương hội hoạ.
Du lịch văn hoá và du lịch sinh thái đều có mục đích chiêm ngưỡng tìm hiểu,
nghiên cứu các nền văn hoá bản địa độc đáo từ đó làm khơi daỵ tình yêu và trách
nhiệm để bảo tồn, giữu gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo
ra.
1.2.3. Du lịch công vụ
Du lịch công vụ là loại hình du lịch mà khách du lịch kết hợp hai mục đích là
công việc và đi du lịch. Mục đích của khách du lịch trong du lịch công vụ chỉ là
chiêm ngưỡng, tìm hiểu tài nguyên thiên nhiên, không mang tính trách nhiệm bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên, bản sắc văn hoá bản địa như du lịch sinh thái.
1.2.4. Mối quan hệ giữa du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch bền
vững

Chúng ta thấy rằng giữa du lịch sinh thái và du lịch bền vững cũng như du lịch
cộng đồng có những điểm tương đồng về điều kiện, nguyên tắc cũng như mục tiêu.
Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch tham quan, thám hiểm của khách du
lịch đến các vùng thiên nhiên còn hoang dã đặc sắc để chiêm ngưỡng, tìm hiểu,
nghiên cứu các hệ sinh thái, các nền văn hoá bản địa độc đáo từ đó làm khơi dạy
tình yêu và trách nhiệm để bảo tồn, giữ gìn và phát triển môi trường tự nhiên và
cộng đồng dân cư địa phương trong mỗi du khách. Du lịch sinh thái nhấn mạnh và
đề cao các yếu tố giáo dục, nâng cao ý thức con người trong vấn đề bảo vệ, bảo tồn
thiên nhiên, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo.
Trong loại hình du lịch sinh thái không nhất thiết phải có sự tham gia của cộng đồng
và dân cư địa phương.
Du lịch bền vững là hoạt động du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du
lịch và của chính khu du lịch đồng thời bảo vệ thúc đẩy cơ hội phát triển cho tương
lai. Du lịch bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu
cầu kinh tế-xã hội đều được thoả mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá,
các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống các giải pháp hỗ trợ. Du
lịch bền vững xác định vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc lập kế hoạch và
ra quyết định phát triển du lịch. Du lịch bền vững là phục vụ cho mục đích phát
triển con người, cho nên du lịch bền vững không chỉ tập trung vào mục đích kinh tế
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
mà còn nhằm phát triển xã hội bao gồm giáo dục, y tế, môi trường và các vấn đề
văn hoá và tôn giáo.
Du lịch cộng đồng là một phương thức phát triển du lịch bền vững trong đó
cộng đồng dân cư được tham gia trực tiếp bàn về sự phát triển du lịch và tổ chức
cung cấp các dịch vụ cho du khách trên cơ sở điều kiện tự nhiên văn hoá bản địa và
môi trường, thông qua đó cộng đồng được hưởng về mặt vật chất và tinh thần từ
phát triển du lịch.
Như vậy, ta thấy du lịch sinh thái, du lịch bền vững và du lịch cộng đồng đều
coi trọng yếu tố tự nhiên, môi trường. Nhưng trong du lịch sinh thái không nhất

thiết phải có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương, còn trong du lịch bền
vững và du lịch cộng đồng thì coi trọng yếu tố con người.
1.3. Các điều kiện để phát triển du lịch sinh thái
1.3.1. Tài nguyên tự nhiên, văn hoá bản địa phong phú còn tương đối nguyên
sơ có tính đặc thù cao của hệ sinh thái.
Tài nguyên tự nhiên trong du lịch sinh thái phải là những tài nguyên còn tương
đối nguyên sơ, chưa bị con người can thiệp hoặc thay đổi. trong một số giới hạn thì
những thay đổi do con người gây ra đối với tự nhiên phải là những thay đổi chấp
nhận được với khả năng tái tạo cao.
Như vậy du lịch sinh thái không cho phép con người can thiệp vào các hệ sin
thái tự nhiên, cho dù đó là những can thiệp mang lợi ích kinh tế-xã hội cho con người
và dù con chấp nhận đề bù bằng vật chất cho những thiệt hại mà họ định gây ra với
thiên nhiên.
Như chúng ta đã biết, những vùng có vị trí tương tự trên bản đồ thế giới thường
có những đặc điểm chung về khí hậu, nguồn nước, đất đai và các loài động thực vật,
thậm chí là con người đang cư trú tại đó. Sản phẩm du lịch sinh thái cũng như các sản
phẩm thông thường khác, được đưa ra để thu hút sự tò mò tìm hiểu của các khách du
lịch. Như vâỵ, những người làm du lịch đứng ở góc độ kinh doanh cũng phải đưa
những sản phẩm du lịch sinh thái đặc trưng, có tính đặc thù để phân biệt với sản
phẩm du lịch sinh thái ở các địa bàn khác.
Thế mạnh trong mỗi tài nguyên ở mỗi vùng, mỗi khu vực trong phục vụ hoạt
động du lịch sinh thái chính là ở chỗ đưa ra được tính đặc thù về mỗi loài động vật,
thực vật, nguồn nước, đất đai hay khí hậu tại đó. Những thế mạnh này cần được thể
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
hiện bên cạnh tính đa dạng sinh học của tất cả các khu vực, vùng và quốc gia có tài
nguyên để phục vụ du lịch sinh thái.
1.3.2. Sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư địa phương trong việc
phát triển du lịch bền vững
Du lịch sinh thái chỉ hấp dẫn và càng trở nên hấp dẫn hơn khi có sự tham gia

