Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng tuổi thông qua hoạt động nhận biết ở trường mầm non nga thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.48 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Biện pháp 1. Tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ
nghiệp vụ cho bản thân.
Biện pháp 2. Tìm hiểu đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ 24
- 36 tháng tuối.
Biện pháp 3. Tạo môi trường phong phú hấp dẫn nhằm phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Biện pháp 4. Tổ chức giờ học theo chương giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm, có ứng dụng công nghệ thông tin.
Biện pháp 5. Phối hợp với các bậc phụ huynh phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận.
- Kiến nghị

1




1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Thủa sinh thời Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta đã từng nói: “Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai”. Thật vậy! trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi
gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha ông để
xây dựng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước, nền kinh tế không ngừng phát triển với một sự thay đổi cơ bản về cơ
cấu xã hội để tiếp cận với một nền văn minh phát triển cao. Trong đó con người
đứng ở vị trí trung tâm.“Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng.
Giao tiếp là một đặc trưng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất” V.Lê Nin.
Nhờ có ngôn ngữ mà con người xích lại gần nhau hơn có thể hiểu được
nhau, cùng nhau hành động vì mục đích chung: Lao động, đấu tranh, xây dựng
và phát triển xã hội.
Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên trong nền giáo dục quốc dân góp phần
quan trọng cải tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Thực hiện
nhiệm vụ của Bộ giáo dục và đào tạo, ngành học mầm non đã đưa 4 lĩnh vực
phát triển vào chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ nhà trẻ đó là:
Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ và phát triển tình
cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ [1]. Trong đó lĩnh vực phát triển ngôn ngữ là
một thể thống nhất không thể tách rời nó là công cụ để tư duy, là chìa khoá để
nhận thức, là phương tiện để giao tiếp, điều khiển, điều chỉnh các hành vi giúp
trẻ lĩnh hội các giá trị đạo đức chuẩn mực.
Lứa tuổi MN là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ. Đây là giai đoạn có nhiều điều
kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng đọc viết ban đầu
của trẻ. Ở giai đoạn này trẻ đạt được những thành tích vĩ đại mà ở các giai đoạn
sau không thể có được, trẻ học nghĩa và cấu trúc của từ, cách sử dụng từ ngữ để

chuyển tải suy nghĩ và cảm xúc của bản thân, hiểu mục đích và cách thức con
người sử dụng chữ viết. Cùng với quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, trẻ lĩnh hội và
phát triển các năng lực tư duy như xây dựng và biểu đạt ý tưởng, chia sẻ thông
tin với người khác và tiếp nhận, đáp lại ý tưởng, thông tin của người khác. Phát
triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác
của trẻ. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển nhận thức, giải quyết vấn đề và chức năng tư duy ký hiệu
tượng trưng ở trẻ. [2]
Đối với trẻ 24 đến 36 tháng tuổi có số lượng từ tăng nhanh. Trong vốn từ
của trẻ, phần lớn là các danh từ, động từ, các từ loại khác nhau, như tính từ, đại
từ,… được xuất hiện với số lượng ít và tăng dần theo tháng tuổi. [3].
Do tốc độ phát triển nhanh về ngôn từ, ngữ pháp, giọng điệu… trẻ dễ vấp
phải những tật ngôn ngữ nói như: nói ngọng, nói lắp… nên rất ảnh hưởng đến sự
2


phát triển tâm lý, thái độ của trẻ. Trong xã hội hiện nay, nhiều gia đình bố mẹ
còn bận mải lo làm ăn ít quan tâm đến nhu cầu gắn bó của trẻ. Nó thể hiện ở mối
quan hệ, nếu trẻ không được đối xử tốt trẻ sẽ ngại giao tiếp mà giao tiếp với
người lớn là điều kiện quyết định để trẻ lớn lên và trưởng thành.
Đối với trẻ 24 - 36 tháng tuổi do tôi phụ trách nhiều cháu còn nói ngọng,
nói lắp, sai lỗi chính tả nhiều, trẻ nói tiếng địa phương. Đặc biệt, nhiều bố mẹ
mải lo làm ăn nên chưa chú ý đến việc dạy nói đúng khoa học. Là giáo viên trực
tiếp nuôi dạy trẻ, tôi được chứng kiến và là người khơi nguồn “Vốn ngôn ngữ
của trẻ”. Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu và thực hiện đề tài “Một số biện pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng thông qua hoạt động nhận biết ở
lớp A1 trường Mầm non Nga Thái - Nga Sơn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng của giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36
tháng trường Mầm non Nga Thái - Nga Sơn. Từ đó đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả lồng ghép tích hợp Nội dung phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 24 - 36 tháng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ 24 – 36 tháng và các hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24
- 36 tháng
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Sưu tầm, phân tích và tổng hợp các
tài liệu để tìm hiểu cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Phỏng vấn,
trò chuyện với giáo viên, với phụ huynh và học sinh để tìm hiểu thực trạng.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động của trẻ, giáo viên để tìm
hiểu thực trạng.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán
học để xử lý số liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật, nhờ
đồ vật mà trẻ khám phá ra các thuộc tính, nắm được những chức năng và
phương thức sử dụng đồ vật “theo kiểu người lớn” có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển tâm lý của trẻ. “Trẻ là chủ thể của quá trình phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ
của trẻ được phát triển thông qua quá trình giao tiếp của trẻ với những người
xung quanh, với môi trường thiên nhiên và xã hội. Để phát triển ngôn ngữ, trẻ
phải được nghe lời nói, được bắt chước lời nói, được chủ động nói” [1].
Trong quá trình giao tiếp với người lớn, những tiền đề đầu tiên của ngôn
ngữ xuất hiện và trẻ bắt đầu hiểu được lời nói của người lớn và phát âm được
những từ đầu tiên. Vì vậy chúng ta cần phát triển , mở rộng các từ loại trong vốn
từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ về
những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy hằng ngày. Nói cho trẻ biết các từ biểu hiện
về đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe
3



