Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn một số kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi ở trường MN định tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.43 KB, 23 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, nó
góp phần không nhỏ trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Mục
tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, giúp trẻ “học làm
người” và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ bước vào học lớp một. Với đặc thù của trẻ
lứa tuổi mầm non là đang làm quen với thế giới tự nhiên và xã hội, trẻ bước vào
cuộc sống xã hội với mọi thứ đều mới mẻ, cho nên đồng hành với việc dạy kiến
thức cho trẻ, phải dạy cả các kỹ năng sống cơ bản: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
bảo vệ, kỹ năng tự phục vụ bản thân... nhằm giúp trẻ phát triển một số giá trị, nét
tính cách, phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi như: mạnh dạn, tự tin, độc
lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác, dễ hòa nhập, dễ chia sẻ... hình thành nếp sống
văn minh, có hành vi ứng xử, giao tiếp theo qui tắc, chuẩn mực phù hợp... không
những vậy, kỹ năng sống còn rèn luyện cho trẻ biết cách xử lý tình huống trong
từng hoàn cảnh cụ thể, bày tỏ tình cảm phù hợp, đúng lúc, biết tránh những vật,
những nơi không an toàn, gây nguy hiểm đến tính mạng và cách phòng tránh, tự
lập trong các tình huống quen thuộc, có một số kỹ năng tự phục vụ, hợp tác, có
trách nhiệm với bản thân và cộng đồng.
Đối với trẻ mầm non việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là quan trọng và rất
cần thiết. Bởi trẻ đang chập chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng
bước hình thành cơ sở ban đầu của hành vi, tính cách và nhân cách. Nếu các kỹ
năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền
vững. Nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng: “Giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ”.
Do đó nếu gia đình và nhà trường có biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
phù hợp thì sẽ hình thành ở trẻ tính tự tin, mạnh dạn, tự lực, dễ hòa nhập, dễ chia
sẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị tốt cho việc
học tập ở trường tiểu học và ở các cấp học sau.
Theo quan niệm của UNESCO, 8 tuổi đã là quá trễ để giáo dục kỹ năng sống.
Vì đến độ tuổi này trẻ đã hình thành cho mình phần lớn các giá trị; trừ khi có sự


thay đổi sâu sắc về trải nghiệm trong đời, nếu không thì khó mà lĩnh hội thêm
giá trị sau độ tuổi này. Trẻ từ dưới 2 tuổi đã bắt đầu tiếp thu từ môi trường sống
xung quanh, như giọng nói của người lớn khi trò chuyện với trẻ, cách tiếp xúc
với trẻ,... tất cả đều tác động đến sự phát triển của trẻ. Vì vậy việc hình thành và
phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành từ bậc học mầm non.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay cho thấy, mặc dù xã hội phát triển, trình độ
tri thức của trẻ được nâng lên gấp bội nhưng kỹ năng sống của trẻ dường như bị
tụt lùi, gây khó khăn cho hoạt động sinh hoạt hàng ngày cũng như trong môi
trường xã hội rộng lớn.
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là do kinh tế phát triển, phụ huynh
phải tham gia vào các hoạt động xã hội, không có nhiều thời gian để trò chuyện,
tâm sự nhiều với con cái, trẻ không phải làm việc giúp gia đình nên có những
1


đứa trẻ 5 – 6 tuổi vẫn được mẹ chăm bẳm từ việc vệ sinh cá nhân, việc mặc quần
áo đến việc xúc cơm cho ăn… Những việc này vô tình đã làm mất dần kỹ năng
sống cho trẻ.
Bên cạnh đó, ở trường mầm non, giáo viên đôi khi chỉ chú trọng đến việc
truyền thụ kiến thức mà chưa chú ý nhiều đến việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ; điều kiện về thời gian và trang thiết bị, môi trường để giáo dục kỹ năng sống
còn hạn chế. Một số giáo viên còn lúng túng trong việc xác định nội dung và
biện pháp phù hợp; đó là nguyên nhân dẫn đến một số trẻ biểu hiện kỹ năng xã
hội còn yếu như: Đánh bạn, tranh dành đồ chơi của bạn, chơi một mình không
biết chia sẻ với bạn và mọi người xung quanh.
Trăn trở với mục tiêu chung của giáo dục, là một người giáo viên mầm non, tôi
suy nghĩ mình phải làm gì và làm như thế nào để đưa chất lượng giáo dục ngày
càng một nâng cao, trong đó có “Kỹ năng sống” cho trẻ. Do đó, bản thân đã không
ngừng học hỏi qua lớp chuyên đề, qua học BDTX, qua nghiên cứu tài liệu, qua
những lần tiếp xúc với phụ huynh và nắm bắt đặc điểm tâm lý của trẻ… tôi đã xác

định được tầm quan trọng của việc "Giáo dục kỹ năng sống" cho trẻ có tác động
lớn đến sự giáo dục đạo đức đến sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ hiện tại
và sau này. Vì thế tôi quyết định chọn đề tài “Một số kinh nghiệm giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Định Tường, năm học 2015 2016”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhằm tìm ra một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non Định
Tường.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, khái quát hóa các tài
liệu cần thiết có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, đánh giá, phương pháp theo
dõi bằng phiếu; phương pháp quan sát.

2


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Khái niệm kỹ năng sống.
Kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao
tiếp được vận dụng trong các tình huống hằng ngày để tương tác có hiệu quả với
người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc
sống hàng ngày.
Không những thế nội dung giáo dục kỹ năng sống đã chỉ ra rất rõ đó là những
giá trị sống và kỹ năng sống tương ứng mà nhà giáo dục cần hình thành cho trẻ ý
thức về bản thân, quan hệ xã hội, giao tiếp, thực hiện công việc, ứng phó với
thay đổi.

2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một trong những vấn đề then chốt hiện nay
trong việc giáo dục nhân cách con người. Theo xu hướng chung, giáo dục trên
thế giới đang quan tâm đến vấn đề giáo dục và trang bị cho thế hệ trẻ các kỹ
năng sống, các kỹ năng giao tiếp, ứng xử để giải quyết các vấn đề quan hệ xã
hội để tự bảo vệ mình, đồng thời hướng đến môi trường giáo dục sự hòa hợp,
hợp tác thân thiện cho trẻ trên cơ sở các giá trị cuộc sống.
Trên thực tế cho thấy có khoảng cách giữa nhận thức và hành vi của con
người, có nhận thức chưa hẳn đã có hành vi đúng, cho nên kỹ năng sống chính là
nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích
cực, lành mạnh. Kỹ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội và bảo
vệ quyền con người.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc trang bị vốn sống cho trẻ là một điều
cần thiết. Bởi điều này sẽ giúp trẻ ứng phó trước tình huống, quản lý cảm xúc,
học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh, giải quyết mâu thuẫn
trong mối quan hệ, thể hiện bản thân một cách tích cực, lành mạnh. Không chỉ
vậy, kỹ năng sống còn giúp trẻ không bị rối trí hay hoang mang khi đối mặt
trước những khó khăn trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm
sống, trẻ biết được những điều nên làm và những điều không nên làm, giúp trẻ
tự tin, chủ động và biết cách sử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả
năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm
và có cuộc sống hài hòa trong tương lai.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng và cần thiết cho sự
phát triển tư duy, khả năng học hỏi của trẻ sau này. Đặc biệt là trong đời sống xã
hội hiện đại của chúng ta ngày nay giáo dục kỹ năng sống được xem như một
thành tố quan trọng để đánh giá chất lượng giáo dục. Đồng thời, giáo dục kỹ
năng sống hỗ trợ các quyền trẻ em trong tiếp cận với thông tin, các kỹ năng cần
thiết và các dịch vụ y tế, giáo dục và quyền được tham gia. Chúng ta cần tạo
năng lực tâm lý xã hội trẻ, chủ yếu giúp cho trẻ phát huy nội lực với những kỹ