của người dân địa phương.
Thứ nhất, người dân địa phương có được những kinh nghiệm truyền thống rất
quý báu về thiên nhiên. kiến thức về thiên nhiên của người dân địa phương có lợi và
mang lại nhiêu thông tin bổ ích cho các hướng dẫn viên làm việc trong các công ty lữ
hành, các cá nhân triển khai các dự án kinh tế nói chung và u lịch nói riêng tại một
địa bàn nhất định.
Thứ hai, khi người dân bản địa được hưởng lợi ích trực tiếp ừ các di sản do
thiên nhiên ban cho va tổ tiên để lại athì họ không coi đó là di sản mà là tài sản.
Chính vì vậy, họ sẽ tích cực chia sẻ, tham gia đóng góp vào các dự án kinh tế, du lịch
liên squan đến cộng đồng địa phương họ.
1.3.3. Sự cam kết lâu dài và thiết lập hệ thống các nguyên tắc, giá trị đạo đức
trong kinh doanh của các chủ thể quản lý Nhà nước và quản trị kinh
doanh.
Sự cam kết lâu dài
Chính quyền địa phương là cơ quan quản lý hành chính tại địa phương, và là cơ
quan đại diện, bảo vệ quyền lợi của người dân về kinh tế, văn hoá-xã hội và sinh thái
tại mỗi địa phương nhất định.Chính quyền địa phương là cơ quan đưa ra chính sách,
chủ trương tầm vĩ mô nhằm mục đính ngày càng phát triển địa phương mình.
Các cơ quan quản lý về du lịch tương tự như vậy, cũng là các cơ quan quản lý
hành chính nhưng đứng trên góc độ làm du lịch. Ở nhiều nước trên thế giới cũng như
ở Việt Nam, hai cơ quan nói trên cùng phối hợp, hành động để hoạt động du lịch tại
mỗi địa phương đạt hiệu quả cao nhất.
Thiết lập hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức
Hệ thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức trong kinh doanh sản phẩm du lịch
sinh thái được thiết lập trên cơ sở trao đổi, bàn bạc và thống nhất cách thực hiện,
kiểm soát DLST giữa các cá nhân và tổ chức có liên quan trong hoạt động du lịch
này.Họ là: Chính quyền địa phương, cơ quan quản lý về du lịch, các nhà kinh doanh
du lịch, người dân địa phương, các nhà tổ chức phi chính phủ vì môi trường.Những
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập

hệ thống này cũng là cơ sở để đánh giá chất lượng và mức độ phù hợp của những tổ
chức, cá nhân tham gia, tiến hành hoạt động kinh doanh DLST.Tất nhiên, tuỳ thuộc
vào đặc trưng từng địa phương, từng vùng và khu vực mà chi tiết cụ thể trong mỗi hệ
thống các nguyên tắc và giá trị đạo đức nêu trên các phần khác nhau giữa các lãnh thổ
nhưng phải thừa nhận là có cùng triết lý và nguyên tắc thực hiện chung.Các tổ chức,
cá nhân tham gia thực hiện du lịch sinh thái đều chịu sự chi phối của hệ thống các
nguyên tắc đó.
1.3.4. Có sự cố vấn giám sát từ các tổ chức môi trường phi chính phủ
Các tổ chức phi chính phủ quan tâm tới công tác bảo tồn các di sản văn hoá và
thiên nhiên. Các tổ chức phi chính phủ hoạt động vì mục đính phi lợi nhuận, sẵn sang
hỗ trợ, giúp đỡ phát triển hoạt động du lịch sinh thái vì nó mang lại những lợi ích
thực tiễn bền vững. Họ tìm kiếm các hoạt động để hỗ trợ như:
Bảo vệ môi trường thông qua ngăn ngừa, cải thiện, sửa chữa và hồi phục
những tài nguyên bị phá huỷ
Thúc đẩy các cá nhân và tổ chức liên quan đến du lịch sinh thái nhận thức tốt
hơn và bởi vậy quan tâm hơn thay vì cố gắng triệt để các tài nguyên.
1.3.5. Nguồn khách du lịch sinh thái có đặc điểm tiêu dùng tương thích với
sản phẩm du lịch sinh thái
Khách du lịch sinh thái là người tiêu dung du lịch với mục đích chính tham quan
nghiên cứu tài nguyên du lich, có ý thức và trách nhiệm bảo tồn và phát triển thiên
nhiên, có trách nhiệm đối với cộng đồng dân cư bản địa. Khách du lịch sinh thái có
các đặc trưng:
Thứ nhất, yêu thiên nhiên, thích tìm hiểu hệ sinh thái đa dạng và khám phá
những điều bí ẩn của tự nhiên và văn hoá bản địa.
Thứ hai, thích lưu trú trong điều kiện tự nhiên, thích di chuyển bằng các phương
tiện không gây ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, đặc biệt ưu thích các món ăn được coi là đặc sản có giá trị văn hoá ẩm
thực.
Thứ tư, thích tham gia vào các hoạt động đời thường, văn hoá dân gian của cư
dân bản địa.

Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
Sản phẩm du lịch sinh thái có tính hấp dẫn cao bởi ba thành phần cốt lõi tạo ra
hình ảnh thương hiệu của điểm du lịch sinh thái: hệ động vật, thực vật đa dạng phong
phú và văn hoá dân gian độc đáo.
Điều quan trọng là số lượng và loại khách du lịch sinh thái phải phù hợp với đặc
điểm của điểm đến. Điều này đòi hỏi phải có sự giám sát về các du khách. Sự hiểu
biết về các nhóm khách, động cơ và đặc tính của họ là điều cần thiết để đẩy mạnh thị
trường và lập kế hoạch cung cấp các trang thiết bị và dịch vụ. Vì vậy việc thu thập số
lượng thị trường nếu không đầy đủ thoả đáng thì sẽ khiến các nhà ra quyết định tạo ra
một sản phẩm du lịch không có thị trường.
1.4. Phát triển du lịch bền vững
1.4.1. Khái niệm phát triển du lịch bền vững
“ Phát triển bền vững là sự phát triển sử dụng tài nguyên, điều kiện môi trường
hiện có để thoả mãn nhu cầu của các thế hệ đang sống nhưng lại phải đảm bảo cho
các thế hệ tương lai những điều kiện tài nguyên môi trường cần thiết để họ có thể
sống tốt hơn ngày nay ”.
Theo định nghĩa ở trên ta có thể thấy phát triển bền vững không chỉ bao gồm sự
phát triển bền vững về mặt kinh tế mà nó còn phải dựa vào sự bền vững về mặt xã hội
và môi trường. Như vậy phát triển bền vững đem lại cho con người cuộc sống tốt đẹp
về mọi mặt. Chính vì thế mà phát triển bền vững đã trở thành xu thế của thời đại ngày
nay. Nó được áp dụng trong mọi ngành, đặc biệt vấn đề này đối với du lịch lại càng
cần thiết hơn cả. Bởi vì du lịch là dựa vào tài nguyên thiên nhiên, nhân văn để hoạt
động. Có khai thác hiệu quả và hợp lý nó thì du lịch mới phát triển lâu bền được. Từ
khái niệm phát triển bền vững chung cho mọi ngành ta có thể suy ra được khái niệm
phát triển du lịch bền vững.
“ Phát triển du lịch bền vững là hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự
nhiên và nhân văn nhằm đáp ứng được nhu cầu hiện tại của khách du lịch, ngành du
lịch và cộng đồng địa phương nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng của thế
hệ mai sau ”. (Theo định nghĩa của Antonio Machiado)

Như vậy phát triển du lịch bền vững là việc phát triển về mặt kinh tế nhưng vẫn
phải đảm bảo việc duy trì được sự toàn vẹn về môi trường tự nhiên và văn hoá.
1.4.2. Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững
Theo định nghĩa ở trên thì muốn phát triển du lịch bền vững về 3 mặt: kinh tế,
xã hội và môi trường.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
1.4.2.1. Bền vững về kinh tế
Đây là một trong ba yều cầu đối với phát triển bền vững. Nó có ý nghĩa quan
trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
Thứ nhất nó phải bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển ổn định và lâu dài, tạo ra
được nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Muốn được như vậy doanh nghiệp kinh
doanh du lịch và sở du lịch của địa phương phải thoả mãn được những điều kiện sau:
công tác tuyên truyền quảng bá phải được thực hiện nghiêm chỉnh, trong phạm vi
rộng; sản phẩm du lịch phải thật đặc biệt để thu hút được nhiều khách du lịch trong
và ngoài nước. Bên cạnh đó chất lượng của các sản phẩm du lịch cũng cần phải được
đảm bảo, đội ngũ nhân lực cũng cần được đào tạo bài bản có chất lượng cao. Thêm
vào đó cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở đó phải có chất lượng và thuận tiện cho
khách như: tình trạng buồng phòng luôn đáp ứng được cho khách du lịch kể cả vào
thời điểm đông nhất trong năm, giao thông đi lại phải thuận tiện…Làm được nhu vậy
sẽ giữ chân khách ở khu du lich lâu hơn, khách tiêu dùng nhiều hơn. Đó là yếu tố mà
một doanh nghiệp kinh doanh nào cũng muốn đạt được.
Nội dung thứ hai mà yêu cầu bền vững về mặt kinh tế cần có là: kinh doanh du
lịch phải góp phần tích cực vào phát triển của cộng đồng địa phương. Nó thể hiện ở
chỗ có sự phát triển cân đối giữa các ngành nghề, không để có sự chênh lệch quá lớn.
Vì như vậy rất dễ dẫn đến sự mất cân bằng trong nền kinh tế địa phương. Các ngành
nghề không nên phát triển riêng biệt mà cần có sự liên kết chặt chẽ giữa kinh doanh
du lịch với các ngành nghề khác, cùng hỗ trợ nhau phát triển. Chính quyền và doanh
nghiệp kinh doanh du lịch cần nghiên cứu và khai thác tốt những khía cạnh của
những ngành nghề khác để phục vụ cho du lịch. Làm như vậy loại hình du lịch sẽ trở