các câu chuyện đơn giản qua tranh, qua hình ảnh. Đặt một số loại câu hỏi giúp
trẻ kể bằng ngôn ngữ của trẻ [ 3].
Bên cạnh đó, giáo viên, cha mẹ trẻ phải thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với
thế giới bên ngoài một cách độc lập, thay đổi cả hình thức giao tiếp với người
lớn. Thế giới đồ vật đã trở thành đối tượng nhận thức của trẻ, nhu cầu nhận thức
tò mò, ham hiểu biết được phát triển hết sức mạnh mẽ. Hứng thú hoạt động với
đồ vật ngày một tăng lên, kích thích trẻ hướng đến người lớn để nhờ giúp đỡ. Từ
đó nảy sinh nhu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ, đây là thời kỳ chuyển từ tiền phát
triển ngôn ngữ sang phát triển ngôn ngữ và là thời kỳ phát triển ngôn ngữ nhanh
nhất. Do vậy muốn trẻ có ngôn ngữ chính xác, có vốn từ phong phú giáo viên,
người lớn và những người xung quanh trẻ phải có kế hoạch, có phương pháp dạy
trẻ phù hợp. Giáo viên phải phát âm chuẩn, có kiến thức và kỹ năng tổ chức các
hoạt động nhận biết tốt [6].
Nói tóm lại, việc rèn luyện cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi phát âm, phát triển
vốn từ, nói có ngôn ngữ mạch lạc, chính xác, đúng ngữ pháp, mang tính biểu
cảm là nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết của cô giáo Mầm non nói chung và
bản thân tôi nói riêng. Đây chính là mục đích của tôi khi nghiên cứu, thực hiện
đề tài này.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Thực trạng chung
Trường Mầm non Nga Thái, có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình năng động,
được tiếp thu chuyên đề giáo dục Mầm non mới, trên thực tế giáo dục lĩnh vực
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, trường Mầm non có nhiều đầu tư về nâng cao
phương pháp, biện pháp và thay đổi hình thức.Vì thế khi thực hiện đề tài, tôi
được Nhà trường phân công trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ ở độ tuổi 24 - 36
tháng, có ít nhiều kinh nghiệm nuôi dạy trẻ, với kinh nghiệm làm mẹ đã giúp tôi
thuận lợi trong công việc hơn. Bản thân tôi cũng nhận được sự động viên giúp
đỡ của Ban giám hiệu Nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, sự ủng hộ của gia đình,

phụ huynh, đặc biệt là tình cảm yêu quý của các bé dành cho tôi. Các hoạt động
phát triển ngôn ngữ cho trẻ thực hiện rất đều đặn và thường xuyên. Thông qua
các hoạt động làm quen với tác phẩm văn học như đọc thơ, kể chuyện, nhận biết
tập nói …Công tác giáo dục phát triển ngôn ngữ được đáng kể. Nhưng bên cạnh
đó vẫn còn nhiều hạn chế.
b. Thực trạng đối với giáo viên
Giáo viên chưa có nhiều sáng tạo thay đổi hình thức đang ở các đề tài, cách
thức lên lớp đôi lúc còn rập khuôn, đơn điệu. Thực tế chưa có nhiều đầu tư suy
nghĩ vào hoạt động dạy. Qua thực tế còn một số hoạt động dạy tổ chức đơn giản,
kém hấp dẫn …sử dụng đồ dùng đồ chơi chưa sáng tạo, giáo viên sử dụng giáo
án điện tử vào hoạt động dạy còn hạn chế, chưa thu hút được trẻ vào hoạt động
tích cực. Một số giáo viên vẫn chưa nắm vững việc xác định được mục tiêu yêu
cầu của nội dung,hình thức tổ chức. Hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ
theo chương trình giáo dục Mầm non mới
c. Thực trạng đối với trẻ
Nga Thái là xã đồng màu điều kiện kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn. Phụ
huynh chưa có điều kiện chăm sóc con cái. Vì thế nó ảnh hưởng rất nhiều đến
4


quá trình phát triển ở trẻ. Trong các hoạt động học tôi thấy trẻ còn nhút nhát,
chưa quen với môi trường có nhiều người, tâm lý trẻ có cảm giác bỡ ngỡ . Lần
đầu tiên đi học nên trẻ chưa có nề nếp thói quen, hay bắt chước, trẻ dễ nhớ
nhưng lại chóng quên. Trẻ được tiếp xúc với các cô ở trường, với cha mẹ và mọi
người xung quanh khi ở nhà, xong người dạy đúng cũng có, người dạy chưa
đúng cũng có, chưa chú ý đến phát triển ngôn ngữ chuẩn cho trẻ. Do đặc điểm
của trẻ là tư duy trực quan hành động nên dạy trẻ nói và làm đi liền với nhau,
cha mẹ trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, có ít kiến thức trong việc nuôi dạy con
theo khoa học (như dạy con chơi với đồ vật, dạy con phát âm chuẩn, tình cảm
với con,…).

* Kết quả của thực trạng
Năm học 2016 - 2017 tôi được nhà trường phân công chăm sóc, giáo dục
trẻ nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi với tổng số trẻ là 25 cháu, tôi tiến hành khảo sát
khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ vào đầu tháng 9 năm 2016. Kết quả khảo
sát được phản ánh như sau:
Đạt
Chưa đạt
Số
Nội dung
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
trẻ
cháu
%
cháu
%
Trẻ thực hiện được một số nhiệm
19
76
6
24
vụ khi yêu cầu.
Trẻ trả lời được các câu hỏi đưa ra
20
80
5
20
25 Trẻ phát âm rõ tiếng

12
48
13
52
Đọc được các bài thơ, ca giao,
đồng giao với sự giúp đỡ của cô
giáo.

10

40

15

60

Nhìn vào bảng thực trạng, chúng ta thấy được kết quả thu được qua các
hoạt động trong lớp là rất thấp. Vì thế tôi rất băn khoăn trăn trở làm thế nào để
giáo dục phát triển ngôn ngữ ở trẻ đạt kết quả tốt. Tôi mạnh dạn đưa ra những
biện pháp để tổ chức hoạt động ngôn ngữ cho trẻ cụ thể như sau:
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Một đứa trẻ khi mới sinh ra chưa có ngôn ngữ, trong quá trình chăm sóc,
giáo dục thì ngôn ngữ của trẻ dần được phát triển. Ở trường Mầm non cô giáo là
người “khơi nguồn” vốn ngôn ngữ cho trẻ. Với tôi trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ đã tích lũy cho bản thân một số kỹ năng, kỹ xảo giúp cho trẻ hoàn
thiện ngôn ngữ. Sau đây là một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36
tháng mà tôi đã đúc rút kinh nghiệm và thực hiện.
Biện pháp 1. Tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ
cho bản thân.
Thông qua việc nắm chắc các phương pháp dạy các hoạt động nói chung
và hoạt động “Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ” nói riêng. Bản thân tôi luôn tham

khảo học hỏi thêm nhiều tài liệu như “Chương trình bồi dưỡng thường xuyên
giáo viên Mầm non”,“Chương trình giáo dục Mầm non mới”của Bộ giáo dục
Mầm non ban hành. Qua sách báo trên mạng Internet, kinh nghiệm của các đồng
5