3


năng sống để trẻ có thể tự bảo vệ mình và ứng phó với cuộc sống. Từ đó trẻ có
thể học tiếp cận và xử lí thông tin một cách nhanh chóng. Nếu chúng ta làm tốt
công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thì càng tạo nền tảng vững chắc cho khả
năng học tập của trẻ bước vào lớp một.
II. THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON ĐỊNH TƯỜNG.
1. Thực trạng:
Năm học 2015 - 2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó
khăn sau:
a. Thuận lợi:
- Đối với trẻ: Trẻ rất hiếu động, thích khám phá thế giới xung quanh, tích cực
tham gia các hoạt động trong ngày do cô tổ chức.
- Đối với bản thân: Là giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp huyện, bản thân
luôn nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, năng động và sáng tạo trong giảng dạy. Vì vậy,
việc dạy học của cô và trẻ đã đạt được kết quả nhất định. Trong đó “Giáo dục kỹ
năng sống”cho trẻ cũng đạt được kết quả khả quan.
- Đối với nhà trường: Là trường chuẩn Quốc gia nên có đầy đủ cơ sở vật chất
phục vụ cho quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt là sự quan tâm của Ban
giám hiệu nhà trường và sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi thực hiện tốt công việc nghiên cứu đề tài của mình.
- Đối với phụ huynh: Phụ huynh luôn quan tâm, tạo điều kiện trong việc giáo
dục trẻ.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi đó, trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ bản thân
tôi thấy bộc lộ một số tồn tại sau:
- Bản thân tôi và một số giáo viên trong trường chưa hiểu sâu và cụ thể về

nội dung phải dạy trẻ những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng
những kế hoạch, định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Mặt
khác, giáo viên bị áp lực với phụ huynh về chất lượng giảng dạy nên xem nhẹ
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Sĩ số trẻ trên nhóm lớp đông nên ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động
giáo dục, đặc biệt là việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.
- Là địa phương thuần nông nên đa số các bậc phụ huynh không có điều kiện
để quan tâm đến trẻ, ít tâm sự, trò chuyện với trẻ; Không ít cha mẹ trẻ đi làm ăn
xa, để con cho ông bà nên việc phối hợp với giáo viên trong việc giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ còn hạn chế.
- Một số phụ huynh luôn nóng vội trong việc dạy con. Do đó, khi trẻ về nhà
mà chưa biết đọc, biết viết hoặc chưa biết chữ số thì lo lắng, không hài lòng. Họ
thường chiều chuộng, cưng phụng con cái, không yêu cầu trẻ làm bất cứ việc gì
kể cả việc ăn, uống, vệ sinh…. Nên trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, không biết

4


cách sử dụng đồ dùng cũng như biết mục đích và tầm quan trọng của những đồ
dùng đó.
- Từ năm học 2008 – 2009 đến nay các trường đã triển khai phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo tinh thần chỉ đạo của cấp
trên nhằm tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của trẻ vào cộng đồng
trong các hoạt động giáo dục của nhà trường với thái độ tự giác, chủ động và ý
thức sáng tạo. Trong 5 nội dung có nội dung rèn kỹ năng sống cho trẻ. Song việc
triển khai của nhà trường không đồng bộ, không cụ thể và còn nôm na, chiếu lệ.
- Nhà trường chưa tổ chức cho trẻ đi thăm quan, dã ngoại để mở rộng hiểu
biết và rèn luyện kỹ năng sống.
- Một số trẻ nhút nhát không tự tin tham gia vào các hoạt động ngược lại, một
số trẻ lại rất hiếu động nên không chú ý vào sự hướng dẫn của cô.

2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tiến hành khảo sát trẻ về kỹ năng sống ở lớp tôi
như sau:
Tổng số trẻ: 42
Đối tượng: 5 – 6 tuổi
Tổng
Kết quả
số trẻ Đạt Tỷ CĐ Tỷ lệ
TT
Nội dung
khảo
lệ
sát
1 Thể hiện ý thức về bản thân.
42
35 83.3 7 16.7
2 Thể hiện sự tự tin, tự lực.
42
30 71.4 12 28.6
Nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình
3 cảm với con người, sự vật, hiện tượng
42
28 66.7 14 33.3
xung quanh.
4 Có hành vi và thực hiện quy tắc ứng xử
42
29
69 13
31
xã hội

5 Quan tâm đến môi trường
42
26 61.9 16 38.1
Kết quả chung
42
31 73.8 11 26.2
Qua bảng khảo sát trên cho thấy, tỷ lệ trẻ thiếu tự tin, không chủ động, tự
mình nổ lực cố gắng thực hiện nhiện vụ được giao. Việc thể hiện cảm xúc đôi
khi chưa phù hợp với hoàn cảnh; đặc biệt chưa quan tâm và chưa có ý thức bảo
vệ môi trường. Vì thế tỷ lệ trẻ chưa đạt yêu cầu về kỹ năng sống còn cao, chiếm
tới 26.2%. Vì thế để nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã
nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5
– 6 tuổi, cụ thể như sau:
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1. Biện pháp 1: Nghiên cứu tài liệu, mục tiêu của chương trình và nắm
bắt đặc điểm, khả năng của trẻ trong lớp để xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.

5


Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách phù hợp và hiệu quả, đòi hỏi bản
thân mỗi giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình và cách thức
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, đồng thời hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi. Nhận thức được điều đó trong năm qua, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và xây
dựng được kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi một cách phù hợp
theo từng chủ đề.
Chẳng hạn, với chủ đề gia đình, tôi đã lựa chọn nội dung giáo dục đó là: Giáo
dục trẻ biết quan tâm đến người thân trong gia đình, biết thể hiện tình cảm, cảm
xúc và cư sử đúng mực với các thành viên. Trên cơ sở đó, tôi lựa chọn một số

biện pháp giáo dục phù hợp như: Trò chuyện, tìm hiểu về gia đình trẻ, tổ chức
các hoạt động văn nghệ, câu lạc bộ thơ ca... có liên quan đến giáo dục tình cảm
gia đình, tạo tình huống có vấn đề để trẻ thể hiện cảm xúc, ứng xử phù hợp...
Sau khi xây dựng được kế hoạch, tôi đã tìm tòi các hình thức tổ chức phù hợp
thông qua việc tạo cơ hội cho trẻ được chơi, được giao lưu, tiếp xúc với nhiều
đối tượng, được trải nghiệm thông qua các hoạt động tập thể vui tươi lành mạnh,
khuyến khích trẻ vận dụng kiến thức và kỹ năng mới vào cuộc sống. Đồng thời,
luôn lắng nghe để hiểu, tôn trọng và tin tưởng trẻ, động viên, khen ngợi kịp thời
những trẻ có kỹ năng sống tốt. Trong quá trình đó, tôi luôn chú ý theo dõi, ghi
chép và đánh giá vào cuối chủ đề để có biện pháp điều chỉnh (nếu cần) ở những
chủ đề sau.
Chính nhờ việc xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống một cách chặt chẽ,
sát với tình hình thực tế của trẻ nên kỹ năng sống của trẻ được nâng lên rõ rệt.
2. Biện pháp 2: Tạo môi trường vật chất phong phú và tinh thần lành
mạnh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ; Động viên khen thưởng kịp thời
những trẻ có kỹ năng sống tốt.
* Cô giáo là tấm gương sáng để trẻ noi theo
Để giáo dục "kỹ năng sống" cho trẻ có hiệu quả, trước hết cô giáo phải là tấm
gương sáng về mọi mặt cho trẻ noi theo, cần nắm vững các nhiệm vụ giáo dục
đối với trẻ, tạo không khí thân ái giữa hai giáo viên trong lớp và các giáo viên
trong trường luôn tôn trọng lẫn nhau, quan tâm đến nhau. Bởi vì trẻ thường hay
bắt chước, trẻ thấy thích được làm theo, nói theo, trẻ chưa hiểu hết thế nào là
hành vi đúng, sai, tốt, xấu, trẻ quen được mọi người phục vụ, điều đó nếu cô
không giáo dục đúng mực sẽ dẫn đến những thói quen, hành vi xấu như thiếu lễ
phép, trông chờ, ỷ lại...
Ví dụ: Cháu Thanh Nga về nhà bắt chước cô dạy học, có thể trẻ chơi một mình
hay chơi với ông bà, bố mẹ làm học sinh và trẻ thể hiện giống như cô ở lớp: Các
con ngồi ngoan nghe cô đọc thơ nhé. Cô vừa đọc bài thơ gì? Bài thơ do ai sáng
tác. Cô mời cả lớp đọc thơ cùng cô nào. Cô mời tổ chim non... hoặc trẻ thường
bắt chước cô điểm danh, trẻ cũng tìm một tờ giấy hay quyển vở và cái bút giả vờ

điểm danh gọi tên các bạn trong lớp...
Chính vì thế, cô giáo cần phải thận trọng khi nói hay khi dạy trẻ những thói
quen, hành vi tốt từ những việc làm cho đến cách cư xử giao tiếp với cô, với bạn và
mọi người xung quanh.
6


