Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm tại trường THPT lam kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.46 KB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình phát triển theo xu thế hội nhập có chọn
lọc. Vì vậy, bên cạnh việc chú trọng truyền thụ những tri thức khoa học cho các
em, việc quan tâm đến hoạt động “đức dục” cũng là một việc làm vô cùng cần
thiết để góp phần giúp các em trở thành một con người toàn diện có đủ cả đức
lẫn tài trước khi bước ra ngoài xã hội. Ngoài những môi trường khác như gia
đình, xã hội,... trường học nói chung và trường THPT nói riêng chính là môi
trường quan trọng góp phần rèn luyện, hình thành nên tri thức và nhân cách của
học sinh. Trong đó, vai trò của trường THPT là vô cùng quan trọng vì ở lứa tuổi
này, các em đã lớn, đã có những hiểu biết nhất định và cũng có những biến đổi
lớn trong tâm sinh lí theo từng năm học.
Ở trường THPT việc truyền thụ cho học sinh những tri thức khoa học là
nhiệm vụ chung của tất cả các giáo viên bộ môn ở mọi ngành khoa học được
giảng dạy qua các phân môn, còn hoạt động “đức dục” góp phần hình thành
nhân cách, đạo đức cho học sinh vai trò quan trọng nhất là ở người giáo viên chủ
nhiệm (GVCN) lớp. GVCN lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết
định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp
là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế
hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh.
Trong quá trình công tác, chủ nhiệm lớp là một công việc thường xuyên,
khá gắn bó với mỗi giáo viên và hầu như giáo viên dạy bộ môn nào cũng từng
kinh qua công tác này. Vì vậy, đối với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm nhiệm
trọng trách này đều tích luỹ cho mình một số kinh nghiệm riêng. Hơn thế, những
kinh nghiệm mà GVCN tích luỹ được cần được quan tâm, chia sẻ, bồi dưỡng
thêm nhằm mục đích làm tốt công tác chủ nhiệm.
Là một GVCN tôi rất trăn trở mong muốn học trò của mình là những con
ngoan, trò giỏi, tài đức vẹn toàn để sau này lớn lên các em tự tin, năng động, bản
lĩnh bước vào đời, trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi đã chọn đề tài “Một số kinh nghiệm
trong công tác chủ nhiệm tại trường THPT Lam Kinh” đúc kết kinh nghiệm


từ quá trình chủ nhiệm lớp của bản thân tôi trong các năm học vừa qua, đặc biệt
là trong khóa học 2013 – 2016.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm đề tài này mong muốn lớn nhất của tôi là đề ra những giải pháp có
hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện (cả “trí dục” và “đức
dục”) cho học sinh ở trường THPT, đồng thời được trao đổi với các bạn đồng
nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ của mình để công tác chủ nhiệm lớp ngày càng
có chất lượng hơn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Nguyên cứu quá trình chủ nhiệm lớp ở trường THPT.
* Phạm vi: Lớp C7 trường THPT Lam Kinh khóa học 2013-2016.
4. Phương pháp nghiên cứu
1


- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
+Nghiên cứu các phương pháp thường được áp dụng trong công tác chủ
nhiệm lớp
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học
sinh.
- Phương pháp điều tra:
+ Khảo sát, điều tra năng lực học tập, hoàn cảnh gia đình, cá tính từng học
sinh ở lớp chủ nhiệm.
+ Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn,học sinh, hội cha mẹ học
sinh, bạn bè và hàng xóm của học sinh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác
trong trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
+Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục đạo đức học sinh ở lớp

C7 trường THPT Lam Kinh từ năm 2013-2016.

2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Nhà trường, gia đình và xã hội đều có vai trò quan trọng trong giáo dục
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh. Các phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống của con người nói chung, học sinh nói riêng được hình thành
và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Lúc sơ sinh
vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non gia đình và nhà trường góp
phần quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học) càng lớn vai trò
của nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh THPT phải kết hợp chặt chẽ với
gia đình.
Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự
hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của học sinh.
Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định
hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường
giáo dục toàn diện nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục
chuyên nghiệp nhất nên nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội
tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia
đình và xã hội.
Trong trường THPT thì GVCN đóng vai trò không nhỏ trong quá trình
giáo dục học sinh. Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết GVCN phải nắm rõ
nhiệm vụ của GVCN trong điều lệ nhà trường. GVCN là một trong những nhân
tố thúc đẩy sự sự hình thành nhân cách của học sinh, mang lại một phần kết quả
rèn luyện đạo đức học tập của học sinh
2. Thực trạng của đề tài

Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, nghiện
hút v.v … đang có nguy cơ xâm lấn vào các trường học. Điều đó làm đảo lộn
vẩn đục môi trường giáo dục, không ngừng ảnh hưởng xấu đến đạo đức, nhân
cách và lối sống của học sinh. Nhà trường dù là một pháo đài vững chắc nhưng
vẫn có thể bị "tập kích" từ phía ngoài. Nhà trường không phải là một ốc đảo tách
khỏi xã hội, tách xa thực tiễn. Thực tiễn cuộc sống, nhất là cuộc sống xã hội
đang có các nhân tố của kinh tế thị trường tác động đến nhà trường, có lúc nhẹ
nhàng, có khi sôi động dồn dập.
Vì vậy trong công tác giáo dục ở trường THPT Lam Kinh, công tác chủ
nhiệm rất được chú trọng quan tâm, hàng tuần hàng tháng đều có giao ban, sinh
hoạt để cùng nhau tháo gỡ khó khăn của lớp, chia sẻ kinh nghiệm, tạo nên sự
dân chủ.
Nói đến chương trình hoạt động cụ thể của công tác chủ nhiệm thì Sở
chưa mở lớp bồi dưỡng về công tác chủ nhiệm cho giáo viên. Họ chỉ thực hiện
nhiệm vụ của mình bằng kinh nghiệm vốn có để quản lý giáo dục học sinh. Đối
với giáo viên mới ra trường được phân công làm GVCN thì họ sẽ bị lúng túng,
trăn trở và có những tình huống sư phạm không biết giải quyết thế nào cho hợp