nghiệp qua các giờ dạy mẫu, qua các lớp chuyên đề do nhà trường và phòng
giáo dục tổ chức hàng năm. Qua các chuyên đề, các giờ dạy mẫu trong năm.
Khi tổ chức hoạt động cho trẻ phát triển ngôn ngữ tôi thấy đưa ra các hình
thức làm phong phú cách thể hiện nội dung bài dạy để thu hút trẻ hoạt động tích
cực qua các hoạt động đọc thơ kể chuyện, trẻ biết đọc thơ theo cô.
Trò chuyện với trẻ hàng ngày khi đón trẻ, giờ chơi, cho trẻ ăn, cho trẻ ngủ,
Tôi thường xuyên giao tiếp với trẻ và tạo điều kiện cho trẻ nói nhiều cũng là
biện pháp tốt nhất để giúp trẻ hoàn thiện ngôn ngữ, có thể đề ra câu hỏi nhằm
kích thích, để trẻ tham gia vào các câu chuyện, điều đó giúp trẻ tập nói cả câu.
Trong quá trình đặt câu hỏi tôi luôn chú ý đến sự nâng dần của câu hỏi để phù
hợp với khả năng của trẻ.
Ví dụ: Vào giờ đón trẻ tôi đặt câu hỏi cho trẻ trả lời:
+ Hôm nay, ai đưa con đi học? Đi bằng phương tiện gì?
+ Hôm qua con đi đâu?
+ Đi cùng với ai? Con thấy cái gì?
Tôi tranh thủ mọi lúc, mọi nơi như giờ đón trả trẻ để trò chuyện với trẻ,
đặc biệt chú ý những trẻ yếu về ngôn ngữ. Khi trò chuyện với trẻ phải dựa vào
kinh nghiệm có sẵn của cô và sự hiểu biết của trẻ để sử dụng câu hỏi cho phù
hợp và khuyến khích trẻ được nói. Khi tiến hành trò chuyện với trẻ phải tạo điều
kiện và bầu không khí tự do, thoải mái, nói chuyện tự nhiên, cô thật sự thu hút
hấp dẫn trẻ thông qua giọng nói, nét mặt, cử chỉ, hành động.
Với trẻ mới đến trường còn lạ cô, lạ bạn nên hay sợ sệt, hoảng sợ nên tôi
phải gần gũi, âu yếm, vuốt ve để biểu hiện cảm xúc yêu thương, gần gũi, khi trò
chuyện với trẻ tôi thường bế và nựng trẻ rồi “ Ôi bạn Anh có áo mới đẹp quá

này, thế ai mua cho con? Hay Hôm nay ai đưa con đi học? Ngoài sân trường có
rất nhiều đồ chơi đẹp cô cháu mình cùng ra đó chơi đi, cô để ý cách nói của trẻ
để sửa sai kịp thời.
Ngoài việc dạy trẻ biết nói và trả lời các câu hỏi, các hiện tượng, đồ vật
xung quanh trẻ tôi còn luôn chú ý đến giáo dục lễ phép cho trẻ.
Ví dụ: Đến giờ ăn, Tôi dạy trẻ mời cô giáo mời cơm. Con mời cô mời cơm
ạ! Tôi mời các bạn cùng ăn cơm! Dạy trẻ biết cảm ơn khi được người khác giúp
đỡ hay biết xin lỗi khi mắc khuyết điểm.
Khi tiến hành đàm thoại cần cung cấp cho trẻ những hiểu biết về chủ đề
sắp đàm thoại. Mục đích của đàm thoại là củng cố và hệ thống hóa những biểu
tượng và kiến thức mà trẻ đã thu lượm được
Ví dụ: Đàm thoại về “Quả cam”
Cô phải có tranh quả cam và quả thật, vì tư duy của trẻ là tư duy trực quan
hành động, nói đến quả cam trẻ cần được nhìn, sờ, ngửi hoặc nếm quả cam thì
những ấn tượng, biểu tượng của quả cam sẽ đi sâu và gắn liền với trẻ.
Do đó đàm thoại thích ứng với lợi ích và tâm lý trẻ phải được tiến hành nhẹ
nhàng, thoải mái, tự nhiên đáp ứng với những yêu cầu của trẻ. Câu hỏi đàm
thoại cần đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ và tâm lý lứa tuổi.
Thông qua trò chuyện và đàm thoại không chỉ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc, chính xác, sử dụng câu đúng ngữ pháp mà còn góp thêm phần rèn
luyện cho trẻ thói quen mạnh dạn trong giao tiếp.
6


Ngoài ra để giáo dục phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cao đòi hỏi giáo viên
phải nắm chắc kiến thức, nắm chắc đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Phải thường
xuyên đổi mới sáng tạo trong hoạt động để giúp trẻ hoạt động tích cực, trẻ được
giao tiếp nhiều sẽ giúp ngôn ngữ ngày càng phát triển.
Kết quả: Bản thân năm vững kiến thức về giáo dục ngôn ngữ đặc biệt là
giáo dục ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng. Biết sáng tạo trong việc cung cấp kiến

thức cho trẻ.
Biện pháp 2. Tìm hiểu đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ 24 - 36 tháng
tuối.
Ở lứa tuổi này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát triển hoàn
thiện hơn trước. Trẻ có khă năng phát âm đúng hầu hết các âm và thanh điệu .
Số lượng từ tăng nhanh. Xét về số lượng các âm vị dần dần xuất hiện. Hầu hết
các phụ âm đầu lưỡi chưa được trẻ phát âm đúng hoàn toàn.
Ví dụ:
Âm đ thành âm t: Đóng - tóng.
Âm l thành âm n: Làm - nàm
Âm kh thành âm h: Không - hông
Âm th thành âm ch: Thật - chật
Âm ch thành âm t: Cháu - táu
Âm ng thành âm nh: Ngủ-nhủ
- Trong số các phụ âm đầu thì phụ âm “b, m” được trẻ nói đúng nhất.
- Âm đệm: Các từ có âm đệm khi phát âm thường bị lược bỏ:
Ví dụ:
Hoa – ha
Xoăn- xăn
Quả - cả
Hòe -- hè
- Âm chính : Các nguyên âm dài bốn nguyên âm ngắn và ba nguyên âm đôi
đã xuất hiện trong các từ của trẻ nhưng có một số âm trẻ nói chưa đúng như:
Ví dụ:
ê - â : ếch - ấc
i - ia: bút chì - bút chìa
ươ - iê: hươu - hiêu, rượu - riệu
- Phụ âm cũng xuất hiện trong vốn từ của trẻ, trong đó có một số âm cuối bị
trẻ phát âm sai.
Ví dụ:

Âm ng thành n: Uống - uốn
Âm m thành n: Phim - phin
-Thanh điệu: Trong sáu thanh tiếng việt thì thanh ngã và thanh hỏi chưa ổn
định, chúng thường bị trẻ chuyển đổi thành dấu nặng hoặc dấu sắc.
Ví dụ:
Võng - vóng
Ngủ - ngụ
Ngủ - nhủ.
* Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ 24-36 tháng:
- Vốn từ của trẻ là rất ít khoảng 1200- 2000 từ, danh từ và động từ là chiếm
ưu thế, tính từ và các loại từ khác đã được trẻ sử dụng đôi chút.
7


- Trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ đồ vật con vật, hình dạng, kích thước trong
giao tiếp hàng ngày.
- Ngoài ra các khái niệm: Hôm qua, hôm nay ngày mai trẻ sử dụng còn
chưa chính xác.
* Đặc diểm ngữ pháp:
- Trẻ nói được một số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn của
mình bằng một hai câu đơn giản.
Ví dụ: “Cô ơi! con uống nước” hoặc đọc các bài thơ 3 - 5 câu ngắn.
- Trẻ thường sử dụng câu cụt hơn. Trong nhiều trường hợp trẻ dùng từ trong
câu vẫn chưa chính xác.
Ví dụ: Cô ơi! con muốn cái xe kia. Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở
rộng
- Trong quá trình tiếp thu và sử dụng ngôn ngữ, đối với một số đồ vật mà
trẻ chưa biết, trẻ thường đặt ra một từ mới hoặc một tổ hợp từ như:
Cái xô – Cái múc nước
Lọ hoa – Cái cắm hoa

Cái làn – Cái đi chợ
Trong giai đoạn này khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ dưới 3 tuổi tuy có
những bước tiến mới nhưng cũng chỉ là bước đầu.
Vì vậy, là giáo viên chúng ta cần giúp trẻ phát triển, mở rộng các từ loại
trong vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên trò chuyện với
trẻ về các sự vật hiện tượng trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hằng ngày. Nói cho trẻ
biết các từ biểu hiện về các đặc điểm tính chất, công dụng của chúng.
Biện pháp 3. Tạo môi trường phong phú hấp dẫn nhằm phát triển ngôn ngữ
cho trẻ.
Để giúp trẻ cảm thụ tốt các hoạt động thì việc tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc
với môi trường chữ viết phải thường xuyên liên tục là điều tôi luôn chú trọng.
3.1. Xây dựng môi trường trong lớp học
Ngay đầu năm học, tôi đã vận động phụ huynh và trẻ cùng tham gia làm đồ
dùng, đồ chơi, trang trí lớp nhằm giúp trẻ lĩnh hội, khám phá, tìm tòi và phục vụ
cho quá trình học tập của trẻ. Chẳng hạn tôi vận động phụ huynh cùng may các
con rối, may các trang phục đóng kịch cùng với cô giáo để giúp trẻ có các trang
phục đóng kịch… Hay vận động phụ huynh mang sách, báo có các câu chuyện,
bài thơ phù hợp đối với trẻ để những lúc trẻ hoạt động ở góc sách, trẻ mang ra
xem hình ảnh để trẻ kể chuyện sáng tạo… Bên cạch đó, trong lớp tôi luôn tận
dụng diện tích phòng học xây dựng góc thư viện, góc kể chuyện cùng bé
yêu...chú ý bố trí, sắp xếp các học cụ, đội hình để tạo môi trường học tập thoải
mái cho trẻ.
Hằng ngày đến lớp, trẻ luôn được hoạt động với đồ chơi, tranh ảnh; trẻ
được nhận biết, gọi tên các đặc điểm, đặc trưng của đồ vật, đồ chơi, tranh
ảnh….Từ việc được tích cực các hoạt động, tích cực nói, vốn từ của trẻ sẽ hình
thành và phát triển. Trong quá trình trẻ hoạt động, trải nghiệm, tôi luôn quan
tâm, hướng dẫn tỷ mỉ tạo cơ hội cho trẻ hứng thú tham gia các hoạt động thực
hành, vui chơi, giao tiếp, giúp trẻ biết đoàn kết, giúp đỡ, nhường nhịn lẫn nhau,
từ đó hình thành nhân cách cho trẻ.
8



Ví dụ: Ở chủ đề: Thế giới thực vật” với chủ đề nhánh “ Một số loại cây”
tôi đã trang trí lớp bằng cách trang trí các hình ảnh cây chuối, vườn rau, bé chăm
sóc rau. Có tranh thơ chữ to kèm từ. Ngoài ra tôi còn trang trí nội dung hình ảnh
của các bài thơ, câu chuyện cho trẻ tham gia hoạt động góc

( Hình ảnh: Bé quan sát mô hình vườn rau nhà bé )

( Hình ảnh: Phát triển ngôn ngữ cho bé ở góc “ bé với thiên nhiên” )
Hay sang nhánh một số loài hoa tôi lại tôi đặt tên cho góc là “Thư viện
của các loài hoa” Bên trong góc này tôi luôn tìm kiếm, sưu tầm, trưng bày các
loại tranh truyện chữ to, thơ chữ to, các bài ca dao, đồng dao, truyện kể sáng tạo,
truyện cổ tích, truyện dân gian Việt Nam và một số tranh ảnh, tạp chí khác phù
hợp. Khi cho trẻ xem tranh tôi hướng dẫn cho trẻ đọc từ trái sang phải, từ trên
xuống dưới, bản thân cũng tham gia đọc sách cùng trẻ, tập cho trẻ kể chuyện
9


theo tranh, giúp trẻ hiểu nội dung ý nghĩa của chữ viết, rèn luyện khả năng quan
sát, chú ý có chủ định của trẻ.
Để trẻ có thể lĩnh hội những kiến thức đã học hay thích khám phá những đề
tài mới tôi đã tạo các góc hoạt động đẹp mắt, hấp dẫn, tất cả đều có hình ảnh
kèm từ để trẻ quan sát, cung cấp và phát triển vốn từ cho trẻ mọi lúc mọi nơi.