Ví dụ: Hàng ngày khi đón trả trẻ gặp gỡ phụ huynh tôi cũng chào hỏi niềm nở
"em chào chị, cháu chào Ông, cháu chào bà ..." hoặc khi nhờ trẻ làm giúp điều gì
tôi liền nói "Cô cảm ơn con gái, cô cảm ơn con trai”, khi làm điều gì lỡ với trẻ tôi
cũng kịp thời nói: "Cho cô xin lỗi con"...
Cứ mỗi lần như thế trên khuôn mặt, ánh mắt của trẻ ánh lên những tình cảm
chân thành gần gũi thân quen và bằng những việc làm cụ thể như giúp đỡ bạn, em
nhỏ, không nói tục chửi bậy, không vứt rác, vẽ bậy, biết tự làm những công việc
đơn giản vừa sức… Đó chính là giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, điều này trẻ cần
được học ngay từ lứa tuổi mầm non. Nếu trẻ được chăm sóc giáo dục trong môi
trường tốt thì sẽ trở thành con người tốt phát triển toàn diện và nếu chăm sóc giáo
dục không tốt thì sẽ trở thành thói hư tật xấu. Vì thế, giáo viên là người trực tiếp
dạy trẻ mọi cử chỉ, lời nói, việc làm của cô giáo phải luôn mẫu mực, luôn là tấm
gương sáng để trẻ noi theo.
* Xây dựng mối quan hệ tình cảm, thân thiện giữa giáo viên và trẻ, giữa trẻ
với trẻ từ đó giáo dục kỹ năng sống giữa trẻ với nhau:
Mỗi giáo viên chúng ta có vai trò quyết định trong mối quan hệ này, mọi trẻ đều
cảm thấy phấn khởi vui vẻ khi được cô yêu thương và được đối xử công bằng.
Công bằng là nền tảng cho việc tạo ra mối quan hệ tốt, tránh sự thiên vị, giáo viên
cần tạo tâm lý tin cậy, mong muốn chia sẻ, gần gũi giữa giáo viên và trẻ: cô luôn cư
xử với thái độ ân cần niềm nở, biết cách lắng nghe trẻ, luôn gọi tên trẻ khi giao tiếp.
Thời gian trẻ ở bên cô còn nhiều hơn thời gian bên gia đình, bên bố mẹ. Bản thân là
giáo viên mầm non, tiếp xúc nhiều với trẻ, chăm sóc giáo dục trẻ nên tôi nghĩ phải
làm cho trẻ cảm nhận được đây chính là ngôi nhà chứa đầy tình thương của trẻ và

cô giáo như người mẹ thứ hai của mình, khi trẻ cần được yêu thương chia sẻ, cần
được che chở đã có cô bên cạnh…
Giáo viên luôn tạo mối quan hệ thân thiện giữa trẻ với nhau thông qua tổ
chức các hoạt động tập thể: trao đổi, trò chuyện, thảo luận, vui chơi, trưng bày
sản phẩm, chia sẻ ý tưởng... Cô giáo như một vị chủ tọa phiên tòa xét sử công
bằng của trẻ, suốt ngày cô phải xét xử những vụ kiện nho nhỏ như: Con thưa cô
bạn lấy đồ chơi của con, con thưa cô bạn không cho con chơi, rồi con thưa cô
bạn không chơi với con ...., khi này cô hỏi trẻ: Vì sao bạn lấy đồ chơi của con?
Tại sao con lại không cho bạn chơi cùng? cô đến bên trẻ nhẹ nhàng tìm hiểu
nguyên nhân và giải thích cho trẻ hiểu các con là bạn với nhau, học cùng lớp
phải biết thương yêu, nhường nhịn, chia sẻ, biết giúp bạn, rủ bạn cùng chơi phải
không nào... lúc này trẻ có thêm niềm tin, tình thương và lòng vị tha đối với bạn
thì sẽ chia đồ chơi cho bạn và rủ bạn cùng chơi vui vẻ, đặc biệt lúc đó cô cần cư
xử công bằng không thiên vị trẻ này hay bênh vực trẻ kia, làm tổn thương trẻ
còn lại và như thế làm mất niền tin ở trẻ đối với cô giáo của mình, khuyến khích
trẻ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ và tự tin diễn đạt bằng lời nói, dạy trẻ thoải mái tự tin
trước đám đông như: trên sân khấu, trước các cô, trước các bạn, người lạ... Tôn
trọng sự phát triển tự nhiên, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đặc điểm cá nhân của từng
trẻ như: năng lực khó khăn trong giao tiếp, ngôn ngữ của trẻ chưa rõ ràng...,
chấp nhận trẻ học bằng cách "Thử - sai" cho phép trẻ được làm sai trước khi làm
7


đúng, cô không nên sửa sai quá nhiều, động viên trẻ tự tin vào bản thân bằng
những lời nói nhẹ nhàng của cô "Không sao đâu con", "Làm lại đi nào", "Từ từ
thôi con", "con sắp làm được rồi", "con làm gần đẹp rồi",...
Ví dụ: Cháu Quỳnh Anh ngôn ngữ của cháu chưa rõ ràng, nhiều từ nói còn
ngọng, còn lắp, đôi khi là tiếng địa phương như: em bé nhà cháu có cái "lúc lác"
(lúc lắc) đẹp lắm cô ạ, hay mẹ cháu "biểu" là đến trường phải ngoan... Khi đó tôi
phát âm rõ ràng cho trẻ nghe trước, sau đó cho trẻ phát âm cùng cô, trong khi trẻ

phát âm cô nhẹ nhàng động viên trẻ: Con nói sắp đúng rồi con nói lại cô nghe nào,
luyện như thế cho trẻ nhiều lần trẻ sẽ quen, đến giờ trẻ tương đối nói rõ ràng, nói
đúng từ đúng câu, đây là cách luyện phát âm cho trẻ rất quan trọng, như vậy dần
dần ngôn ngữ của trẻ được phát triển hoàn thiện.
Khi trẻ gặp thất vọng cô nên kiên nhẫn với trẻ, tránh thúc ép, căng thẳng khi
luyện tập các kỹ năng cho trẻ, cô cần phải chờ đợi, tôn trọng ý kiến cá nhân của trẻ
như khi dạy trẻ phát biểu ý kiến tránh áp đặt. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen
suy nghĩ một cách độc lập, không định kiến với trẻ, chỉ cấm đoán những việc
không an toàn, hạn chế mệnh lệnh đối với trẻ, tăng cường khích lệ trẻ, cô không
nên nói "không được làm thế này" mà nói "con nên làm thế này cô thấy thích hơn"
hay như "con nên nói nhẹ nhàng" thay vì "không được la hét" hoặc "đi từ từ" thay
cho "không được xô đẩy"... Cô còn là người bạn thân tình của trẻ để trẻ sẵn sàng
chia sẻ những vui buồn của mình.
Ví dụ: Hôm nay thấy cháu Hải Yến buồn cô hỏi? "Vì sao con buồn thế ?" Trẻ sẵn
sàng chia sẽ cùng cô "Vì mẹ không mua quà cho con" những lúc thế này cô cần có
lời nói như người bạn với nhau "Cô cũng có đòi mẹ mua quà đâu, mình lớn rồi mà,
nên sẽ không đòi mẹ mua quà, như thế mới là bé ngoan đúng không nào". Có nhiều
lúc trẻ coi cô là bạn không còn ranh giới là cô và trò nữa thật vui biết bao với những
phút giây như thế, tôi thấy mình như trẻ lại, mình cũng như là đứa trẻ Mầm non.
Qua những lời tâm sự nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương của cô đã làm cho trẻ tự
tin, đây là một trong những kỹ năng đầu tiên mà người giáo viên cần chú ý, chú tâm
để phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Có nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được
mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Trẻ
được thỏa mãn và cũng coi cô như người mẹ của mình, trẻ lại yên tâm tiếp tục ra
chơi. Kỹ năng xã hội này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi
nơi.
Ví dụ: Cháu Ngân Khánh, đầu năm học cơ thể của cháu rất yếu, lớp 5 tuổi mà có
14.6kg, giờ ăn cháu ăn rất chậm, ăn ít nhưng nếu cô thúc dục cháu thì sẽ bị nôn và
cháu sẽ không ăn, ngậm cơm. Vì thế trong giờ ăn, tôi xới cho cháu ít hơn và động
viên cháu ăn và xúc miếng nhỏ, ăn nhiều để cơ thể khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, xinh

đẹp như công chúa, học giỏi được bố mẹ, cô và mọi yêu thương, các bạn quý, nếu
con không ăn thì cơ thể chậm lớn, da đen, xấu, học thua các bạn và mọi người không
yêu. Ngày nào cũng vậy, không những trong giờ ăn mà ở mọi lúc mọi nơi tôi thường
xuyên tâm sự với trẻ để trẻ hiểu được ăn nhiều thì cơ thể khỏe mạnh chóng lớn, học
giỏi... Đến giờ cháu tự giác xúc ăn, ăn rất nhanh hơn và sau 1 tháng tôi cân lại, cháu
đã tăng được 0.9kg .
8