3


tình, hợp lý. Để làm tốt vai trò,vị trí làm cầu nối giữa học sinh, phụ huynh, nhà
trường quả không phải là dễ.
3. Một số giải pháp đã vận dụng trong quá trình chủ nhiệm lớp C7 và các
kinh nghiệm của bản thân.
3.1. Đặc điểm tình hình lớp C7
* Thuận lợi
GVCN luôn nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của Ban Giám Hiệu,
cùng sự giúp đỡ của tất cả các ban ngành trong hội đồng sư phạm nhà trường.
GVCN, Ban giám hiệu, giáo viên bộ môn luôn phối hợp chặt chẽ với nhau

trong công tác giáo dục học sinh.
GVCN là người lâu năm trong nghề nên có nhiều kinh nghiệm ;trực tiếp
giảng dạy môn Toán nên thời gian tiếp xúc với lớp chủ nhiệm rất nhiều (4 tiết/ 1
tuần)
* Khó khăn:
Trong ba năm từ 2013 - 2016 tôi được Ban Giám Hiệu nhà trường phân
công chủ nhiệm lớp C7. Đây là lớp có nhiều em chưa chăm học, ham chơi, có
em còn tham gia đánh nhau, trốn học, ảnh hưởng đến kết quả thi đua của lớp.
Chất lượng đầu vào của lớp chưa cao. Cụ thể: Tổng số 44 trong đó:
- Về học lực:
Giỏi: 0.
Khá: 6.
Trung Bình: 38
Yếu: 0.
Kém: 0.
- Về hạnh kiểm:
Tốt : 15
Khá: 20
Trung bình: 9
Yếu: 0
Kém: 0
Nhiều em có hoàn cảnh khó khăn phải phụ giúp gia đình, nhà xa, ít dành
thời gian cho việc học.
Đa số học sinh chưa ý thức học tập ,nhiều em còn ham chơi.
Nhiều phụ huynh học sinh phải bươn chải cuộc sống, ít có điều kiện để
quan tâm chăm sóc con cái .Có em không còn bố.
Lớp có 9 học sinh chậm tiến:
- Lê Thanh Dương (hay nghỉ học vô lý do, gia đình buông lỏng).
- Lê Thị Vinh ( trốn tiết, gia đình buông lỏng).
- Lê Thị Phương (hay nghỉ học, ham chơi).

- Phan Thế Sơn (không chăm học, hay nghỉ học phụ đạo).
- Nguyễn Duy Anh ( không chăm học, bố mẹ đi làm ăn xa).
- Lê Văn Chung (hay trốn học đi đánh điện tử).
- Nguyễn Văn Quân (hay trốn học đi đánh điện tử).
- Nguyễn Minh Cường (còn tham gia đánh nhau).
- Nguyễn Thọ Chiến (còn tham gia đánh nhau).
4


3.2 Các giải pháp đã vận dụng trong công tác chủ nhiệm lớp C7
3.2.1. Giáo viên chủ nhiệm phải trau dồi cho bản thân những năng lực sư
phạm cần thiết.
- Có tầm hiểu biết nhất định về văn hóa chung.
- Có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục,dạy học.
- Có khả năng thu thập, tích lũy tri thức một cách sâu sắc hiện đại về môn
học của mình.
- Có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng thú với
động cơ học tập và rèn luyện đạo đức cho học sinh.
- Có sự thành thạo trong các kỹ năng sư phạm như:
+ Giao tiếp sư phạm trước đám đông hay đối xử cá biệt.
+ Biểu lộ và kiềm chế các cảm xúc, tình cảm khi cần thiết.
+ Ứng xử tốt các tình huống sư phạm.
+ Diễn đạt, trình bày các vấn đề có tính logic, có tính thuyết phục cao.
+ Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo trong công tác chủ nhiệm một cách
khoa học.
Nói tóm lại, GVCN phải là một công dân gương mẫu có lối sống lành
mạnh, biết sống vì mọi người, không chỉ cần có cái “Tài” mà còn phải có một
cái “Tâm” rất lớn. Chỉ có như thế ta mới đáp ứng và thực hiện tốt yêu cầu mà xã
hội đã tín nhiệm giao phó.
3.2.2. Giáo viên chủ nhiệm phải là người nắm rõ, nắm vững tình hình lớp

chủ nhiệm.
Muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được tâm tư tình cảm nguyện vọng
của các em. Nhưng làm thế nào để hiểu được những đều ấy một cách tường tận?
Theo tôi đó là tiếp cận với lớp chủ nhiệm nghĩa là chúng ta phải tiếp xúc gần gũi
trò chuyện tìm hiểu về hoàn cảnh, đặc điểm tâm sinh lí, tính tình sở thích… của
các em. Vì vậy trước tiên khi phụ trách một lớp tôi đã tìm hiểu học sinh qua các
mặt.
Thành phần gia đình:
• Con thương binh, liệt sĩ: 0.
• Con dân tộc ít người: 02
• Con mồ côi cha hoặc mẹ: 2
Học sinh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế:5 em
Để để tìm hiểu và nắm bắt được các nội dung trên tôi tiến hành làm các
công việc sau:
Bước 1: Điều tra lí lịch học sinh qua phiếu Sơ yếu lí lịch vào tuần đầu tiên
của năm học mới .
Bước 2: Để kiểm tra độ chính xác của các thông tin mà tôi thu thập được
qua phiếu điều tra tôi cố gắng tìm hiểu thông qua nhiều kênh khác nhau như từ
bạn bè, người quen, chính quyền địa phương, đến thăm gia đình một số học sinh,
… Qua đó sẽ hiểu biết cụ thể hơn, chi tiết hơn hoàn cảnh gia đình các em, ai là
người có tầm ảnh hưởng lớn đến các em. Từ đó tôi có những hình thức, những
biện pháp giáo dục linh hoạt phù hợp với từng em bởi giáo dục không phải là
5


một công thức chung có sẵn. Bên cạnh đó tôi còn trò chuyện với GVCN của
năm trước, liên hệ các giáo viên bộ môn trong lớp để có thêm những thông tin
chính xác về các em.
Bước 3: Đây là bước tiến hành thường xuyên ở từng giai đoạn. Tôi cung
cấp số điện thoại của bản thân, của nhà trường đến từng em và liên hệ với gia