nên phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn mà các ngành nghề khác cũng có cơ hội phát
huy khả năng của mình. Nếu như các ngành nghề của địa phương đều phát triển cộng
thêm với việc khuyến khích người dân tham gia vào kinh doanh du lịch thì chắc chắn
sẽ tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho người dân địa phương. Từ đó giúp họ tăng
thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.4.2.2. Bền vững về xã hội
Du lịch biển phải có sự đóng góp cụ thể cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công
bằng trong phát triển. Khách du lịch đến từ rất nhiều nơi khác nhau mang theo nhiều
nền văn hoá khác nhau đến địa phương. Mặt tích cực của nó là người dân địa phương
có thể hiều hơn về nền văn hoá khác từ đó có thể tiếp thu được những tinh hoa văn
hoá. Nhưng mặt hạn chế là nếu để các nền văn hoá đó du nhập một cách tự do thì
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
người dân có thể tiếp thu phải những yếu tố xấu, mất dần đi bản sắc văn hoá địa
phương . Phát triển bền vững là bảo đảm quyền lợi của người dân, mọi người đều
được tham gia vào kinh doanh để họ nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xoá
đói giảm nghèo. Nhưng điều đó không có nghĩa là để cho lợi ích kinh tế làm lu mờ
các giá trị văn hoá. Cần ngăn ngừa sự thay thế các ngành nghề truyền thống lâu đời
bằng chuyên môn phục vụ du lịch. Không để người dân địa phương biến văn hoá bản
địa thành hàng hoá bán cho khách. Văn hoá là phần không thể thiếu đối với mỗi
người. Đó là những tinh hoa được tích luỹ từ đời này qua đời khác. Nó làm nên giá trị
của mỗi người, mỗi địa phương. Vì thế phát triển sao cho bền vững về văn hoá – xã
hội cũng là một mảng hết sức quan trọng.
1.4.2.3. Bền vững về môi trường
Du lịch cũng là một hình thức kinh doanh vì thế việc đảm bảo phát triển tốt về
kinh tế, có lợi nhuận là một tất yếu. Tuy nhiên phát triển bền vững có nghĩa là phải có
sự hài hoà giữa yếu tố kinh tế và môi trường. Không nên chỉ chú trọng vào phát triển
kinh tế mà tìm mọi cách kể cả việc làm tổn hại nghiêm trọng đến tài nguyên. Bởi vì
tài nguyên du lịch thường có sẵn và rất khó để phục hồi, thời gian phục hồi là rất lâu.
Những điểm cần lưu ý khi khai thác phát triển tài nguyên du lịch là:

Khai thác tài nguyên không quá giới hạn cho phép, phải tôn trọng sức chứa của
khu du lịch. Doanh nghiệp phải xác định được số lượng khách tối đa mà không gây
thiệt hại đến môi trường tự nhiên, không làm cho khách cũng như người dân địa
phương cảm thấy khó chịu và chính quyền địa phương vẫn có thể quản lý được.
Ngoài việc khai thác hợp lý ra doanh nghiệp cũng cần phải sử dụng nó một cách hợp
lý tránh sự lãng phí tài nguyên. Duy trì sự đa dạng và ổn định của các hệ sinh thái,
các động thực vật…không để chúng bị phá huỷ.
Không gây ô nhiễm và giảm thiểu chất thải cũng là một vấn đề quan trọng trong
việc phát triển bền vững môi trường. Đối với môi trường cần giảm thiểu tối đa rác
thải và đảm bảo việc xử lý rác tốt. Đối với môi trường không khí xung quanh môi
trường cần có biện pháp để giảm khí thải do các phương tiện giao thông, các thiết bị
phục vụ cho du lịch gây nên. Quy hoạch cơ sở hạ tầng và giải phóng mặt bằng cũng
phải phù hợp với điều kiện cho phép của môi trường. Như địa phương nên xác định
xem có bao nhiêu khách sạn, nhà hàng là hợp lý về vấn đề về điện, nước, hệ thống xử
lý rác thải phục vụ cho du lịch mà vẫn đảm bảo cuộc sống cho người dân nơi đây.
1.4.3. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền
vững
Du lịch bền vững là hoạt động du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du
lịch và của chính khu du lịch đồng thời bảo vệ, thúc đẩy cơ hội phát triển cho tương
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
lai. Du lịch bền vững hướng tới việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu
cầu kinh tế xã hội phải được thoả mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá,
các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống các giải pháp hỗ trợ. Du lịch
bền vững xác định vai trò trung tâm của cộng đồng trong việc lập kế hoạch và ra các
quyết định phát triển du lịch. Du lịch bền vững phục vụ cho mục đích phát triển con
người cho nên du lịch bền vững không chỉ tập trung vào mục đích kinh tế mà còn
nhằm vào phát triển xã hội bao gồm giáo dục, y tế, môi trường và vấn đề tôn giáo.
“Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo
tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”. Du lịch sinh thái là

loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên còn bảo tồn khá tốt
nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động thực vật
cũng như các giá trị văn hoá hiện hữu. Du lịch sinh thái nhấn mạnh và đề cao yếu tố
giáo dục nâng cao ý thức con người trong vấn đề bảo tồn thiên nhiên, giữ gìn và phát
huy giá trị bản sắc văn hoá do con người sáng tạo. Trong loại hình du lịch sinh thái
không nhất thiết phải có sự tham gia của cộng đồng và dân cư địa phương.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở CÁT

2.1. Khái quát về Cát Bà
Hải phòng có nhiều cảnh quan thiên nhiên, có biển, có đảo, có vườn quốc gia…
đã tạo cho thành phố Hoa phượng đỏ tiềm năng lớn để phát triển du lịch sinh thái. Cát
Bà là một khu du lịch nổi tiếng của Hải Phòng – một hòn đảo lớn nằm ở phía tây nam
vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, cách trung tâm thành phố khoảng 60km. Thiên nhiên
đã ưu đãi cho quần đảo này nhiều cảnh quan đẹp, tài nguyên rừng và biển phong phú,
một quần thể đảo và hang động làm mê hồn du khách. Vườn quốc gia Cát Bà hiện
còn giữ diện tích lớn rừng nguyên sinh nhiệt đới với hệ thực động vật phong phú gồm
745 loài thực vật, hơn 32 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư… Nhiều
loài động vật quý hiếm như sóc bụng đỏ, rùa da…và đặc biệt là loài voọc đầu trắng
được ghi vào danh mục được bảo vệ nghiêm ngặt đã trở thành biểu tượng của Vườn
Quốc gia Cát Bà. Cát Bà có hệ thống hang động, vùng vịnh như các động Trung
Trang, Thiên Long, Hùng Sơn... có tới 139 bãi biển các loại nằm xen kẽ giữa những
dãy núi đá vôi trùng điệp với cấu trúc địa hình Kast ngập nước. Ngoài ra hệ sinh thái
san hô ở Cát Bà là tài nguyên đặc hữu trong quần thể Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh
Hạ Long. Cát Bà hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước bởi vẻ đẹp thiên nhiên
hoang dã, môi trường sinh thái biển trong lành và tài nguyên du lịch đa dạng. Năm
2004, Cát Bà được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, được
quảng bá rộng rãi ở trong nước và trên thế giới, có sức hút lớn cho đầu tư, các tổ chức

quốc tế tài trợ trong phạm vi của chương trình UNESCO về con người và sinh quyển.
Đảo và biển Cát Bà có lịch sử con người lâu đời với nền văn hoá nông nghiệp,
đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản.Dựa trên những di tích khảo cổ, có thể thấy con người
đã sống ở khu vực này ít nhất 6.000 năm trước. Cát Bà có 42 khu vực khảo cổ với các
di tích tiền sử, trong số đó: 4 điểm còn chứa đựng những dấu vết của kỷ nguyên
Pleitoxen, 7 điểm thuộc thời tiền sử, 2 điểm liên quan đến thời kỳ lịch sử, 8 động và
những vòm đá cho thấy những dấu vết khảo cổ văn hoá. Các di tích khảo cổ của Cát
Bà nằm trên các dải cát gần biển và cách thị trấn Cát Bà 1,5 km về phía đông nam.
Bên cạnh xương của các động vật biển, tập hợp những đò vật kháccủa thời kỳ văn
hoá này cũng được tìm thấy từ biển. Điều này chứng tỏ con người trong khu vực này
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
sống gần gũi với môi trường biển và Cát Bà bị tách ra khỏi lục địa vào một số giai
đoạn. trong số 4 động còn chứa một số động vật như hươu, nai, tê giác, nhím và đười
ươi. Di tích của các mồ mả ở các động trên đảo Cát Bà được tìm thấy ở động Khay
Quy, động Ang Giua trong đó đã tìm thấy xương của người Melanedi. Những vật
dụng và các di tích văn hoá trên đảo Cát Bà bao gồm di tích của các miếu “các
bà”,”các ông” có liên quan chặt chẽ với truyền thuyết “ bảy ngày ba ông” kể về cuộc
chién đáu chống lại quân xâm lược vào thời kỳ đầu dựng nước. Ngoài ra còn có thành
cổ nhà Mạc ở xã Xuân Đàm. Các lễ hội cũng còn lưu giữ bao gồm lễ hội đua thuyền
rồng, đua thuyền nan, lê tế thần biển và lễ hội đánh cá cung trở thành những nét hấp
dẫn du khách.
2.2. Các điều kiện phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà
2.2.1. VỊ trí, địa lý
Cát Bà, còn gọi là đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969 đảo trên
vịnh Hạ Long.Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng, nằm ở độ cao trung bình 70 m
so với mực nước biển (dao động trong khoảng 0-331 m). Trên đảo này có thị trấn Cát
Bà ở phía đông nam (trông ra vịnh Lan Hạ) và 6 xã: Gia Luận, Hiền Hào, Phù Long,
Trân Châu, Việt Hải, Xuân Đám. Cư dân chủ yếu là người Kinh.
2.2.2. Lịch sử