( Hình ảnh: Xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ trong nhóm)
3.2. Môi trường ngoài lớp học.
Bên cạnh đó việc xây dựng môi trường trong lớp, môi trường ngoài lớp
cũng được tôi quan tâm: Tạo môi trường phát triển ngôn ngữ như tham mưu với
Ban giám hiệu nhà trường đặt tên biển cho cây, đặt tên cho khu vườn, các hình

ảnh thân thuộc với trẻ để giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đồng thời tận
dụng những khoảng tường trống để vẽ tranh về nhân vật có trong bài thơ, câu
chuyện có trong chương trình, những hình ảnh về trò chơi dân gian … gợi mở
cho trẻ cùng nhau kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng giao, câu đố:
Ví dụ: Tranh chuyện “ Quả táo”, “ Cháu chào ông ạ”, “ Ai thông minh hơn” thơ
“Cây bắp cải”…

10


( Hình ảnh: Tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua môi
trường ngoài lớp )
Ngoài ra tôi đã tham mưu với nhà trường để xây dựng “Vườn thiên
nhiên của bé” được chia thành các ô trồng các loại cây khác nhau: Vườn hoa,
vườn thuốc nam, vườn rau sạch, vườn cây ăn quả, các cây xanh bóng mát sân
trường đều được gắn tên gọi cho cây.

( Hình ảnh : Môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngoài nhóm, lớp )
* Kết quả:
- Tôi đã tạo được môi trường phong phú được thể hiện qua góc sách truyện,
vườn thiên nhiên, các mảng tường quanh lớp.
- 100% trẻ hứng thú với môi trường tôi và trẻ đã xây dựng.
- Ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng được là
nhờ vào việc tạo môi trường hoạt động tích cực.
Biện pháp 4. Tổ chức giờ học theo chương giáo dục lấy trẻ làm trung tâm,
có ứng dụng công nghệ thông tin.
4.1. Tạo hứng thú phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động nhận
biết:
11



- Việc gây hứng thú cho trẻ rất quan trọng, vì vậy mỗi đề tài, mỗi hoạt
động, tôi thường suy nghĩ, dẫn dắt trẻ theo một chủ đề hoặc gây hứng thú bằng
những thủ thuật khác nhau.
Ví dụ: Hoạt động nhận biết “ Con gà trống” Tôi đã làm đoạn Video chiếu
hình ảnh con gà trống đang gáy ò ó o cho trẻ xem và nói với trẻ: “ Xin chào các
bạn nhỏ lớp A1! Đố các bạn biết tôi là ai ? Sau đó, tôi đặt câu hỏi gợi mở cho trẻ
trả lời như: Đây là con gì?, Cái gì đây?, Mào gà màu gì?, Chân gà để làm gì?,
Đuôi gà thế nào?, Gà thích ăn gì?, Gà trống gáy như thế nào?,.. và cho trẻ bắt
chước tiếng gà trống gáy ò ó o. Trong khi trẻ trả lời, tôi luôn chú ý dạy trẻ nói đủ
câu, đủ từ. Sau đó, tôi cho trẻ liên hệ thực tế: Nhà các con có nuôi gà không?
Hằng ngày ai cho gà ăn? Bố mẹ cho gà ăn gì?. Rồi tôi mở hình ảnh con gà trống
cho trẻ xem.

( Hình ảnh: Tổ chức hoạt động Nhận biết con gà trống )
Ngoài ra tôi còn cho trẻ xem tranh Gà mái, Gà trống, Đống rơm, thóc Quả
trứng gà và sử dụng các câu hỏi gợi mở để trẻ trả lời.
+ Các con thấy trong tranh Mẹ đang làm gì? (Mẹ cho gà ăn thóc)
+ Gà con đang mổ gì? ( Gà con mổ thóc)
+ Gà mái đang làm gì? ( Gà mái ấp trứng)
Sau đó cho trẻ thực hành cho gà ăn thóc. Từ đó giáo dục trẻ yêu quý, biết
chăm sóc gà. Cuối cùng, cho trẻ hát bài “ Con gà trống”.
Hoặc, khi tổ chức hoạt động nhận biết “Các thành viên trong gia đình”,
tôi tổ chức trò chơi dân gian “ Rồng rắn lên mây”, đến câu cuối, cô giả vờ gõ
cửa và hỏi: Bạn Anh có nhà không?, Sau đó tôi mở màn hình vi tính có hình ảnh
gia đình bạn Anh có Ông, Bà, Bố, Mẹ, Lan Anh và em Cu tý. Bố Lan Anh đang
dạy Lan Anh học bài, Mẹ đang cho em Cu Tý xem tranh. Cô cho trẻ quan sát và
đặt câu hỏi như: Ai đây?, Đang làm gì?, Gia đình bạn Anh có những ai? Bố bạn
Anh đang làm gì?, Mẹ đang làm gì?... Để trẻ nhận biết về tên gọi và hành động
của từng thành viên trong gia đình. Sau đó Tôi mở hình ảnh gia đình của 2 - 3

trẻ trong lớp, khi đến gia đình bạn nào, thì cho bạn đó lên kể về những người
thân trong gia đình mình. Qua đó, cho trẻ hiểu ai cũng có một gia đình, mọi
12


người trong gia đình đều thương yêu, kính trọng, quan tâm, chia sẻ lẫn nhau.
Cuối cùng cô mở nhạc và cho trẻ hát bài “ Cả nhà thương nhau”.
- Hình thức tổ chức trên gúp trẻ hứng thú và tiếp thu bài một cách nhẹ
nhàng thoải mái. Trong khi dạy trẻ nhận biết tập nói, tôi luôn chú ý quan sát, nếu
trẻ nào nhận biết chưa đúng các sự vật, hiện tượng, tôi hướng dẫn lại cụ thể cho
trẻ. Khi trẻ nói sai, nói ngọng, tôi luôn kiên trì sửa cho trẻ, tôi nhắc lại, nhấn
mạnh để trẻ nói theo. Sau mỗi lần trẻ nói đúng, trả lời đúng câu hỏi, tôi không
quên động viên, khích lệ để trẻ tự tin mạnh dạn, hứng thú trong hoạt động nhận
biết.
- Để tổ chức hoạt động theo hướng đổi mới, tôi đã sưu tầm, học hỏi đồng
nghiệp, lựa chọn trò chơi, các bài ca dao, đồng dao sao cho phù hợp với bài dạy
như:
+ Tổ chức cho trẻ làm quen với các trò chơi, các sự vật, các hiên tượng,
trước khi tiến hành hoạt động. Khi dạy bài mới, tôi tận dụng các thời điểm khác
nhau trong ngày như: Họat động dạo chơi ngoài trời, hoạt động góc, chơi tự do
để hướng dẫn trẻ. Trong quá trình tổ chức, để kích thích trẻ tích cực hoạt động,
cô dùng các thủ thuật tạo tình huống có vấn đề để khơi dậy sự tìm tòi khám phá
của trẻ. Với hình thức này trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng thoải mái.
Trong khi dạy trẻ tôi luôn chú ý để biết trẻ nào nói đúng, trẻ nào nói sai, nhằm
kịp thời sửa sai, uốn nắn giúp trẻ nói đúng, nói đủ câu, đủ ý. Khi cho trẻ nhận
biết sự vật, hiện tượng, tôi tạo cơ hội cho trẻ hoạt động, trải nghiện, khám phá
bằng nhiều giác quan như: Nếm, ngửi, sờ, nắm, nhìn. Tôi luôn coi trọng quá
trình trẻ hoạt đông hơn là kết quả hoạt động, do vậy mỗi hoạt động đều diễn ra
một cách tự nhiên, thoải mái thực hiện đúng phương châm “ Học mà chơi, chơi
mà học”.