đình học sinh qua điện thoại, sổ liên lạc,sổ liên lạc điện tử. Đây là sự liên hệ hai
chiều qua lại giữa nhà trường với gia đình, giữa GVCN với phụ huynh học sinh.
Bằng các hình thức liên hệ đó tôi sẽ nắm được những diễn biến về đạo đức, về
học tập,về quan hệ xã hội của các em từ đó có thể đánh giá hiệu quả những tác
động sư phạm đồng thời điều chỉnh kịp thời phương pháp giáo dục.
Bước 4: Quan sát có chủ định và ngẫu nhiên trong cuộc sống và hoạt
động thực của học sinh trong quá trình học tập, rèn luyện ở lớp học, cộng đồng
và ngoài nhà trường.
3.2.3.Giáo viên chủ nhiệm phải xây dựng được bộ máy tổ chức lớp học hợp
lí khoa học.
* Lựa chọn ban cán sự lớp:
- Cơ sở lựa chọn: + Căn cứ vào hồ sơ học bạ(chú ý học lực, hạnh kiểm ).
+ Căn cứ hiệu quả năng lực của ban cán sự lớp những năm
học trước.
+ Tham khảo ý kiến của GVCN của những năm trước.
+ Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp thông qua bầu dân
chủ đại hội lớp, đại hội chi đoàn lớp.
- Bầu cán bộ lớp: Lớp trưởng: Nguyễn Thị Quỳnh
Lớp Phó học tập: Phan Thị Giao
Lớp phó Lao động : Nguyễn Văn Hải
Bí thư: Lê Thị Thùy Dương
Cờ đỏ: Đào Trọng Huy
- Bầu tổ trưởng:
Tổ 1: Nguyễn Thị Hương
Tổ 2: Nguyễn Thị Hà
Tổ 3: Phạm Thị Nga
- Bầu Ban Cán sự phụ trách bộ môn:
Cán sự môn Văn: Lê Thị Mai Anh.
Cán sự môn Toán: Phan Thị Giao.
Cán sự môn Anh: Nguyễn Thị Phượng

* Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp:
- Lớp Trưởng: Quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của lớp dưới sự
chỉ đạo của GVCN, chủ trì các cuộc họp lớp, sinh hoạt lớp cuối tuần.Tổng hợp
và báo cáo kết quả thi đua về mọi mặt của lớp hàng tuần, hàng tháng, học kì,
năm học và có báo cáo cho GVCN. Tổ chức, động viên giúp đỡ những bạn gặp
khó khăn trong học tập, rèn luyện và đời sống.
- Lớp phó học tập: Theo dõi về mặt học tập của lớp, giải đáp mọi thắc mắc
của các bạn về học tập, lập kế hoạch giúp đỡ các bạn học sinh yếu kém vươn
6


lên, bảo quản sổ ghi đầu bài và báo cáo cho GVCN kết quả học tập của lớp hàng
tuần, hàng tháng.
- Ban cán sự bộ môn: Thực hiện và duy trì sinh hoạt 10 phút đầu giờ theo
chủ đề lớp đã chọn.
- Lớp phó lao động: Chịu trách nhiệm về mặt lao động vệ sinh của lớp, phân
công trực nhật, kết hợp với lớp trưởng quản lí lớp lao động và báo cáo kết quả
cho GVCN.
- Bí thư: Tổ chức theo dõi, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao do Đoàn, trường tổ chức.
- Cờ đỏ: Giám sát việc thực hiện nội quy của lớp bạn cũng như của lớp
mình, báo cáo kết quả cho ban nề nếp, cho GVCN về tình hình của lớp.
- Tổ trưởng: Theo dõi các hoạt động của tổ, nắm kết quả học tập của từng tổ
viên, xếp loại đánh giá tổ viên và báo cáo cho lớp trưởng tổng hợp.
* Lập sơ đồ lớp học, sắp xếp chỗ ngồi khoa học,hợp lý:
- Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của học sinh( tôi luôn chú ý các em có
nhu cầu về tai, mắt ).
- Căn cứ vào học lực của học sinh,chia đều số học sinh trung bình và yếu
cho mỗi tổ và xếp ngồi xen kẽ nhau.
- Căn cứ vào vóc dáng, chiều cao, cân nặng, giới tính.

* Một số yêu cầu khác:
- Học nội quy nhà trường, thảo luận và đề ra nội quy của lớp.
- Qui định về thưởng phạt: Cuối mỗi học kì, bất kì học sinh nào có ý thức
vươn lên, phấn đấu trong học tập, rèn luyện đạt kết quả tốt đều được tuyên
dương, khen thưởng trước lớp. Những học sinh chưa ngoan, chậm tiến, hay mắc
lỗi sẽ bị phê bình trước lớp hoặc phạt trực nhật, dọn vệ sinh, hạ hạnh kiểm...
(Những qui định này được đặt ra trên tinh thần dân chủ, phải lấy ý kiến của số
đông, tránh việc áp đặt).
3.2.4. Phổ biến tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm và học lực đến từng
học sinh và phụ huynh
GVCN phổ biến các tiêu chí đánh giá xếp loại hạnh kiểm và học lực theo
thông tư 58 đến từng học sinh và phụ huynh bằng văn bản kèm theo.
3.2.5.Thực hiện thường xuyên việc ghi chép sổ chủ nhiệm
Sổ chủ nhiệm được xem là nhật kí của lớp. Nó ghi lại kết quả học tập,
những diễn biến trong lớp trong suốt một năm học vì vậy khi làm sổ chủ nhiệm
tôi thật thận trọng, tôi ghi đầy đủ các chi tiết theo mẫu. Trong đó tôi chú ý nhất
là:
* Sơ đồ chỗ ngồi.
- Danh sách cán bộ lớp.
- Tên giáo viên bộ môn (Địa chỉ – số điện thoại).
- Nội quy trường lớp.
- Theo dõi kết quả thi đua.
- Theo dõi học sinh chậm tiến.
- Theo dõi mọi mặt từng học sinh theo định kỳ.
7


- Kiểm diện phụ huynh đi họp.
*Xây dựng kế hoạch hoạt động tuần, tháng, năm học:
- Nêu những công việc hoạt động trong tuần, tháng, năm.