Tương truyền xưa kia tên đảo là Các Bà, là hậu phương cho Các Ông theo
Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ
hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là Các Bà. Như vậy có lẽ
tên gọi Các Bà đã bị đọc trệch thành Cát Bà.Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát
Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây
đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về
thành phố Hải Phòng. Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm
1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh
Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi
thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.
2.2.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái
Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một nơi đang
được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. Phía Đông Nam của đảo có vịnh Lan Hạ,
phía Tây Nam có vịnh Cát Gia có một số bãi cát nhỏ nhưng sạch, sóng không lớn
thuận tiện cho phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện nhiều núi
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ, cũng có nhiều
bãi tắm đẹp.
Con đường độc đạo chạy ven biển và xuyên qua đảo Cát Bà
• Đường xuyên đảo Cát Bà: dài 27 km, có nhiều đèo dốc quanh co, xuống
khoăn, qua áng, men theo mép biển, xuyên qua vườn quốc gia, phong cảnh kỳ
thú, non nước hữu tình.
• Vườn quốc gia Cát Bà: có diện tích 15.200 ha, trong đó có 9.000 ha rừng,
5.400 ha biển tạo nên một môi trường sinh thái lý tưởng.
• Động Trung Trang: Nằm cách thị trấn 15 km cạnh đường xuyên đảo, có nhiều
nhũ đá thiên nhiên. Động này có thể chứa hàng trăm người.
• Động Hùng Sơn: Cách thị trấn 13 km, trên đường xuyên đảo. Động còn có tên
Động Quân Y vì trong Chiến tranh Việt Nam người ta đã xây cả một bệnh
viện hàng trăm giường nằm ở trong lòng núi.

• Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, được cho là đẹp hơn động Trung
Trang.
Bãi tắm Cát Cò
• Các bãi tắm: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Cát Dứa, Cát Ông, Cát Trai Gái, Đường
Danh v.v... là những bãi tắm nhỏ, đẹp, kín đáo, có nhiều mưa, che nắng, cát
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
trắng mịn, nước biển có độ mặn cao, trong suốt tới đáy. Người ta dự định xây
dựng ở đây những "thuỷ cung" để con người có thể trực tiếp quan sát các đàn
cá heo, tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập bơi lượn quanh những cụm san
hô đỏ.
Một bãi tắm đẹp trên Đảo Khỉ thuộc quần đảo Cát Bà
Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ, nó được mệnh danh là Hòn Ngọc của Vịnh
Ngoài ra Cát Bà còn có nhiều động, thực vật quý hiếm: Gần 60 loài đã được coi
là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như các loài
động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật
như chò đãi, kim giao (Podocarpus fleurii), lá khôi (Ardisia spp.), lát hoa (Chukrasia
tubularis),dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8 loài rong, 7 loài
động vật đáy cũng cần được bảo vệ.
2.2.4. Tài nguyên nhân văn
Quần đảo Cát Bà có tiềm năng phát triển du lịch cả về tự nhiên lẫn nhân văn.
Cát Bà còn lưu giữ các di tích cổ sinh, di chỉ khảo cổ học, di tích lịch sử - văn hóa
như thành nhà Mạc, khu thương cảng (bến Gốm), di chỉ Cái Bèo và đặc biệt là hoá
thạch trầm tích trong hang động Đá Trắng. Theo giám định của Viện Khảo cổ học,
hóa thạch được tìm thấy có niên đại Pleistocen muộn (từ 01 triệu đến 11.000 năm
trước).
Môi trường thiên nhiên của Cát Bà-Cát Hải đã là cái nôi của người từ cổ xưa.
Các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật 17 địa điểm trên đảo Cát Bà. Kết quả cho
thấy có tới 15 điểm có dấu tích của người cổ xưa như hang Eo bùa thuộc xã Hiền
Hào, Tùng Bà thuộc Vườn Quốc Gia, Bờ Đá, Khoăn Mui thuộc xã Trân Châu, Áng