4.2. Phân loại câu hỏi riêng cho từng đối tượng trẻ và biện pháp giáo dục trẻ
cá biệt.
Trẻ 24 – 36 tháng tuổi rất thích được tìm hiểu khám phá các sự vật, hiện
tượng xung quanh và các mối quan hệ trong xã hội. Trẻ thích được nghe, được
nói, được hiểu ngôn ngữ. Trẻ luôn có những câu hỏi: “ ai đây?” , “ Cái gì đây ?
”, “ con gì” … Để giúp trẻ nhận biết các sự vật, hiện tượng, từ đó làm tăng vốn
từ cho trẻ thì người lớn phải trả lời đúng, đầy đủ các câu hỏi mà trẻ đặt ra, luôn
tạo tình huống để trẻ tìm hiểu, Khám phá những câu hỏi đặt ra cho trẻ phải ngắn
gọn, dễ hiểu, phù hợp với đối tượng trẻ, bởi trong một lớp không phải trẻ đều
nhận thức như nhau. Tôi phải tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện
pháp giáo dục phù hợp.
- Đối với trẻ nhận thức trung bình, tôi đặt câu hỏi ở mức phù hợp: “Con gì
đây?”, “ Cái gì đây”, “Ai đây ?”…
Ví dụ: Khi cho trẻ xem tranh về các con vật xung quanh bé. Cho trẻ xem
tranh: Con Lợn, Con Thỏ, Chậu cám, củ cà rốt
Trước hết để phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi có thể chỉ vào tranh và hỏi trẻ.
+ Con gì đây? ( Con thỏ) Cô phát âm chuẩn cho trẻ nói “ Con thỏ” cho trẻ
nói, cá nhân nói.
+ Con gì đây nữa? ( Con lợn) Cô đọc và cho trẻ nhắc lại “ Con Lợn”
Cô chỉ vào tranh và hỏi:
13


+ Con Thỏ ăn gì? Con Thỏ ăn cà rốt.
+ Con Lợn ăn gì? Con Lợn ăn cám.
Trong khi trẻ nói cô chú ý sửa sai cho trẻ.
Hay: Khi cho trẻ xem tranh về các loại quả, hoa, rau bé thích.
Cho trẻ xem tranh: Quả đu đủ, Quả dừa, Con dao, mẹ bổ đu đủ.
Các con quan sát xem trong bức tranh có gì nào?
+ Quả gì đây? ( Quả đu đủ)

+ Quả gì đây nữa? ( Quả dừa )
+ Đây là con gì? ( Con dao)
+ Mẹ đang làm gì? ( Mẹ đang bổ đu đủ)
Nếu trẻ nói sai, cô nhắc lại và phát âm chính xác các từ cho trẻ nhắc lại theo cô.

( Hình ảnh: Tranh cho trẻ nhận biết tập nói)
- Hoặc khi dạy trẻ nhận biết tập nói: “Con chó, Con mèo”. Tôi lại dùng
tranh di động, những con chó, con mèo di chuyển sinh động, vừa xuất hiện nhân
vật đã thu hút được trẻ gây hứng thú cho trẻ trong giờ học. Trẻ rất thích và rất
chú ý vì khi con vật di chuyển trẻ được nhìn, được chỉ, được gọi, được chạy đuổi
bắt khi tôi di chuyển các nhân vật.
Tôi thấy biện pháp dùng tranh di động này rất thích hợp cho sự phát triển
lời nói của trẻ nhất là các trẻ nhút thát, chậm phát triển. Biện pháp này còn rất
thuận lợi cho tôi trong việc di chuyển theo ý muốn và cung cấp kiến thức một
cách đầy đủ nhất cho trẻ.
- Đối với trẻ hiếu động, nhận thức nhanh, tôi đưa ra câu hỏi có yêu cầu cao
hơn, kích thích sự phát triển tư duy của trẻ.
Ví dụ: “ Vỏ cam thế nào?”, “Cam có vị gì?”, “Nhà con có những ai?”,
“Nhà con nuôi những con gì?”, “Con thích vật nào nhất?”, “Vì sao?”..
- Với những trẻ nhận thức chậm, nhút nhát, tôi có thể cho trẻ nhắc lại những
câu nói của bạn, hoặc dùng câu hỏi có tính chất gợi mở.
Ví dụ: “Vỏ cam nhẵn hay sần sùi?”, “Con gì gáy ò ó o”..
- Đối với những trẻ nói ngọng, tôi thường xuyên gọi trẻ trả lời nhiều hơn,
sửa cho trẻ nhiều lần.
14


- Đối với những trẻ nói lắp, nói câu thiếu thành phần, tôi tập cho trẻ nhiều
lần, nói thong thả, bình tĩnh tạo không khí vui vẻ thoải mái cho trẻ yên tâm tập
nói.

- Đối với những trẻ ít nói, ít hoạt động, tôi luôn động viên, khích lệ, tạo cơ
hội dẫn dắt trẻ tham gia hoạt động. Tôi dùng những lời nói ân cần, âu yếm, cử
chỉ nhẹ nhàng, thân thiện tạo cảm giác cho trẻ an tâm tập nói và tham gia vào
các hoạt động.
- Qua việc sử câu hỏi phù hợp và biện pháp rèn trẻ cá biệt đã giúp trẻ nhận
biết sự vật hiện tượng xung quanh và phát triển ngôn ngữ tốt, có điều kiện học
hỏi lẫn nhau.
4.3. Củng cố kiến thức cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, thông qua các hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ trong ngày.
Để giúp trẻ nhận biết các sự vật hiện tượng xung quanh và pát triển ngôn
ngữ, ngoài việc tổ chức các hoạt động nhận biết, tôi còn dạy trẻ mọi lúc, mọi
nơi, qua các giờ hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong ngày nhằm ôn luyện,
củng cố kiến thức cho trẻ
* Qua giờ đón, trả trẻ và hoạt động vui chơi: Tôi cho trẻ xem tranh ảnh,
vật thật được trang trí trên tường, lớp, góc chơi theo chủ đề, kích thích trẻ trả lời
câu hỏi của cô, cho trẻ làm quen với các từ mới, từ khó, dần dần vốn từ của trẻ
được tích lũy, ngôn ngữ của trẻ được hoàn thiện.
Ví dụ: Khi cho trẻ xâu vòng tặng mẹ cô có thể đặt câu hỏi để trẻ trả lời
+ Hoa này con để làm gì?
+ Con xâu vòng tặng ai?
Nếu trẻ chưa nói được tên các đồ chơi cô cần nhắc lại cho trẻ vài ba lần và
sau đó tổ chức trò chơi cho trẻ ghi nhớ biểu tượng hơn và sau đó trẻ thể hiện
bằng ngôn ngữ tương ứng.
Thông qua góc “Thao tác vai” không những trẻ được thao tác với đồ vật
mà còn được giao lưu với đồ vật.
Ví dụ: Trẻ chơi trò chơi “Bế em” trẻ bế búp bê, trẻ biết ru em ngủ, cho em
ăn… khi ru ngủ trẻ vỗ về “Em ngủ nào”, ru em à ơi. Khi cho trẻ ăn trẻ nói “Chị
cho em ăn nhé”, “Em ăn ngoan nào”.
Trẻ chơi trò chơi “Bán hàng” trẻ được giao lưu với bạn. Trẻ có thể hỏi “Bác
mua gì ạ?” - “Tôi mua quả dứa”.