- Đối tượng tham gia.
- Các biện pháp thực hiện.
- Kết quả đạt được.
- Nêu nhận xét,rút kinh nghiệm.
3.2.6.Trao đổi với phụ huynh học sinh qua các lần họp phụ huynh học sinh.
Trong các phiên họp phụ huynh tôi yêu cầu toàn thể phụ huynh đều có mặt
bằng cách gửi thư mời trước một tuần. Nếu ngày đó phụ huynh nào không có
đến được thì hôm khác phải đến gặp GVCN tại trường.
Thông qua phiên họp tôi đã làm các công việc sau:
-Thông qua nội quy nhà trường.
-Thông qua nội quy của lớp học, xin ý kiến của phụ huynh học sinh.
-Thông báo về các khoản thu (Tránh việc học sinh lợi dụng lấy tiến của
cha mẹ để đi chơi ).
-Học sinh nộp các khoản thu bao nhiêu thì đều được gởi giấy báo về gia
đình (có ghi ngày,giờ thu cụ thể).
-Bầu ban đại diện phụ huynh học sinh: Nhiệt tình - có thời gian để giúp
GVCN trong suốt năm học (vào các cuộc họp phụ huynh đầu năm).
-Lấy số điện thoại của phụ huynh để liên lạc và lấy chữ kí mẫu để tránh
các trường hợp học sinh thay mặt cha mẹ tự tiện làm đơn nghỉ học.
-Thông báo kết quả học tập và tu dưỡng đạo đức của từng học sinh.
3.2.7. Sinh hoạt lớp chủ nhiệm hàng tuần.
Hàng tuần tôi tiến hành tiết sinh hoạt chủ nhiệm vào tiết 5 ngày thứ 7. Tiết
sinh hoạt rất quan trọng vì đây là thời gian giáo viên chủ nhiệm tiếp xúc, gần gũi
nhiều hơn với lớp. Theo tôi, GVCN là chỗ dựa tin cậy nhất cho các em khi gặp
các khó khăn trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống, vì vậy buổi sinh
hoạt lớp phải đạt được các mục tiêu sau:
- Tạo cho học sinh một tâm lý thoải mái gần gũi sẵn sàng chia sẻ với giáo
viên những vướng mắc khó khăn của mình trong quá trình học tập và cuộc sống.
- Khích lệ động viên học sinh và chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng học tập,
sẵn sàng tiến bộ.

- Hướng dẫn thêm cho học sinh những kỹ năng sống, kỹ năng học tập.
- Nhắc nhở học sinh vi phạm khuyết điểm, thi hành kỉ luật đối với từng
học sinh vi phạm tùy theo mức độ nặng nhẹ mà nhắc nhở, khiển trách, cảnh cáo,

- Tôi luôn giải đáp những thắc mắc, xem xét những yêu cầu của học sinh
và có thể giải quyết nhu cầu cho các em nếu nhu cầu đó là chính đáng.
- Chia sẻ với học sinh: Tôi luôn luôn hỏi thăm trong gia đình em nào có
sự kiện đặc biệt như ốm đau, tai nạn, hiếu hỉ, mùa màng,...để từ đó có hướng
giúp đỡ các em kịp thời.

8


- Trao đổi, tâm tình về tâm lí lứa tuổi, định hướng nghề nghiệp, ước mơ
của các em .
- Hướng dẫn cho các em về phương pháp học của từng môn.
3.2.8. Theo dõi chéo giữa các tổ.
Trong trường học nói chung và trường THPT nói riêng, tùy vào sĩ số học
sinh mỗi lớp mà giáo viên chia lớp ra thành từng tổ cho dễ quản lí. Tôi chia lớp
làm 04 tổ với số thành viên trong tổ tương đương nhau. Trong mỗi tổ có một tổ
trưởng quản lí tổ của mình về mọi mặt. Để nâng cao chất lượng giáo dục, tôi cho
học sinh theo dõi chéo giữa các tổ với nhau theo hình thức mỗi tổ trong lớp là
một tổ trực tuần.
Tổ trực tuần sẽ làm nhiệm vụ thống kê cụ thể mọi hoạt động của lớp và sau
đó đến buổi sinh hoạt lớp, tổ trưởng tổ trực tuần sẽ thay mặt tổ lên đọc nhận xét
về tình hình học tập, rèn luyện đạo đức của lớp qua sự theo dõi của tổ mình. Với
những tổ trực tuần làm tốt công việc của mình tôi đều khen ngợi kịp thời cũng
như nghiêm túc phê bình những tổ trực tuần làm không tốt. Những học sinh vi
phạm những nội quy, quy định của nhà trường sẽ được tổ trực tuần ghi vào biên
bản trực tuần và phân công lao động cho lớp vào tuần kế tiếp. Sổ trực tuần sẽ là