Giữa thuộc xã Việt Hải. Đặc biệt là di chỉ Cái Bèo được một nhà khảo cổ người Pháp
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
phát hiện năm 1938, qua nhiều lần khai quật và kết quả phân tích Điôxit cácbon cho
biết người Việt cổ có mặt ở đây cách ngày nay trên 6.000 năm. Trong tầng đất trên
của di chỉ Cái Bèo còn có một tầng di chỉ chứa những di vật tiêu biểu thuộc nền văn
hoá Hạ Long. Trong lớp đất này có ít xương động vật. Những hiện vật ở đây mang đủ
loại hình của nền văn hoá Hạ Long đồng thời còn có những đặc điểm riêng biệt cho
thấy con người của nền Hạ Long đến đây sinh sống vào giai đoạn muộn, giai đoạn
phát triển cao của nền văn hoá này. Giữa hai tầng trên và dưới của di chỉ Cái Bèo là
một lớp san mỏng không chứa các di vật hoặc xương các động vật. Điều này chứng
tỏ trước đây đã có một thời nước biển dâng lên tràn ngập lớp dưới để lại dấu tích của
biển ngăn cách giữa hai nền văn hoá sớm và muộn. Di chỉ Cái Bèo có giá trị lịch sử
lớn khẳng định người Việt cổ đã cư trú tại vùng đất này từ rất xa xưa.
Các làng xã trên đảo Cát Bà nằm giáp biển nên cuộc sống của người dân nơi
đây cũng gắn liền với biển :chèo thuyền, đua thuyền là sinh hoạt văn hoá, hội đua
thuyền chính là ngày hội xuống nước của các làng chài Cát Hải. Chính ở nơi đầu
sóng ngọn gió, với sức sống, tinh thần lao động sáng tạo, người dân ở đây đã để lại
những giá trị văn hoá độc đáo. Trên thị trấn Cát Bà ngày nay còn lại dấu tích nơi đền
thờ các bà trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm phương Bắc. Hòn cẩm thạch của
làng Gia Luận đã từng là nơi tập kết dấu cọc gỗ lấy từ Vân đồn để góp phần làm lên
chiến thắng quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng Giang của Ngô quyền năm 938.
Ngôi miếu cổ Văn Chấn - xã Văn Phong có kiến trúc tinh xảo vào Hậu Lê (Thế kỷ
XV) "Tân tạo thạch bia" chùa Gia Lộc với khối đá bốn mặt trạm khắc hoa văn sinh
động hiếm thấy được tạo dựng từ thời "Cảnh Thịnh tứ niên" năm 1797. Đình Đôn
Lương nghệ thuật kiến trúc điêu khắc tuyệt diệu thể hiện tài nghệ một thời. Tại xã
Xuân Đám còn lại một phần kiến trúc bức tượng thành xếp đá được xây dựng từ thời
nhà Mạc thế kỷ XVI. Chùa Hoà Hy (Hoà Quang) còn tương đối nguyên vẹn, có nhiều
pho tượng độc đáo, những nét hoa văn trạm trên bia đá hiếm thấy trên các bia chùa
của miền Bắc. Văn bia đình làng Hoàng Châu còn lưu danh các sinh đồ Quốc Tử

Giám: Nguyễn khắc Minh, Bùi Quang Trịnh, Vũ Tiến Tước là người làng Hoàng
Châu đã học hành đỗ đạt tại cơ quan học viện cao nhất nước ta thời kỳ tiền Lê Hoàng
Triều. Người dân trên đảo có quyền tự hoà về con đường học hành, đỗ đạt của cha
ông một thời.Có thể nói văn hoá của huyện đảo Cát Hải phong phú đa dạng bởi lẽ
người dân định cư trên đảo có nguồn gốc từ nhiều nơi họp thành là cộng đồng những
người sống bằng nghề biển vùng Duyên Hải.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
Đến với Cát Bà, chúng ta còn được hòa mình vào lễ hội làng cá được tổ chức
vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 hàng năm để ghi nhớ ngày Bác Hồ về thăm làng cá Cát
Bà.
2.2.5. Khu dự trữ sinh quyển
Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các
rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, là nơi hội tụ đầy đủ
các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển
thế giới theo quy định của UNESCO.
Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02
tháng 12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005 tại đây đã diễn ra lễ đón nhận bằng
quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự kiện này. Việt Nam hiện có 06 khu dự trữ
sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, châu thổ sông
Hồng, miền Tây Nghệ An, Kiên Giang và quần đảo Cát Bà.Tổng diện tích khu dự trữ
sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không
có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết
hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển
Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn,
các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động.
2.2.6. Điều kiện kinh tế-xã hội
Với lợi thế gần biển đã tạo điều kiện thuận lợi cho Cát Bà phát triển kinh tế.
thành phố Hải Phòng và Bộ Thuỷ Sản đã coi Cát Bà là trung tâm của dịch vụ thuỷ
sản. Chính phủ và Tổng cục du lịch đã quyết định phát triển Cát Bà thành trung tâm