15


( Hình ảnh: Trẻ tham gia chơi thao tác vai )
Muốn trẻ chơi thành thạo, biết giao tiếp với bạn, tôi luôn phải hòa nhập,
đóng vai chơi cùng với trẻ để hướng dẫn trẻ chơi, gợi ý để trẻ trả lời, tạo điều
kiện cho trẻ giao tiếp với bạn chơi, tạo ra những tình huống chơi để trẻ xử lý.
Thông qua góc “Bé xem tranh, truyện” tôi đã tạo môi trường gây nhiều sự
chú ý, hấp dẫn cho trẻ. Trẻ được gài ô tô, xem album, xem tranh truyện. Khi trẻ
hoạt động trẻ được gọi tên, nói đặc điểm, đặc trưng của các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Đây là cái gì? (Đây là cái xe máy), Con có nhận xét gì về xe máy ?
( Xe máy có 2 bánh, có yên xe, vành xe…)
Cô gợi ý để trẻ trả lời và củng cố nhấn mạnh lại để cho trẻ phát âm chính
xác các bộ phận của xe.
* Qua giờ ăn: Tôi thường đặt ra câu hỏi giúp trẻ nhận biết, gọi tên các món
ăn.
Ví dụ: Hôm nay con ăn cơm với gì?, Canh rau gì?, Có ngon không?…
- Qua giờ dạo chơi thăm quan: Tôi cho trẻ quan sát các đồ vật, đồ chơi theo
từng chủ đề. Tùy từng loại đồ vật, đồ chơi mà tôi đặt ra câu hỏi cho phù hợp.
Ví dụ: Chủ đề “ Bé và gia đình thân yêu của bé”
Khi quan sát bếp ăn, Tôi hỏi “Ai đây?”, “Bác đang làm gì?”, “Cái gì đây?”,
“để làm gì?”…
* Trong các giờ hoạt động khác: Tôi thường xuyên lồng nghép, giúp trẻ
nhận biết sự vật, hiện tượng một cách nhẹ nhàng, phù hợp nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
- Thông qua cho trẻ hoạt động với đồ vật :
Ví dụ: Trong giờ hoạt động với đồ vật cô có thể phát triển ngôn ngữ cho trẻ
bằng cách đặt hệ thống câu hỏi để trẻ trả lời như: Đây là các hình khối gì? Con
đang xếp gì đấy? (Con xếp ngôi nhà), Con xếp như thế nào? (Con xếp chồng

lên)

16


( Hình ảnh: Trẻ xếp ngôi nhà góc hoạt động với đồ vật )
Qua câu hỏi của cô giúp trẻ hiểu được lời nói và hình thành được ngôn ngữ
tích cực điều đó giúp trẻ phát triển tư duy.
- Thông qua các giờ thơ, truyện:
Những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc. Khi thực hiện các
hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, thể loại truyện kể tôi luôn chú ý đến
khả năng phát âm của trẻ để có sự điều chỉnh và sữa sai luyện khả năng phát âm
cho trẻ. Bản thân tôi trước khi tổ chứ hoạt động cũng phải đầu tư luyện giọng
kể, cách sử dụng tranh, sách, rối... giúp trẻ cảm thụ tác phẩm văn học một cách
tốt nhất. như: Dạy trẻ nói theo 1 câu truyện: “Gà con và vịt con rủ nhau đi chơi”
(đôi bạn nhỏ) hoặc “nói tiếp câu”.
Cô nói “Vịt con đã làm gì giúp bạn...” trẻ nói: Gà bị con cáo đuổi bắt nên
vịt đã giúp bạn, hoặc vịt cõng bạn gà bơi ra xa... cô phải chú ý thay đổi mẫu câu
theo từng lứa tuổi, cô cho trẻ chơi từ dễ đến khó.
Cho trẻ giao lưu trực tiếp với nhân vật: Tôi sử dụng thùng cát tông khoét lỗ
tròn to, tôi cho trẻ thò tay vào thùng sờ tìm và đoán từng bộ phận của nhân vật,
cho những nhân vật xuất hiện ở những lỗ khác nhau để kích thích trẻ gọi tên.
Ví dụ: Đầu con chó, đuôi con chó ...
Sau đó tôi cho trẻ xuất hiện để giao lưu trực tiếp với nhân vật để trẻ được
ôm ấp, vuốt ve và trò chuyện với nhân vật.
Qua đó cung cấp cho trẻ từng bộ phận của nhân vật, còn tạo được cảm xúc
giao lưu và qua đó dạy trẻ kỹ năng bộc lộ cảm xúc của mình trong khi chơi.
Qua những tác phẩm văn học, cô phải kể và đọc cho trẻ nghe để trẻ hiểu
được nội dung, nắm được tình tiết của tác phẩm. Cô phải cho trẻ xem tranh, đồ
dùng trực quan, thông qua giọng đọc, giọng kể của cô để trẻ có thể nhận biết