căn cứ để tôi xếp loại hạnh kiểm đạo đức cho học sinh theo từng học kì và cả
năm học.
3.2.9. Phối hợp thống nhất biện pháp giáo dục học sinh với các giáo viên bộ
môn, với ban giám hiệu, với cán bộ Đoàn, ban nề nếp, với gia đình học sinh.
* Phối hợp với các giáo viên bộ môn(GVBM):
- Thống nhất kế hoạch và chương trình giáo dục chung đối với cả lớp.
- Thống nhất hình thức và biện pháp tác động đối với học sinh,học sinh bỏ tiết,
nghỉ học vô lý do, nghỉ phụ đạo nhiều lần. Điều hòa những biện pháp tác động
giữa các giáo viên và học sinh.
- Tôi đề nghị GVBM có kế hoạch phụ đạo thêm những em yếu kém giúp các em
lấy lại kiến thức căn bản. Tôi xin phép GVBM được dự giờ thăm lớp mình để
biết được thực lực từng môn của các em như thế nào, từ đó đề ra biện pháp giúp
đỡ phù hợp. Còn với những tiết học chính khóa GVBM cần thường xuyên kiểm
tra bài vở, gọi các em phát biểu ý kiến. Những câu trả lời đúng GVBM tuyên
dương hoặc là cộng điểm để các em có hứng thú trong học tập và không còn
phải sợ khi bị gọi đến tên.
- Đối với lớp tôi đề nghị các em mạnh dạn đóng góp ý kiến, nêu những trở ngại
trong các bộ môn học học đối với GVBM. Các em không nên tự ti giấu dốt, có
vấn đề gì chưa rõ cứ nhờ GVBM giúp đỡ. Tôi luôn tạo mối quan hệ gần gũi giữa
học sinh với GVBM bằng cách: khuyên các em phải biết kính trọng, quan tâm
đến hoàn cảnh các thầy cô.
- Tôi thường xuyên kiểm tra sổ đầu bài của lớp rồi trao đổi cùng GVBM về
những nhận xét các tiết học. Tôi đề nghị từng giáo viên ghi thật cụ thể đúng
người đúng tội để tránh tình trạng chung chung không biết xử lí em nào.
- Nhằm nắm bắt kịp thời tình hình học của các em tôi thường xuyên xem và theo
dõi sổ điểm của GVBM để xem qua điểm số của các bài kiểm tra miệng,15 phút
9


45 phút, học kỳ. Với cách làm này tôi sẽ nắm bắt được kết quả học tập của từng

em và thông báo về gia đình để gia đình cùng nhà trường có biện pháp giáo dục
tích cực, kịp thời nhằm tránh tình trạng học sinh chán học môn nào đó .
* Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường:
- GVCN lấy chủ chương hoạt động của nhà trường do Ban giám hiệu chỉ đạo để
lên kế hoạch hoạt động lớp mình, chịu trách nhiệm truyền đạt cho học sinh và
gia đình về chủ trương của trường, của ngành.
-Tôi thường xuyên báo cáo với ban giám hiệu về tình hình của lớp theo định kỳ,
hoặc đột xuất khi có vấn đề cần giải quyết. Khi có những khó khăn vướng mắc
tôi đều xin ý kiến chỉ đạo và được nhận sự giúp đỡ từ phía Ban giám hiệu.
* Phối hợp với Ban nề nếp:
Ban nề nếp của trường không chỉ quản lí học sinh về các mặt mà còn là
một “tòa án” mà những “bị cáo” là các em học sinh quậy phá, cúp tiết nghỉ học
không phép,… Vì lẽ đó tôi thường xuyên trao đổi, thăm nắm tình hình lớp từ
ban nề nếp để hiểu rõ hơn về học tập, đạo đức, tình hình,… của các em. Đối với
những em hay vi phạm nội quy nhà trường tôi thường yêu cầu mời phụ huynh
học sinh gặp GVCN cùng với ban nề nếp để làm cam kết nhằm tránh tình trạng
quanh co, chạy tội. Khi đó, bao giờ tôi cũng yêu cầu các em phải đọc bản tự
kiểm điểm của mình, tự nhận thức tội lỗi và cam kết sửa chữa khuyết điểm. Nếu
tái phạm sẽ nhận hình thức kỷ luật nặng. Những bản kiểm điểm đó chính là “hồ
sơ lưu” để đánh giá hạnh kiểm của của các em ở các học kì cũng như cả năm
học.
* Phối hợp với Đoàn trường:
- Giúp cán bộ Đoàn phát hiện những thanh niên ưu tú để giới thiệu kết nạp.
- Giúp cán bộ Đoàn đôn đốc về các khoản quỹ ,các hoạt động Đoàn.
- Phối hợp với Đoàn trường xử lý học sinh vi phạm nội quy nhà trường.
- Phối hợp với Đoàn trường để học sinh tham gia các hoạt động của Đoàn được
tốt nhất như: phong trào thanh niên tình nguyện, xây dựng công trình thanh niên,
ủng hộ trẻ em vùng cao, hành động vì tháng thanh niên, kỷ niệm ngày thành lập
Đoàn,các cuộc thi do Đoàn tổ chức...
* Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh :

- Một năm tiến hành 3 lần họp phụ huynh : đầu năm, cuối kỳ I, cuối năm để
thông báo tình hình, kết quả học tập của học sinh cho phụ huynh biết.
- Thông qua các cuộc họp phụ huynh,tôi thường phổ biến các chủ trương,đường
lối giáo dục chung.Vận động cha mẹ tạo điều kiện hết sức có thể để các em có
điều kiện học tập tốt nhất . Đồng thời tôi cũng nhắc nhở cha mẹ học sinh theo
dõi sự phát triển của con em, hiểu con, thống nhất với nhà trường về mục đích ,
nội dung, phương pháp giáo dục các em.
- Trình bày cho phụ huynh thấy được phương hướng hoạt động, chỉ tiêu phấn
đấu của lớp ,của trường. Kế hoạch khen thưởng và kỷ luật của trường,lớp.
- Tôi có kế hoạch thông báo cho gia đình học sinh biết kết quả học tập, rèn luyện
đạo đức, lao động,… sau 3 tháng đầu mỗi học kì, cuối HKI và cuối HKII cũng