Như vậy tình cảm thân thiện giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ không còn là ranh
giới nữa mà đã được trẻ coi như là người bạn, người mẹ của trẻ để hàng ngày trẻ
được tâm sự những niềm vui, nỗi buồn của mình với cô, với bạn như thế trẻ đã
mạnh dạn tự tin trong cuộc sống.
* Xây dựng môi trường vật chất bên ngoài lớp học đề thu hút sự quan tâm,
chú ý của phụ huynh đối với việc rèn kỹ năng sống cho trẻ:
Một số phụ huynh thường có tâm lý e ngại khi tham gia vào quá trình giáo
dục trẻ, hơn nữa cha mẹ thường lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Vì
thế, tôi đã sưu tầm sáng tác một số câu chuyện bài thơ bài hát có nội dung “Giáo
dục kỹ năng sống” cho trẻ.
Đây là một biện pháp không thể thiếu được đối với người giáo viên mầm non
nhưng để làm tốt biện pháp này đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tâm huyết,
tận tụy với nghề, có ý thức học hỏi, sáng tạo, chịu khó nghiên cứu thì mới có
những vốn kiến thức hiểu biết cho mình để có thể sưu tầm hoặc sáng tác ra
những bài thơ, câu chuyện… nhằm phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Điều đó sẽ góp phần không nhỏ trong việc “giáo dục kỹ năng sống” cho trẻ.
Không những tích cực sưu tầm hoặc sáng tác mà tôi còn động viên trẻ hoạt
động cùng cô, đó là tôi thường xuyên sưu tầm 1 số tranh ảnh đẹp, có nội dung
giáo dục dán lại từng tập và động viên trẻ kể chuyện sáng tạo theo những tập
tranh vào những lúc đón, trả trẻ hoặc sử dụng trong hoạt động góc, hoạt động tự
do.

Bên cạnh đó, tôi đã trang trí, gắn các nội dung cần phối hợp với phụ huynh
vào góc trao đổi với phụ huynh ngoài hành lang để họ có thể đọc, quan sát, theo
dõi dễ dàng những nội dung, biện pháp và mức độ phát triển kỹ năng sống của
con em mình và ngược lại, phụ huynh có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị,
thông tin cần trao đổi với giáo viên.
Ngoài ra trong năm học, tôi đã tích cực tham mưu với ban giám hiệu trang trí
sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu,
yêu thương tôn trọng trẻ, giữ lời hứa với trẻ... bổ sung giá góc, đồ dùng đồ chơi
cho các góc đặc biệt là góc phân vai và góc sách để trẻ có cơ hội, có môi trường
trải nghiệm thực tế cuộc sống xã hội thu nhỏ, qua đó trẻ học được những kỹ
năng sống cần thiết và tự nhiên. Đồng thời, tham mưu với ban giám hiệu bổ
sung đồ chơi ngoài trời, quy hoạch vườn hoa, cây cảnh, sân vận động, sân khấu
ngoài trời... để trẻ hoạt động trải nghiệm và phối hợp cùng bạn bè trong quá
trình chơi.
Việc xây dựng môi trường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là điều kiện quan
trọng có tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển kỹ năng sống cho
trẻ ở trường mầm non.
* Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động nêu gương:
Là giáo viên mầm non tôi đã nắm được tâm lý của trẻ thích được khen hơn là
chê, lúc nào cũng muốn được khen và khen nhiều. Hằng ngày vào giờ nêu
gương cuối ngày trước khi cắm cờ, tôi cho trẻ tự nhận xét về mình trong ngày

9


đó, bạn nào ngoan có hành vi tốt, lời nói hay tôi nêu gương ra cho cả lớp và tặng
trẻ một bông hoa.
Ví dụ: Giờ ngủ bạn Tùng Lâm ngủ rất ngoan, không nói chuyện riêng tôi đưa
ra để động viên trẻ kịp thời. Hay giờ ăn bạn Ân Duy ăn nhanh, xúc cơm ăn gọn
gàng không làm rơi vãi thức ăn…thì trẻ rất phấn khởi, vui mừng được nhận hoa

cô tặng.
Còn bạn nào chưa ngoan cô động viên, khích lệ trẻ để trẻ tiến bộ.Ví dụ: Cháu
Mai Phương đến lớp còn đòi quà khóc uốn bố mẹ ...Tôi động viên trẻ hôm nay
bạn gần ngoan rồi nhưng vì bạn hơi mệt nên bạn còn uốn bố mẹ ngày mai đến
lớp con phải ngoan không uốn bố mẹ, không đòi quà nữa để được cô tặng hoa
giống như bạn đúng không nào, thế là trẻ cảm thấy rất vui, thoải mái và được cô
khen. Lớp tôi đã làm mỗi màu hoa là một nội dung yêu cầu:
- Hoa màu trắng: Bé sạch sẽ.
- Hoa màu xanh: Bé lễ phép.
- Hoa màu đỏ: Bé học ngoan.
Khi tặng hoa cho mỗi trẻ, trẻ nhận được bông hoa màu gì thì tôi thường hỏi
cả lớp vì sao bạn nhận được bông hoa màu đó? Ngoài ra, vào mỗi sáng tôi
thường đưa ra những tiêu chuẩn bé ngoan về lễ giáo để trẻ thực hiện. Cuối tuần
bao giờ cũng có tiết mục kể chuyện về gương tốt, tuần nào cũng vậy tôi không
bao giờ bỏ qua.
Ví dụ: Ở chủ đề gia đình, tuần 1 tôi kể cho trẻ nghe "Hai anh em", tuần sau
đọc thơ "Làm anh"... hoặc những câu chuyện có nội dung "Giáo dục kỹ năng
sống" do tôi đặt ra hoặc sưu tầm, những giờ như vậy trẻ rất thích lắng nghe,
nhằm kích thích trẻ học ngoan, muốn được cắm cờ, trẻ sẽ nỗ lực như ý muốn. Vì
trẻ ở lứa tuổi này thích động viên khen ngợi, được khen trẻ thêm tự tin và hào
hứng thực hiện tốt hơn yêu cầu của cô ở những lần sau.
3. Biện pháp 3: Tận dụng mọi cơ hội, mọi thời điểm thích hợp trong
ngày để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tăng cường tiếp cận giáo dục trẻ
theo nhóm nhỏ hoặc cá nhân.
Để việc làm có hiệu quả, trước tiên tôi thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt
trên ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc đẩy
mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và khả
năng định hướng về thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của
từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp.
3.1. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động đón trả trẻ.

Để giáo dục những điều tốt cho trẻ, có ích cho trẻ thì bất cứ lúc nào, hoạt
động nào dù lớn hay bé chúng ta cũng có thể giáo dục trẻ được, như giờ đón trẻ
khi ông bà, bố mẹ trẻ ra về cô ân cần vui vẻ chào đón, nhắc nhở trẻ chào cô,
chào bố mẹ khi đến lớp, khi về tự giác chào cô, chào bạn, xếp ghế, xếp dép, cất
và lấy đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định ... Trẻ làm tốt cô động viên khen ngợi,
trẻ chưa chào còn nhỏng nhẽo, khóc, đòi quà… cô cần giải thích nhắc nhở giúp
trẻ biết được đến trường các con ngoan ngoãn chào bố mẹ, chào cô giáo, chào
bạn là ngoan, còn khóc nhè, không chào, đòi quà là chưa ngoan. Cô thường
10


xuyên uốn nắn nhắc nhở để trẻ biết thực hiện đúng, biết “Chào bố mẹ, ông bà…
con đi học; chào cô giáo, chào các bạn mình về..."Cô giải thích cho trẻ hiểu: Bố
mẹ là người sinh thành ra con nên các con phải ngoan, vâng lời bố mẹ, đừng làm
bố mẹ phải buồn vì các con... Nếu được thực hiện liên tục thì trẻ sẽ trở thành
một thói quen, hành vi tốt, còn không chú ý dạy dỗ thích thì trẻ chào, không
thích thì thôi, đi học cứ khóc, cứ vòi quấy… sẽ trở thành thói quen xấu.
Ví dụ: Cháu Ngọc Bách đến lớp lúc nào cháu cũng chào cô, chào bố mẹ vào lớp
nhưng ra về cháu không chào, tôi thường xuyên gần gũi, tâm sự, theo dõi cháu để
tìm ra nguyên nhân đó là cháu đang thích chơi ở lớp chưa muốn về bởi vì mẹ đón
sớm. Biết được nguyên nhân như vậy tôi trực tiếp gặp phụ huynh trao đổi về giờ
giấc đón trả trẻ, nội dung học của cháu, thói quen, nề nếp của trẻ và tâm lý của trẻ
đang thích ở lớp để phụ huynh biết đồng thời giáo dục trẻ ra về chào cô, chào các
bạn mình về, cất ghế, chào ông bà, bố mẹ mới được về. Khi đã tìm được nguyên
nhân và kết hợp giáo dục trẻ đến giờ cháu tự giác chào hỏi lễ phép tiến bộ rõ rệt.
3.2. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động học có chủ định:
Lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các môn học ở
các lĩnh vực theo từng chủ đề có nhiều ưu thế, nhằm hình thành cho trẻ những thói
quen và hành vi tốt đối với thiên nhiên, đối với loài vật và lòng vị tha đối với con
người.