quốc gia về du lịch sinh thái. Tất cả điều này cho thấy tiềm năng thuỷ sản, du lịch và
dịch vụ của huyện Cát Hải. Ngành kinh tế đánh bắt cá truyền thống đã tăng trưởng
nhanh trong vài năm qua. Với những định hướng phát triển phong phú, ngành thuỷ
sản Hải Phòng đã vượt qua nhiều khó khăn và từng bước phát triển. Khai thác thuỷ
sản đã đạt được 5.730 tấn năm 2000 và tăng lên 8.091 tấn năm 2002. Nuôi trồng thuỷ
sản từ 608 tấn tăng gấp đôi lên 1.148 tấn năm 2002. Đến năm 2009 ngành thuỷ sản
tăng 9,5%, đạt 7.050 tấn, trong đó khai thác là 3.050 tấn, nuôi trồng là 4.000 tấn. Đó
là kết quả của việc chuyển đổi cơ cấu mạnh mẽ, đặc biệt là việc áp dụng đổi mới
những phương pháp và áp dụng công nghệ khoa học tiên tiến trong sản xuất. Một
trong những nết phát triển của ngành thuỷ sản là nhiều hộ gia đình đã đầu tư vào các
lồng nuôi thuỷ sản trên biển. Đây là cách hiệu quả để sử dụng các điều kiện môi
trường tự nhiên và đánh thức những tiềm năng chưa được khai thác của biển Cát Bà.
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48
Chuyên đề thực tập
Cùng với sự phát triển của thuỷ sản, sản xuất cũng được cải thiện. Trên khu vực rộng
143,7ha năm 2002 sản lượng đạt 12.187 tấn, tăng 27,6% so với năm 2001. Những
năm qua, Cát Hải đã trở thành điểm hấp dẫn đối với khách du lịch Việt Nam cũng
như du khách quốc tế.
Cùng với xây dựng cơ sở hạ tầng, ngành giáo dục và đào tạo cũng đạt các mục
tiêu vượt mức kế hoạch đề ra cả về chất lượng và số lượng. Ngành thể thao, văn hoá,
thông tin đa hợp tác chặt chẽ với các ngành khác trong việc triể khai thành công các
chương trình tuyên truyền. Tuyên truyền tập trung vào việc hoàn thành các mục tiêu
phát triển chính trị, kinh tế, bảo vệ môi trường và kiểm soat những vấn đề xã hội.
Ngày càng có nhiều hoạt động biểu diễn văn hoá nghệ thuật. Nhà văn hoá huyện tổ
chức rất nhiều buổi biểu diễn văn hoá, văn nghệ, khuyến khích mở rộng các phong
trào văn hoá văn nghệ địa phương.
Cát Hải tập trung vào phát triển kinh tế xã hội, sử dụng tài nguyên rừng, biển
sinh thái để phát triển kinh tế đa ngành. Xây dựng Cát Hải thành một trung tâm du
lịch sinh thái quấc gia đạt chuẩn quốc tế và trung tâm kinh tế biển của Bắc Bộ Việt
Nam, đăc biệt khu kinh tế mở và một khu vực đô thị của thành phố Hải Phòng. Cát

Hải hiện nay làmột trung tâm hội tụ đầu tư với dự án quy hoạch du lịch sinh thái và
khu vực cảng biển Cát Don, Xuân Đàm và Cát Bà với tổng đầu tư trên 500 tỷ trên
diện tích 104ha và một số dự án khác.
2.2.7. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong chiến lược phát triển Uỷ ban nhân dân và Huyện uỷ đã xác định “xây
dựng hạ tầng cần phải được ưu tiên tạo động lực cho sự phát triển của các ngành kinh
tế mũi nhọn”. Theo định hướng này, mấy năm qua huyện đã triển khai tích cực việc
xây dựng hạ tầng với hiệu quả cao. Theo đó, huyện đã đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng
nhằm khuyến khích đầu tư vào các trung tâm dịch vụ hỗ trợ thuỷ sản và du lịch tại
đảo Cát Bà. Hoàn thành kế hoạch xây dựng huyện Cát Hải và kế hoạch chi tiết thị
trấn Cát Bà để trình uỷ ban nhân dân Hải Phòng phê duyệt theo đó, huyện Cát Hải sẽ
mở rộng theo hướng tây về xã Phu Long. Ngoài ra huyện sẽ tích cực triển khai con
đường liên đảo thứ 2 xuyên qua Cát Bà, Gia Luận và Tuần Châu, tiếp tục đầu tư cho
các công trình xây dựng, xây dựng các trường học nhiều tầng, nâng cấp bệnh viện và
các trung tâm y tế. Cho tới nay, hầu hết các con đường nội hạt đã được bê tông và
nhựa hoá. Các tuyến nội đảo qua Đình Vũ, Cát Hải và Cát Bà đã khuyến khích tăng
mạnh lưu lượng xe cộ và hành khách đi lại. Tuyến giao thông khác là sử dụng tầu cao
tốc để chuyên chở, phục vụ du lịch và phát triển phúc lợi xã hội. Tuy nhiên với vị trí
Sinh viên: Hoàng Thị Dịu Du lịch 48

×