10


như cả năm; để gia đình kịp thời nắm bắt được tinh thần học tập, hành vi của
con em mình. Từ đó có biện pháp giáo dục uốn nắn phù hợp.
- Tôi thường xuyên liên hệ ,trao đổi với gia đình học sinh nhất là gia đình các
em học sinh chậm tiến. Đôi khi tôi còn đến thăm gia đình những học sinh có
hoàn cảnh đặc biệt và học sinh chậm tiến để tìm hiểu các em, động viên các em
kịp thời.
- Bên cạnh đó tôi còn đề xuất với nhà trường trong những buổi lễ sơ kết hoặc
tổng kết năm học mời các phụ huynh có con em học giỏi, có thành tích về các
mặt hoạt động được khen thưởng đến dự lễ để họ tự hào hãnh diện về con mình.
Và ngược lại cũng thấy được rằng mình cần phải cố gắng để đem lại niềm vui
cho cha mẹ.
- Khi phối hợp với gia đình học sinh tôi thiết nghĩ GVCN cần linh hoạt trong sử
dụng các biện pháp và hình thức vì hoàn cảnh gia đình không ai giống ai. Có
gia đình có điều kiện kinh tế, có thời gian luôn quan tâm theo dõi sâu sát chuyện
học tập của con em. Nhưng cũng có gia đình cha mẹ phải đầu tắt mặt tối đi sớm

về khuya, hoặc đi làm ăn xa họ không có thời gian để quan tâm con cái, mặc dù
ai cũng muốn con mình học giỏi, ngoan ngoãn. Có gia đình bố hoặc mẹ không
còn...Vậy làm thế nào để phụ huynh nào cũng nắm bắt kịp thời kết quả học tập
của con em mình? Đó cũng là điều tôi trăn trở, suy nghĩ. Từ đó tôi đi đến quyết
định: Mình phải thường xuyên liên hệ phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh.
Tóm lại GVCN phải huy động tiềm năng trí tuệ và khả năng của các bậc
phụ huynh vào việc giáo dục toàn diện học sinh đặc biệt là vấn đề tư tưởng đạo
đức, ý thức học tập cũng như là việc phòng chống các tệ nạn xã hội. Muốn có sự
phối hợp này rất cần sự nhận thức một cách đầy đủ trách nhiệm của chính bản
thân phụ huynh học sinh và sự nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ của GVCN.
3.2.10. Biện pháp giáo dục học sinh chậm tiến .
- Trước hết, để giáo dục học sinh chậm tiến có kết quả tốt tôi luôn dành cho các
em một tình yêu thương thực sự, thậm chí là cần nhiều hơn những học sinh bình
thường khác.Tôi luôn kiên trì cố gắng động viên, giảng giải, phân tích những
điều hay, lẽ phải để giúp học sinh hiểu được mình phải làm gì và từ đó cố gắng
vươn lên. Tôi cố gắng trở thành người bạn để học sinh đó tâm sự ,sẻ chia; làm
người mẹ,người cô mẫu mực để học sinh đó noi theo. Tôi thường xuyên có
những buổi nói chuyện với các em kể cả gặp trực tiếp hay qua điện thoại, gửi
Email,... để hiểu các em hơn và cũng là để phân tích cho các em sâu hơn thế nào
là một học sinh ngoan, thế nào là một học sinh tốt,...
- Thứ hai, trong tập thể lớp,tôi duy trì thật tốt nề nếp kỷ cương của lớp, của
trường để mọi học sinh tự nhận thức, tự khép mình trong những nội quy, quy chế
chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc, trao đổi, thỏa sức đóng góp. Tôi
luôn nghiêm khắc, công bằng, thưởng phạt nghiêm minh tránh tình trạng các em
tỵ nhau. Đối với những học sinh chậm tiến, những lỗi lầm của các em mắc phải
tôi không bỏ qua và vẫn xử lí bình thường như những học sinh khác (như bỏ tiết
học, nghỉ học không phép lần đầu cho làm bản kiểm điểm, lần hai khiển trách
trước lớp, lần ba thông báo lên Ban giám hiệu nhà trường,...) tuy nhiên với
11



những cố gắng hay những thành tích, những việc tốt mà các em đã làm được tôi
khéo léo động viên trước tập thể lớp để các em có động lực phấn đấu vươn lên.
- Thứ ba, tôi thường xuyên báo cáo với Ban giám hiệu nhà trường về tình hình
học sinh chậm tiến của lớp mình để nhà trường nắm được từ đó đưa ra phương
pháp giáo dục kịp thời,hợp lí.
- Thứ tư, tôi thường xuyên thông báo với gia đình học sinh chậm tiến về tình
hình học tập, rèn luyện đạo đức của con em mình khi học sinh đó có biểu hiện
không tốt cũng như khi học sinh đó có những biểu hiện tiến bộ. Trong việc giáo
dục học sinh chậm tiến, phối hợp với gia đình học sinh không chỉ là mời phụ
huynh học sinh đó đến trường rồi thông báo kết quả học tập, rèn luyện của con
em họ mỗi khi có sự việc gì học sinh đó gây ra mà còn bàn bạc với phụ huynh
cách giải quyết vấn đề, phương hướng giáo dục các em cho tốt nhất. Hơn nữa,
để giáo dục học sinh đó được tốt hơn, tôi còn chủ động tới thăm nhà các em, gặp
các thành viên trong gia đình động viên họ quan tâm nhiều hơn nữa tới các em.
- Thứ năm, tôi luôn phối hợp chặt chẽ với GVBM, các đoàn thể xã hội khác để
cùng phối hợp, thống nhất nội dung, mục đích, biện pháp giáo dục học sinh
trong nhà trường và ngoài xã hội.
3.3. Một số kinh nghiệm của bản thân giúp tăng cường hiệu quả công
tác chủ nhiệm.
-Để lớp đi vào nề nếp, chăm chú học tập, tham gia hoạt động tốt tôi đã
bám sát kế hoạch giảng dạy từng học kì, để đề ra kế hoạch hoạt động cho lớp
chủ nhiệm. Lớp tiến hành hoạt động theo sự quản lí và theo dõi của Ban Cán sự
lớp có sự kiểm tra đôn đốc của GVCN. Ở mỗi tuần, mỗi tháng tôi đều có lời
khen đúng lúc cũng như kịp thời uốn nắn những hành vi sai trái.Việc làm này tôi
thực hiện thường xuyên liên tục, kiên trì không hề bỏ qua dù bất cứ lí do nào.
Tôi luôn luôn giữ uy tín đối với học sinh, nói và làm luôn đi đôi với nhau, việc
làm phải tới nơi tới chốn.
-Tôi luôn nhẹ nhàng, tế nhị, tôn trọng danh dự của học sinh. Đến lớp tôi
luôn tạo sự vui vẻ lạc quan nhiệt tình không nên chán nản, buồn rầu nhất là