Ví dụ: Qua giờ kể chuyện “Thỏ ngoan” Cô đàm thoại với trẻ:
- Thỏ Ngoan vòng tay để làm gì? (Chào cô).
- Thỏ Ngoan chia gì cho bạn? (Chia đồ chơi)
- Thấy bạn khóc Thỏ Ngoan làm gì? (Hỏi thăm bạn)
- Chiều đi học về Thỏ Ngoan chào ai? (Chào ông, chào bà)
- Con thấy bạn Thỏ Ngoan như thế nào? (Rất ngoan và lễ phép).
- Nào cùng làm Thỏ Ngoan đi học, gặp cô giáo Thỏ làm gì? (Chào cô). Vòng
tay chào cô nào? (Vòng tay chào cô: cháu chào cô ạ!).
- Đi học về gặp ông (Vòng tay chào ông. Cháu chào ông ạ!)
- Gặp bà (Vòng tay chào bà. Cháu chào bà ạ!)
- Gặp bác hàng xóm (Cháu chào bác ạ!).
Mỗi một tình huống, mỗi một câu chuyện tôi dựa vào nội dung để giáo dục
trẻ cách ứng xử phù hợp. Qua việc thảo luận các tình huống như vậy trẻ luôn có
ý thức ứng xử phù hợp với con người và môi trường xung quanh.
Hay trong giờ khám phá môi trường xung quanh "Cây xanh và môi trường
sống" Cô đàm thoại với trẻ: Cây xanh để làm gì? Cây xanh có ích lợi như thế nào?
Muốn có nhiều cây xanh chúng ta phải làm gì?
Qua lợi ích của cây xanh, cô giáo dục trẻ không ngắt ngọn, bẻ cành mà phải
biết yêu thiên nhiên, chăm sóc cây để cây cho ta nhiều lợi ích như: cây cho bóng
mát, quả ngọt, hoa thơm, rau xanh...
Đối với các hoạt động khác cũng có thể lựa chọn nội dung giáo dục kỹ năng
sống phù hợp, hiệu quả.
3.3. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động ngoài trời:

11


Trẻ được quan sát tìm hiểu các loại cây xanh, được trò chuyện về tác dụng
của cây, biết được cây xanh tốt như thế là nhờ bàn tay chăm sóc của các cô giáo.
Từ đó giáo dục trẻ biết ơn các cô bác đã chăm sóc, trồng nhiều loại cây cảnh,

cây hoa cho đẹp trường và cho các con quan sát. Dạy trẻ biết chăm sóc cây, bỏ
rác vào đúng nơi quy định và khi được người lớn đưa đi chơi công viên, hay
chơi ở sân trường không được xô đẩy nhau, đồng thời giáo dục trẻ có ý thức giữ
gìn bảo vệ cây cảnh không bẻ cành ngắt lá, hái hoa…
Khi chơi với các đồ chơi ngoài trời phải có ý thức giữ gìn và bảo vệ, không
xô đẩy nhau, nhường nhịn và biết chờ đến lượt mình để cùng chơi đoàn kết...
3.4. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động vui chơi:
Như chúng ta đã biết, lứa tuổi này trẻ "học mà chơi, chơi mà học", trong giờ
chơi trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều vai chơi khác nhau trong cuộc sống của
người lớn, trẻ được tập làm người lớn như: Làm bố, mẹ, anh, chị, em, cô giáo, bác
sỹ, chú công nhân, người bán hàng ... trẻ thể hiện tình thương yêu, quan tâm và thái
độ đúng đắn với người lớn, sẵn sàng giúp đỡ nhường nhịn bạn, em bé, thích chơi
chung với bạn. Vì thế ở trường vai trò và biện pháp của cô cũng rất quan trọng, đặc
biệt ở hoạt động góc trẻ hay tranh dành đồ chơi và đánh nhau, chẳng ai muốn
nhường ai, khi đó cô phải là người khéo léo phân xử công bằng khi các tình huống
xảy ra.
Ví dụ: Khi trẻ chơi gia đình có cháu Thùy Dung đóng vai chị, cháu Yến Nhi
đóng vai em, 2 chị em giành nhau bạn búp bê. Cô giáo ứng xử: Chợ xa Yến Nhi
không đi được đâu, em Yến Nhi ở nhà giúp mẹ trông em kẻo em bé ngã, còn chị
Thùy Dung lớn hơn chị đi chợ. Thế là Thùy Dung không dành búp bê nữa. Qua
đó giáo dục kỹ năng xã hội cho trẻ biết giúp mẹ, nhường bạn...
Trò chơi bán hàng: Người bán hàng phải vui vẻ, niềm nở, lịch sự nhẹ nhàng với
khách hàng, đáp ứng với nhu cầu của người mua. Người mua hàng phải trật tự,
không xô đẩy chen lẫn nhau và khi mua thì phải trả tiền, không được tự do lấy hàng
mang về.
Như vậy trong khi chơi cô thường đặt ra các câu hỏi về các tình huống để xử sự
và kịp thời uốn nắn, sữa chữa kết hợp nhắc nhở động viên khen ngợi trẻ. Qua hoạt
động chơi giúp trẻ hình thành những thói quen, hành vi ứng xử chuẩn mực, biết
được công việc vất vả của người lớn, biết các mối quan hệ giữa trẻ với người thân
trong gia đình, giữa trẻ với cô giáo, giữa trẻ với bạn bè, đồng thời giáo dục trẻ biết

giúp đỡ người già, tàn tật, nhường nhịn các em nhỏ, từ đó giáo dục trẻ cách giao
tiếp ứng xử hướng tới cái thiện, cái đạo lý làm người để giúp trẻ ứng dụng trong
cuộc sống, trong gia đình, ở trường lớp học và ngoài xã hội.
Cô cần thận trọng trong việc đánh giá trẻ, cô đánh giá sự tiến bộ của mỗi trẻ so
với bản thân và đối chiếu với yêu cầu chung của trẻ trong lớp, đánh giá với mục
đích giúp đỡ trẻ phát triển tốt hơn, tránh việc so sánh trẻ với nhau, cô luôn nhìn
nhận, khen ngợi bất cứ sự tiến bộ nào của trẻ, dù là nhỏ nhất, hay những trẻ cá biệt
nhất, cô luôn rèn kỷ năng tự phục vụ cho bản thân như: Hôm nay ngủ dậy Thanh
Phương tự chải tóc gần đẹp giống cô chải rồi, bạn Hoàng Sơn hôm nay tự mặc
quần áo mà lại gài khuy cúc đúng nữa đấy, bạn Bảo Minh đi vệ sinh lại biết dội
12


nước sạch sẽ, bạn Minh Chiến quét nhà rất sạch như cô quét ấy nhỉ ... và biết giúp
đỡ nhau như: không dành đồ chơi của bạn, không trêu đùa xô đẩy bạn, rủ bạn cùng
chơi, thấy bạn khóc lại dỗ dành âu yếm bạn... Hôm nay Chi Hoa rất ngoan biết
nhường đồ chơi cho bạn Mai Phương mà còn chơi cùng bạn nữa, Bạn Thùy Dung
ăn xong còn giúp cô xúc cơm cho bạn Khải Minh, như là người chị chăm em bé ấy
nhỉ... Đặc biệt có cháu Tùng Lâm là trẻ nhút nhát trong lớp, tôi luôn quan tâm gần
gũi trẻ, đồng thời giải thích cho tất cả trẻ biết để trẻ thường xuyên động viên,
nhường nhịn bạn, chơi cùng bạn, có đồ chơi đẹp cũng nhường cho bạn.
Từ những việc làm cụ thể, những chia sẻ, những lời nói, những hành vi đẹp,
những thói quen tốt đó chính là những kỹ năng sống là nền tảng giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ trong cuộc sống hiện tại và cả tương lai.
3.5. Thông qua hoạt động giáo dục vệ sinh
Dạy trẻ thói quen đi vệ sinh đúng nơi quy định, xong biết dội nước, rửa tay.
Dạy trẻ vệ sinh tay, mặt trước khi ăn, trước khi ra về, như các thao tác kỹ năng
rửa, lau, biết dội nước…biết giúp cô xếp khăn, phơi khăn… Tự lấy khăn lau mặt
khi bẩn, tự rửa tay khi học chơi xong, hay khi đi vệ sinh…
Những thói quen đó chính là dạy trẻ các kỹ năng sống và kỹ năng xã hội từ