những chuyện buồn của cá nhân ảnh hưởng đến lớp. Khi vào lớp tôi luôn ăn
mặc chỉnh tề, gọn gàng, lịch sự nhằm tạo ấn tượng tốt đẹp cho học sinh cũng
như phụ huynh học sinh vì muốn người khác tôn trọng ta thì trước hết ta phải
tôn trọng người, đặc biệt phải tôn trọng chính mình.
- Đối với học sinh chưa ngoan, chậm tiến tôi tìm hiểu nguyên nhân, gần
gũi các em nhiều hơn, lắng nghe thấu hiểu điều các em nói. Từ đó có sự quan
tâm giáo dục kịp thời, đúng mực để giúp các em tiến bộ.
- Mỗi học sinh đều có đặc điểm về tâm sinh lý, về mức độ nhận thức, về
vốn sống, về cách cư xử với người xung quanh khác nhau nên đối với mỗi học
sinh ta cần có biện pháp giáo dục khác nhau.
Tóm lại GVCN là đại diện cho quyền lợi chính đáng cho học sinh, bảo vệ
cho học sinh về mọi mặt một cách hợp lí. GVCN còn là cầu nối để phản ánh
những tâm tư tình cảm nguyện vọng của học sinh đến với Ban giám hiệu nhà
trường,GVBM, gia đình và các đoàn thể xã hội khác. Để đạt được hiệu quả của
12


công tác chủ nhiệm ở trường THPT cần có sự phối hợp tốt giữa các lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường cộng với ý thức trách nhiệm sự khéo léo tinh
tế của GVCN.
4. Hiệu quả của đề tài
Trong thời gian làm chủ nhiệm lớp ,tôi có những nổi băn khoăn lo lắng
,trăn trở,nhiều lúc cũng khó khăn bế tắc. Nhưng bằng tất cả sự nỗ lực của bản
thân tôi cùng với sự quan tâm của Ban giám hiệu, và tất cả các thầy cô trong nhà
trường cũng như sự cộng tác nhịp nhàng ăn ý của phụ huynh học sinh. Tôi đã
đạt được những kết quả khả quan: học sinh biết vâng lời và yêu quý thầy cô
giáo, biết xác định động cơ học tập đúng đắn, tập thể học sinh biết thương yêu
đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho
từng học sinh trong Ban cán sự lớp đã đem lại hiệu quả trong việc quản lí nề nếp
và chất lượng học tập. Các em thực hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách

nhiệm cao. Có những trường hợp GVCN không cần có mặt nhưng các em vẫn
quản lí lớp tốt. Đây là một trong những nhân tố quyết định thành tích lớp đạt
được.
Nhờ có những biện pháp giáo dục đúng đắn và cái tâm của người thầy tôi
đã có những thành công trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chậm tiến
(đến cuối năm học 2015-2016 lớp không còn học sinh chậm tiến nữa) và loại bỏ
được nguy cơ bỏ học giữa chừng như học sinh Nguyễn Văn Chiến, học sinh
Nguyễn Minh Cường.
Đặc biệt sau 3 năm học lớp C7 được sự tin tưởng thương yêu của tất cả
các thầy cô, ai cũng hào hứng khi bước vào lớp giảng dạy. Riêng bản thân tôi
được học sinh quý trọng, phụ huynh tín nhiệm, đồng nghiệp tin yêu.
Theo thời gian, những bài học về đạo đức, nhân cách trong tiết sinh hoạt
lớp giúp học sinh luôn nhớ, vững bước hơn trước những khó khăn trong cuộc
sống.
* Về kết quả học tập, rèn luyện đạo đức của lớp.
Kết quả từng năm đạt được như sau:
- Năm học 2013 - 2014
+ Về học lực:
Giỏi
SL Tỉ lệ
(%)
0
0

Khá
SL Tỉ lệ
(%)
10
22


Trung bình
SL
Tỉ lệ
(%)
34
73,3

Yếu
SL Tỉ lệ
(%)
0
0

Kém
SL
Tỉ lệ
(%)
0
0

Yếu
SL Tỉ lệ
(%)
0
0

Kém
SL
Tỉ lệ
(%)

0
0

+ Về hạnh kiểm
Tốt
SL Tỉ lệ
(%)
20 45,5

Khá
SL Tỉ lệ
(%)
20 45,5

Trung bình
SL
Tỉ lệ
(%)
4
9,0

13


- Năm học 2014 - 2015
+ Về học lực:
Giỏi
SL Tỉ lệ
(%)
0

0

Khá
SL Tỉ lệ
(%)
15 34,1

Trung bình
SL Tỉ lệ
(%)
29
65,9

Yếu
SL Tỉ lệ
(%)
0
0

Kém
SL Tỉ lệ
(%)
0
0

Yếu
SL Tỉ lệ
(%)
0
0


Kém
SL
Tỉ lệ
(%)
0
0

Yếu
SL Tỉ lệ
(%)
0
0

Kém
SL
Tỉ lệ
(%)
0
0

Yếu
SL Tỉ lệ
(%)
0
0

Kém
SL
Tỉ lệ

(%)
0
0

+ Về hạnh kiểm
Tốt
SL Tỉ lệ
(%)
28 63,6

Khá
SL Tỉ lệ
(%)
14 31,8

Trung bình
SL
Tỉ lệ
(%)
2
4,6

- Năm học 2015 - 2016
+ Về học lực:
Giỏi
SL Tỉ lệ
(%)
3
6,8


Khá
SL Tỉ lệ
(%)
25 56,8

Trung bình
SL
Tỉ lệ
(%)
16
36,4

+ Về hạnh kiểm :
Tốt
SL Tỉ lệ
(%)
35 79,5

Khá
SL Tỉ lệ
(%)
9
20,5

Trung bình
SL
Tỉ lệ
(%)
0
0


III . KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
14


1 Kết luận:
Qua quá trình làm công tác chủ nhiệm ở trường THPT, với những thành
quả đã đạt được cho tôi ngày hôm nay. Tôi rút ra được các bài học kinh nghiệm
sau:
- Công tác chủ nhiệm là một bộ phận quan trọng trong nhà trường ,đòi
hỏi người GVCN hết sức sáng tạo, có một tinh thần trách nhiệm cao mới gánh
vác được nhiệm vụ này.
- Công tác chủ nhiệm rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi mỗi GVCN phải bỏ
nhiều công sức và thời gian. Để làm tốt vai trò của mình GVCN cần biết đặt tình
thương, trách nhiệm để giải quyết các tình huống của lớp mình phụ trách dựa
trên cơ sở, nề nếp kỷ cương của nhà trường. Biết phối hợp chặt chẽ giữa ba môi
trường: gia đình, nhà trường và xã hội.
- GVCN cần có lòng nhiệt tình, tính chịu khó, năng động sáng tạo nhất là
thực sự yêu mến quan tâm đến học sinh như chính con em mình.
- Người giáo viên cần phải nắm và am hiểu sự phát triển tâm sinh lí của
học sinh THPT để có biện pháp giáo dục không phải là khuôn mẫu. Mỗi con
người đều có hoàn cảnh, có tâm sự, có tình cảm, tính tình khác nhau cho nên
việc am hiểu các em và tìm biện pháp giáo dục thích hợp quả là không đơn giản.
Nó vốn đã khó với một giáo viên lại càng khó hơn đối với một GVCN. Nhưng
càng đắng cay bao nhiêu thì thành quả lại càng ngọt ngào và đáng trân trọng bấy
nhiêu.
- Người giáo viên phải thực sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng toàn vẹn
từ nhận thức đến hành động thực tiễn, từ lời nói cử chỉ điệu bộ đến thái độ ứng
xử hằng ngày. Đây là cách giáo dục dùng nhân cách tác động đến nhân cách. Để
trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo, tôi luôn quan niệm: Phải sống

cho trong sạch dù có nghèo về vật chất nhưng luôn giàu có về mặt tâm hồn, tình
cảm và mỗi ngày sẽ là một sự tiến bộ hơn hoàn thiện hơn.
- GVCN cần phải có lí tưởng nghề nghiệp đúng đắn, phải thực sự am hiểu
nắm bắt sâu sát, chủ trương đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước trong
thời kì đổi mới. Chính lí tưởng và lòng yêu nghề mến trẻ sẽ là nghị lực niềm tin
để người giáo viên vững bước trong sự nghiệp giáo dục mà mình đã theo đuổi.
- GVCN cần phải không ngừng học tập, trau dồi chuyên môn, phải có tay
nghề cao. Đây chính là yếu tố quyết định sự thành công của công tác chủ nhiệm
vì: “Để cung cấp cho người học một hạt nhỏ hào quang kiến thức thì người thầy
giáo phải cố gắng một biển cả ánh sáng.”
- Tóm lại, để làm tốt công tác chủ nhiệm, đòi hỏi người GVCN không chỉ
phải là một giáo viên dạy tốt môn học văn hoá, phải quan tâm đến chất lượng hai
mặt giáo dục là học lực và hạnh kiểm của học sinh (là vấn đề trọng tâm) mà còn
phải quan tâm đến sự phát triển ở học sinh về các giá trị đạo đức, thẩm mỹ, thể
chất,…Do vậy, theo tôi, hai yếu tố cốt lõi không thể thiếu đối là người GVCN
lớp đó là “cái tài” của một nhà tâm lí và “cái tâm” của một nhà giáo dục. Khi kết
hợp nhuần nhuyễn, hoà quyện hai yếu tố này thì người giáo viên nói chung,
người GVCN lớp nói riêng đã có thể làm tốt trách nhiệm của mình trong thời đại
15


mới ngày nay và hơn thế làm thăng hoa nhân cách của mình trong lòng bao thế
hệ đồng nghiệp và học trò yêu dấu.
2. Kiến nghị:
- Để phát huy hơn nữa hiệu quả của hoạt động của GVCN, nhà trường cần
quan tâm hơn nữa đến công tác chủ nhiệm lớp.
- Sở nên mở lớp bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ công tác của GVCN .
- Tổ chức cuộc thi GVCN giỏi cấp tỉnh.
- Giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực và kiên trì .Mỗi giáo viên
cần biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các phương pháp phù hợp với từng đối

tượng học sinh. Bằng lòng yêu nghề mến trẻ, bằng sự vị tha, bao dung, độ
lượng,… chắc chắn GVCN sẽ thành công trong công tác giáo dục học sinh lớp
mình phụ trách. Nói cách khác nhà giáo là một con người trí tuệ, đức độ giàu
lòng nhân ái khoan dung có vai trò như là người cha, người mẹ đúng như câu
nói: “Cha mẹ cho con hình hài vóc dáng còn thầy cô cho các em kiến thức, nhân
nghĩa để các em có thể vững bước trên con đường đời đầy chông gai thử thách”.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình làm công tác
chủ nhiệm lớp ở trường THPT Lam Kinh . Đề tài còn nhiều thiếu sót nên tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô đã từng làm GVCN để tôi đúc kết và
được học hỏi nhiều thêm.
Xin trân trọng cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh hoá, ngày 30 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Lê Thị Nhàn

TÀI LIỆU THAM KHẢO
16


1. Nhiệm vụ của GVCN trong điều lệ trường THPT theo quyết định số
07/2007/QĐ của bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo.
2. Số liệu sổ điểm lớn của lớp C7 trong 3 năm học liên tiếp: 2013-2016.
3. Sổ chủ nhiệm của lớp C7 trong 3 năm học liên tiếp: 2013-2016.

4. Học hỏi kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm của đồng nghiệp trong trường
THPT Lam Kinh và các trường THPT khác.

17



×