trong trường, lớp mầm non để dần dần trẻ có ý thức thực hiện trong cuộc sống,
nhằm tránh những thói hư tật xấu, giúp trẻ ý thức được những việc làm, những
hành vi đúng, hành vi sai, để từ đó trẻ biết thực hiện những việc làm đúng, tự
làm để phục vụ bản thân, hoặc có ý thức trẻ tự giúp cô làm những việc nhỏ.
Chằng hạn: Cháu Phương Thảo, thời gian đầu mới đi học lúc nào cũng đái ra
quần, không đi đúng nơi đúng chỗ. Hàng ngày đến giờ cho trẻ đi vệ sinh, tôi
nhắc nhở cháu vào nhà vệ sinh hướng dẫn cho cháu đi vào bồn cầu, không đi ra
quần và giải thích cho trẻ hiểu nếu làm như vậy thì không đẹp, không ngoan, tôi
hướng dẫn giải thích cho cháu như thế trong một thời gian liên tục cháu đã có nề
nếp, thói quen và biết tự phục vụ như biết đi vệ sinh khi có nhu cầu.
Hay cháu Quang Hưng hay quẹt mũi ngang má tôi giải thích cho trẻ hiểu con
quẹt mũi như thế bẩn, xấu trai, mọi người không yêu, khi nào có mũi con lấy
giấy lau sạch bỏ vào thùng rác hoặc lấy khăn lau đó mới là bé ngoan. Qua nhiều
lần cô vừa hướng dẫn vừa giúp trẻ, trẻ đã hiểu được đó là hành vi đúng dần trẻ
có thói quen nhất định và đến giờ những động tác xấu đó không còn nữa.
Như vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động vệ sinh đã giúp trẻ
hiểu được thế nào là hành vi đúng, thế nào là hành vi sai từ đó trẻ biết vâng lời
cô, mọi người thực hiện vệ sinh đầy đủ, trẻ tự giác thực hiện kể cả ở trường cũng
như ở nhà, có thể trẻ tự làm hoặc bố mẹ, cô giáo nhắc là trẻ thực hiện chứ không
phải quát mắng bắt buộc trẻ mới thực hiện như trước đây, những việc đó được
làm thường xuyên thì sẽ trở thành thói quen hàng ngày của trẻ.
3.6. Thông qua giờ ăn.
Giáo dục kỹ năng xã hội cho trẻ qua giờ ăn là một việc làm rất cần thiết và có
ý nghĩa lớn đối với trẻ, đặc biệt đối với trẻ 5- 6 tuổi, giờ ăn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Trước giờ ăn tôi giới thiệu tên món ăn cho trẻ đồng thời cho trẻ biết
tác dụng của các loại thức ăn cung cấp các chất dinh dưỡng vào cơ thể tôi gợi
13


hỏi trẻ: Chúng mình đã ăn món này chưa? Ăn vào cơ thể sẽ thế nào? Cô dạy trẻ

ý thức biết mời cô, bạn, người lớn trước khi ăn, ăn không nói chuyện, khi hắt
hơi, ho, ngáp thì phải biết lấy tay che miệng, biết ăn gọn gàng, biết nhặt cơm,
thức ăn đổ bỏ vào đĩa, biết lau sạch tay khi nhặt xong, ăn xong biết giúp cô cất
bát thìa, xếp ghế gọn gàng vào nơi quy định…
Ví dụ: Cháu Thái Sơn khi ăn cháu thường làm rơi vãi cơm, nhai nhồm nhoàm
tôi nhẹ nhàng hướng dẫn cháu xúc miếng nhỏ, nhai kĩ, ăn từ từ không làm rơi
cơm, nếu rơi con dùng tay nhặt bỏ vào đĩa lấy khăn lau tay sạch đồng thời giải
thích cho trẻ hiểu: làm rơi cơm bẩn thì rất mất vệ sinh, ăn miếng to mọi người
nhìn vào không đẹp ...Những lời hướng dẫn như vậy thì trẻ hiểu và không làm
rơi cơm, không ăn miếng to nữa.
Hay như cháu Tiến Dũng, thời gian đầu mới đi học trong giờ ăn hay nói
chuyện, cười đùa, lấy thức ăn từ bát của bạn, còn bỏ cơm sang bát của bạn. Tôi
nhẹ nhàng giải thích cho trẻ biết trong khi ăn nói chuyện, cười đùa, lấy thức ăn
của bạn, bỏ cơm sang bát của bạn là không tốt, mất vệ sinh, mất lịch sự, mọi
người không yêu, trẻ hiểu đó là những hành vi xấu, không đúng và trẻ sẽ không
làm và dần dần trẻ có thói quen vệ sinh văn minh trong ăn uống.
Những kỹ năng đó tuy đơn giản nhưng rất cần thiết, rất quan trọng trong cuộc
sống hàng ngày của trẻ và giúp ích cho trẻ sau này, khi lớn lên trẻ xác định được
như thế nào là hành vi đúng nên làm, như thế nào là hành vi sai không nên làm
nhằm giúp trẻ phát triển trở thành con người toàn diện.
3.7. Thông qua giờ ngủ:
Cô hướng dẫn trẻ cách lấy đồ dùng phục vụ trong giờ ngủ, để trẻ biết giúp cô
trải chiếu, lấy gối và xếp, lấy chăn để ngủ, ngủ dậy biết giúp cô cất chiếu, xếp
gối, gấp chăn và cất gọn gàng đúng nơi quy định, biết thực hiện theo giờ tất cả
đều phải trật tự nằm ngủ…, không nói chuyện riêng làm ảnh hưởng đến bạn
khác, cứ theo trình tự như vậy hàng ngày, ăn trưa xong nghỉ ngơi và tất cả đều
phải lên nằm ngủ.
Ví dụ: Cháu Thiên Nhi, cháu ở nhà được ông bà, bố mẹ cưng chiều từ ăn,
uống, ngủ, vệ sinh ...đều được mọi người phục vụ. Khi đến trường được cô uốn
nắn, giáo dục như ăn xong phải lau miệng, uống nước, biết giúp cô trải chiếu,

lấy gối, chăn lên gường nằm ngủ còn khi ngủ dậy thì cất gối, cất chăn, xếp chiếu
gọn gàng như vậy dần dần trẻ có nề nếp thói quen.
Đối với lứa tuổi mầm non ở nhà do bố mẹ cưng chiều, không có phương
pháp giáo dục nghiêm túc, nếu đến giờ ngủ trẻ thích thì ngủ, chưa thích thì thôi,
giấc ngủ của trẻ không theo giờ giấc, bố mẹ phải chăm ẵm, dỗ dành thậm chí
quát mắng chưa chắc trẻ đã chịu ngủ nhưng đến trường với sự chăm sóc giáo
dục của cô trẻ biết tuân thủ theo giờ giấc quy định của lớp.
Ví dụ: Cháu Như Nam, đầu năm đến lớp cháu không ngủ trưa có ngủ thì
cũng rất khó khăn, trưa nào tôi cũng cho cháu nằm cạnh, đầu tiên có thể trẻ ngủ
muộn hơn nhưng dàn dần trẻ đã quen với môi trường, ngủ đúng giờ lên giường
nằm là ngủ ngay.

14


Hay có một số trẻ khi ngủ thường hay tè dầm ra quần, nắm bắt được đặc
điểm của trẻ tôi nhắc trẻ đi vệ sinh trước khi đi ngủ và cho trẻ nằm cạnh để tiện
cho việc nhắc trẻ đi tiểu tiện không làm ảnh hưởng đến bạn khác.
Ví dụ: Cháu Phương Thảo thường hay đái dầm, thời gian đầu cứ 30-35 phút
tôi cho cháu đi một lần sau tôi tăng dần thời gian lên thì đến giờ cháu đã đi một
thời gian nhất định.
Trường mầm non là môi trường thuận lợi để hình thành các kỹ năng sống cho
trẻ: Đảm bảo môi trường giao tiếp thân thiện, hòa đồng, ấm cúng, cởi mở giữa
cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với môi trường xung quanh. Quan hệ giữa cô
và trẻ, người lớn với trẻ phải thể hiện tình cảm yêu thương, thái độ tôn trọng, tin
tưởng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của
mình. Tạo điều kiện cho trẻ giao tiếp và thể hiện sự quan tâm của mình đối với
mọi người, đối với sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh. Mối quan hệ giữa trẻ
với trẻ là quan hệ bạn bè cùng học cùng chơi, đoàn kết, hợp tác, chia sẻ, đồng
cảm, học hỏi lẫn nhau. Giáo viên cần nhạy cảm để tận dụng các mối quan hệ

giữa trẻ với trẻ để giáo dục trẻ và có sự thống nhất giữa nhà trường, gia đình và
cộng đồng xã hội trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
4. Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ được tham gia ngày hội, ngày lễ, các
hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh:
Như chúng ta đã biết, truyền thống của người Việt chúng ta luôn "tôn sư
trọng đạo". Vì vậy thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội như: Ngày hội đến
trường; ngày 20/10; ngày 20/11; ngày 22/12; ngày Noel, ngày tết nguyên đán;
ngày 8/3; ngày giỗ Tổ Hùng Vương; ngày 30/4, ngày 1/5, ngày 19/5... để giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Từ ý nghĩa của những ngày lễ lớn, tôi đã tham mưu với ban giám hiệu, phối kết
hợp với phụ huynh để cùng tổ chức các hoạt động văn nghệ, xem tranh, xem những
đoạn Video clip, đi tham quan... để chào mừng, khi được ban giám hiệu đồng ý tôi
đã chọn thời gian và địa điểm phù hợp để tổ chức cho trẻ đi tham quan, dã ngoại.
Chẳng hạn: Chủ đề “Tết và mùa xuân của bé” tôi cho trẻ đến thăm quan ở nhà
thờ xứ Ngọc Sơn – xã Định Tường nhân dịp lễ Noel. Hay ở chủ đề “Quê hương –
Đất nước - Bác Hồ” tôi cho trẻ tham quan nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ
của xã. Trước khi đi cô đàm thoại với trẻ:
+ Các con cần chuẩn bị những gì cho buổi tham quan này? (mũ, dép, trang
phục phù hợp,…).
+ Trên đường đi các con cần làm gì? (đi theo hàng, đi sát lề đường bên phải,
chào hỏi mọi người, …). Vì sao phải làm như vậy?
Trên đường đi cho trẻ hát hoặc đọc thơ những bài hát liên quan tới chủ đề
Quê hương – Đất ước – Bác Hồ. Chẳng hạn cho trẻ hát bài: Quê hương tươi đẹp,
Nhớ ơn bác, em mơ gặp Bác Hồ…)
Tới địa điểm tham quan cô đàm thoại với trẻ:
+ Các con đoán xem với địa điểm đi tham quan con sẽ biết được gì?
Tôi luôn đưa ra những câu hỏi gợi mở tương tự, phát huy tính tích cực của trẻ
để nhằm mở rộng mối quan hệ và hiểu biết, tạo sự tự tin, đoàn kết, đồng thời ôn
15



lại truyền thống của dân tộc để giáo dục trẻ lòng tự hào dân tộc, biết kính trọng
những người đã hy sinh cho lợi ích dân tộc, lợi ích trồng người. Nhằm hình
thành cho trẻ lòng tự hào, kính yêu đối với người lớn tuổi, thông qua đó khuyến
khích trẻ học tập và phấn đấu thành con người có ích cho xã hội.
Qua các buổi tham quan như vậy trẻ rất phấn khởi vì được cùng nhau giao
lưu với bên ngoài phạm vi trường mầm non. Trên đường đi trẻ biết đi theo hàng
lối và đi sát lề đường bên phải để bảo vệ an toàn cho bản thân, biết chào hỏi mọi
người trẻ gặp. Được đi nhiều lần trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Trẻ được
luyện kỹ năng giao tiếp xã hội, chào hỏi lễ phép, được rèn khả năng quan sát
nhận biết các sự vật hiện tượng ở trên đường đi và ở nơi mà trẻ đến tham quan.
Qua đó kiến thức mà trẻ thu được về chủ đề sẽ được mở rộng và khắc sâu hơn.
Bên cạnh đó, tôi còn tổ chức các hoạt động tập thể như: Chơi trò chơi dân gian,
giao lưu hỏi đáp về nội dung các câu chuyện đã được làm quen và bồi dưỡng, tham
gia hội thi cấp trường đạt kết quả cao như: Hội thi “Bé khỏe, bé khéo tay”, “Hội
khỏe bé mầm non”...
Chính trong quá trình tham gia vào các ngày lễ, hội các hoạt động tập thể mà
dần dần trẻ trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát, giao tiếp và ứng xử trước các tình huống,
các mối quan hệ một cách linh hoạt, phù hợp, tự tin, tự lực tham gia vào các hoạt
động trải nghiệm.
5. Biện pháp 5: Phối hợp với các bậc phụ huynh để giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
Đây là hình thức thường làm và đạt hiệu quả rất cao trong các hoạt động.
Việc trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trả trẻ giúp giáo viên dễ dàng nắm bắt
tình hình của trẻ, hiểu được tính cách, hoàn cảnh sống của trẻ từ đó đề ra các
biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp với phụ huynh trong việc
rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ theo khoa học.
Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi, tuyên
truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối với trẻ để giúp trẻ có
kỹ năng sống tốt. Bởi giáo dục chỉ đạt kết quả tốt khi nhà trường và gia đình kết

hợp với nhau một cách chặt chẽ thường xuyên và liên tục. Việc hình thành
những kĩ năng và giáo dục “kỹ năng sống” cho trẻ không chỉ trong phạm vi nhà
trường mà còn phải kết hợp gia đình. Hiểu rõ vai trò của các bậc phụ huynh nên
tôi mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng
sống đối với trẻ, nhất là trong thời kỳ hội nhập của nước ta tiếp nhận nhiều nền
văn hoá và trò chơi giải trí đã ảnh hưởng một phần không nhỏ về hành vi văn
minh của trẻ. Trẻ có thể đối xử thô bạo với bạn sau một đoạn phim hành động,
hay trẻ có những lời không nên đối với bố mẹ, khi không đồng ý cho trẻ chơi
điện tử hoặc bất kỳ một trò chơi nào trẻ thích. Để phụ huynh nhận thức ý nghĩa
của vấn đề, để cùng nhà trường giáo dục trẻ.
Luôn trao đổi với phụ huynh những bài thơ câu chuyện trẻ đang học và được
học trong chương trình, nhắc phụ huynh về nhà kiểm tra trẻ bằng hình thức đọc
thơ, kể chuyện. Đồng thời đặt một số câu hỏi cho trẻ trả lời, liên hệ vào bản thân
cho trẻ tự rút ra lời nhận xét về bài thơ, về hình ảnh trong thơ, hay nhân vật
16


trong chuyện. Từ đó rút ra xem trẻ cảm nhận được chỗ nào? Còn yếu chỗ nào?
Để cô và phụ huynh sẽ có biện pháp bồi dưỡng.
Phối hợp cùng phụ huynh sưu tầm tranh ảnh có nội dung về giáo dục kỹ năng
sống, sáng tác thơ, chuyện có tính chất giáo dục cao.
Tôi luôn trao đổi với phụ huynh về sự thay đổi hàng ngày của mỗi cháu để
phụ huynh kịp thời nắm bắt. Đặc biệt tôi xây dựng góc tuyên truyền có các nội
dung như: Nội dung chăm sóc giáo dục của các chủ điểm; nội dung theo chuyên
đề trong năm, nội dung sức khỏe tuyên truyền về các dịch bệnh; nội dung và
hình ảnh giáo dục kỹ năng sống cho trẻ... theo từng tháng và từng chủ đề để phụ
huynh nắm bắt và kịp thời giáo dục trẻ.
Qua thời gian trẻ lớp tôi tiến bộ rõ rệt như xưng hô lễ phép, lịch sự trong giao
tiếp, biết giúp đỡ mọi người, nhường nhịn các em nhỏ. Nhờ sự giáo dục bằng
phương châm "Trường học là nhà, nhà là trường học". Chính làm tốt công tác

này mà giáo dục “kỹ năng sống” cho trẻ ngày càng có chất lượng.
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ trong
điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem trẻ có tự tin và tự
nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Trẻ có thích tham gia dã ngoại
hay tham gia các nhóm sinh hoạt không? Trẻ có tự nhiên sáng tạo khi chơi với
đồ chơi không? Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay không?…
để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.
Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi thấy trẻ
lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết trẻ có kỹ năng sống cần thiết theo độ tuổi.
IV. Kết quả đạt được sau khi áp dụng một số biện pháp đề xuất.
Sau khi áp dụng một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tôi tiến
hành khảo sát trẻ kết quả đạt được như sau:

TT

Nội dung

1
2

Thể hiện ý thức về bản thân.
Thể hiện sự tự tin, tự lực.
Nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình
cảm với con người, sự vật, hiện tượng
xung quanh.
Có hành vi và thực hiện quy tắc ứng
xử xã hội
Quan tâm đến môi trường
Kết quả chung


3
4
5

Tổng
số trẻ Đạt
khảo
sát
42
41
42
40
42
42
42
42

Kết quả
Tỷ lệ CĐ Tỷ lệ
97.6
95

1
2

2.4
5

40


95

2

5

40

95

2

5

39
40

92.9
95

3
2

7.1
5

Qua bảng khảo sát cuối năm cho thấy: Phần lớn trẻ thể hiện được ý thức
về bản thân như nói được tên, tuổi, giới tính của bản thân và người xung quanh;
nói được điều trẻ thích và không thích; biết phân biệt điểm giống và khác nhau
17



với bạn; biết làm và cố gắng thực hiện một số công việc đơn giản, vừa sức. Đặc
biệt trẻ nhận biết được một số trạng thái cảm xúc khác nhau qua nét mặt, cử chỉ,
giọng nói và biểu lộ cảm xúc một cách phù hợp, biết an ủi và chia vui với người
thân, bạn bè và thực hiện một số quy định ở lớp, gia đình và nơi công cộng, biết
cảm ơn, xin lỗi chú ý nghe và biết chờ đến lượt. Ngoài ra trẻ biết bỏ rác đúng
nơi quy định, biết nhắc nhở người khác thực hiện giống mình. Vì thế, tỷ lệ trẻ
đạt yêu cầu về kỹ năng sống tăng lên rõ rệt, từ 73.8% tăng lên 95%. Điều đó
chứng tỏ một số biện pháp đề xuất có tính khả thi.
Về phía phụ huynh, sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ
huynh cảm thấy vui mừng, phấn khởi, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà
trường. Các bậc phụ huynh đã có thói quen phối hợp với giáo viên, tích cực
tham ra các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường.
Qua việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi cũng có
điều kiện để rèn luyện các kỹ năng sống của mình, có một số kinh nghiệm và tự
tin hơn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ trong đó có hoạt động giáo
dục kỹ năng sống.

18


C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết nhưng việc hình hành
kỹ năng ở trẻ diễn ra lâu hay mau phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống,
những mối quan hệ, mức độ đúng đắn, chuẩn mực của người lớn, chính vì thế cô
giáo và người thân của trẻ phải thật sự là tấm gương sáng để trẻ noi theo, luôn
giàu tình yêu thương, luôn thận trọng trong mọi hành vi của mình, thân thiện
yêu thương trẻ để tạo tâm lý thoải mái cho trẻ thực hiện tốt mọi hành vi và có

điều kiện giao tiếp, nhằm giúp trẻ từng bước hình thành nhân cách tốt.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em 5 tuổi là một nhiệm vụ quan trọng và lâu
dài; có tính chất quyết định đến chất lượng chăm sóc giáo dục của đơn vị. Vì
thế, cần có sự chung tay góp sức của tất cả mọi lực lượng xã hội tham gia vào
công tác này nhằm tạo nền tảng vững chắc để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, góp phần thực hiện thành công một trong ba khâu đột phá trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020. Chăm lo giáo dục
cho toàn dân, xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các
đoàn thể, của mọi gia đình và toàn xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh huy động mọi
nguồn lực cho giáo dục, trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành mục tiêu cho trẻ
5 tuổi, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
cho đất nước.
* Từ kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi rút ra một số kinh
nghiệm sau:
- Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi người giáo viên cần phải có
năng lực và trình độ chuyên môn, có kiến thức về kỹ năng sống để làm tốt
nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ. Ngoài ra cần phải có lòng yêu nghề mến trẻ.
- Giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Từ đó đề ra mục
tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Cô giáo phải là tấm gương cho trẻ về cách giao tiếp, các hành vi văn
minh trước mặt trẻ, tôn trọng trẻ, đối xử công bằng với trẻ.
- Nên tận dụng cơ hội ở mọi lúc mọi nơi để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
như: Giờ đón trả trẻ, hoạt động có chủ định, hoạt động vui chơi, hoạt động vệ
sinh ăn ngủ, hoạt động chiều….. và đánh giá thường xuyên các hoạt động đó.
- Xây dựng môi trường giáo dục sinh động, phù hợp để trẻ được trải
nghiệm, khám phá.
- Luôn kết hợp giữa gia đình và nhà trường để giúp trẻ tiếp cận và lĩnh hội
các kỹ năng cơ bản một cách tốt nhất, đồng bộ và hiệu quả nhất.
- Học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, nghiên cứu tài liệu để từ

đó rút cho mình những bài học hay nhất góp phần vào việc chăm sóc và giáo dục
trẻ đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả cao.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
19


- Để đạt được kết quả cao hơn nữa tôi đề nghị nhà trường cung cấp thêm
tài liệu về nội dung giáo dục kỹ năng sống. Đồng thời phối hợp với phụ huynh
để tổ chức cho trẻ 4 tuổi trở lên được tham gia các hoạt động tham quan, dã
ngoại.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình tôi giảng
dạy và chăm sóc trẻ nên không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được các cấp lãnh
đạo quan tâm giúp đỡ.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Định Tường, ngày 02 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép lại nội dung của
người khác
NGƯỜI VIẾT SKKN

Lê Thị Xuân

20


PHÒNGGIÁO
GIÁODỤC

DỤCVÀ
VÀĐÀO
ĐÀOTẠO
TẠOYÊN
YÊN
ĐỊNH
PHÒNG
ĐỊNH
TRƯỜNG MẦM
ĐỊNH
TƯỜNG
TRƯỜNG
MẦMNON
NON
ĐỊNH
TƯỜNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON ĐỊNH TƯỜNG

Người thực hiện: Lê Thị Xuân

MỘT SỐ BIỆNChức
PHÁP
vụ: NÂNG
Giáo viênCAO HIỆU QUẢ GIỜ KỂ
vị công

tác:
Trường
Mầm3Non
Tường
TRUYỆNĐơn
CHO
TRẺ
MẪU
GIÁO
– 4 Định
TUỔI
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

YÊN ĐỊNH, NĂM 2016

21


MỤC LỤC
Nội dung
A.
MỞ
ĐẦU...........................................................................................
I. Lý do chọn đề tài.................................................................................
II. Mục đích nghiên cứu.........................................................................
III. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................
IV. Phương pháp nghiên cứu..................................................................
B. NỘI DUNG.......................................................................................
I. Cơ sở lý luận ......................................................................................
1. Khái niệm kỹ năng sống.....................................................................

2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống...............................
II. Thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường
mầm non Định Tường............................................................................
1.
Thực
trạng...........................................................................................
a. Thuận lợi.............................................................................................
b. Khó khăn............................................................................................
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.................................................
III. Các giải pháp thực hiện....................................................................
1. Biện pháp 1: Nghiên cứu tài liệu, mục tiêu chương trình và nắm bắt
đặc điểm, khả năng của trẻ trong lớp để xây dựng kế hoạch giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ...............................................................................
2. Biện pháp 2: Tạo môi trường vật chất phong phú và tinh thần lành
mạnh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ; Động viên khen thưởng kịp
thời những trẻ có kỹ năng sống tốt........……..................................…...
3. Biện pháp 3: Tận dụng mọi cơ hội, mọi thời điểm thích hợp trong
ngày để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tăng cường tiếp cận giáo dục
trẻ theo nhóm nhỏ hoặc cá nhân.............................................................
3.1. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động đón trả trẻ..............
3.2. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động học có chủ
định.........................................................................................................
3.3. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động ngoài trời.....................
3.4. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động vui chơi.......................
3.5. Thông qua hoạt động giáo dục vệ sinh............................................
3.6. Thông qua giờ ăn.............................................................................
3.7. Thông qua giờ ngủ...........................................................................
4. Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ đượctham gia ngày hội, ngày lễ,
các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh……………………………
5. Biện pháp 5: Phối hợp với các bậc phụ huynh để giáo dục kỹ năng

sống cho trẻ…………………………………………………………….

Trang
1
1
2
2
2
3
3
3
3
3
3
3
4
5
5
5
6
10
10
11
11
12
13
13
14
15
16

17
19

22


IV. Kết quả đạt được sau khi áp dụng một số biện pháp đề xuất: ….....
C.
KẾT
LUẬN,
KIẾN
NGHỊ..............................................................
I. Kết luận .............................................................................................
II. Ý kiến đề xuất...................................................................................

19
19

23



×