được cách sử dụng ngô ngữ nghệ thuật.
17


Ví dụ: Chủ đề “Bé và những người thân yêu của bé” Hoạt động văn học.
Vào bài tôi cho trẻ hát bài “Ông cháu”.
Tôi hỏi trẻ: Con vừa hát bài hát gì? Bài hát nói về ai? Sau đó tôi đọc, kể
chuyện, thơ “Cháu chào ông ạ!” cho trẻ nghe.
Lần 1: Cô đọc bằng cử chỉ điệu bộ
Lần 2: Cô sử dụng tranh thơ để đọc
Lần 3: Cô sử dụng mô hình
Sau đó cô đàm thoại, gợi nhớ để trẻ kể tên các nhân vật trong chuyện và
được ghi nhớ và đọc lại. Cô phải sửa sai từ ngọng như: “Nhỏ xíu, lông vàng”.
Qua tác phẩm còn giáo dục trẻ lễ phép với người lớn.
Ngoài ra cô hướng dẫn trẻ sắc thái, biểu cảm của các nhân vật trong tác
phẩm.
Ví dụ: Như “Chủ đề giao thông” Hoạt động nhận biết tập nói “Nhận biết
Ô tô khách”. Tôi cho trẻ hát bài “Lái ô tô”.
Khi trẻ hát xong tôi hỏi trẻ: Con vừa hát bài hát gì? Bài hát nói về cái gì?
Sau đó tôi cho trẻ nhận biết về Ô tô khách?
Cô phải luyện phát âm chính xác cho trẻ. Có trẻ nói ngọng là “Ô tô hách”.
Cô phải nhắc lại cho đúng là “Ô tô khách”.
Cô luyện cho trẻ nói câu đúng ngữ pháp “Ô tô dùng chở khách”. Muốn trẻ
nói thật chính xác thì cô phải là người phát âm chuẩn, không ngọng, nói đúng
ngữ pháp.
Công việc phát triển ngôn ngữ được tiến hành trong cả chế độ sinh hoạt.
Với lời nói của cô giáo trẻ học cách cầm thìa, ăn uống gọn gàng, lau mồm…
nghĩa là không chỉ học các hành động mà học cả những quy tắc hành vi.
- Cô giáo, người lớn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo về cách nói năng
và phát âm theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt.

Để giúp trẻ nói đúng ngữ pháp điều đầu tiên phải hiểu được đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ 24 - 36 tháng tuổi là hay bắt chước người lớn, vì vậy chúng ta
không nói xuyên tạc theo ý thích của mình khi giao tiếp với trẻ, người lớn phải
nói chuẩn tiếng phổ thông để trẻ bắt chước, nếu người lớn nói sai thì trẻ cũng
nói sai theo.
Cô giáo cần phải luôn tạo cho lớp học, giờ học nhẹ nhàng, thoải mái, không
khí ấm cúng, hấp dẫn, sinh động để trẻ học mà chơi- chơi mà học đạt hiệu quả
cao.
Luôn tìm hiểu nắm bắt đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ, đặc biệt chú ý
đến trẻ có tật bẩm sinh hay bệnh di truyền như: Ngắn lưỡi, dài lưỡi, nói ngọng,
nói lắp, nói nhỏ, ít nói, nói cụt câu, dùng từ không chính xác...để lập ra kế hoạch
luyện phát âm cho trẻ và dạy trẻ nói theo mẫu câu, uốn nắn trẻ thường xuyên kịp
thời ở mọi lúc mọi nơi.
Không nói tục, nói lóng, nói thiếu văn hoá trước mặt trẻ, không nói những
lời không phù hợp với lứa tuổi ấu nhi làm trẻ khó hiểu, đặc biệt phải nói các câu
có đủ thành phần ngữ pháp, nói rõ ràng, mạch lạc, biểu cảm, gần gũi với trẻ để
18


trẻ nghe rõ, hiểu nghĩa của từ, không nói quá to hoặc quá nhỏ làm trẻ nhức tai và
nghe không rõ.
Luôn phối hợp với gia đình tạo môi trường giáo dục tốt và chăm sóc tốt để
trẻ phát triển trí tuệ và thể chất tốt.
Khi trẻ nói ngọng, nói lắp, nói cụt câu người lớn cần phải sửa cho trẻ, cần
nhắc lại mẫu câu cho trẻ nói theo nhiều lần.
Cô giáo là người tuyên truyền với các bậc phụ huynh hiểu được tầm quan
trọng của việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp và tác hại của việc nói lắp, nói ngọng.
* Kết quả: Qua việc tổ chức các hoạt động ôn luyện kiến thức ở mọi lúc,
mọi nơi, trong hoạt động, trẻ rất hứng thú, tiếp thu kiến thức một cách nhẹ
nhàng, thoải mái. Trẻ nhận được số lượng lớn những mẫu lời nói và hiểu nội

dung của chúng. Trên cơ sở đó hình thành nên lời nói tích cực. Trẻ được phát
âm, tập nói từ, ngữ, câu đúng ngữ pháp mang tính biểu cảm giúp cho ngôn ngữ
trẻ mạch lạc và chính xác hơn. Bản thân tôi luôn nói chuẩn mực đạo đức, nói
đúng ngữ pháp, không có biểu hiện của những hành vi thiếu văn hóa hoặc thiếu
chuẩn mực trước trẻ, trước đồng ngiệp.
Biện pháp 5. Phối hợp với các bậc phụ huynh phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Gia đình, là môi trường đầu tiên và lâu dài trong việc giáo dục hình thành kỹ
năng sống của trẻ, là cơ sở để con người phát triển một cách toàn diện. Chính vì
vậy, để giúp giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng đạt kết quả tốt.
Ngay từ đầu năm học, ở nhóm tôi thành lập Ban đại diện cha mẹ phụ huynh học
sinh, thống nhất nội dung, phương pháp hình thức về chăm sóc con theo khoa
học. Đặc biệt là về phát triển ngôn ngữ. Thông qua Ban chấp hành phụ huynh tổ
chức họp trong nhóm truyên truyền kinh nghiệm với nhau.
Sau mỗi ngày, lúc trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập,
sinh hoạt của trẻ ở trường. Sau mỗi chủ đề tôi gửi kết quả thông báo đến từng
phụ huynh về sự tiến bộ của con em mình để phụ huynh phối kết hợp giữa gia
đình và nhà trường. Tôi đã thống nhất nội dung, phương pháp giáo dục ngôn
ngữ cho trẻ giữa cô giáo ở lớp và cha mẹ ở nhà. Tránh tình trạng cô dạy thế này,
mẹ dạy thế kia. Đối với những trẻ cá biệt, kém về ngôn ngữ tôi cũng kịp thời
trao đổi cho phụ huynh thấy được sự tiến bộ của cháu chính là nhờ sự giáo dục
đồng bộ và thống nhất mà trẻ có thể tiến bộ rõ rệt. Các cháu đến lớp biết chào
cô, về nhà chào ông bà, cha mẹ, cháu nào cũng ngoan ngoãn, đáng yêu, giúp phụ
huynh yên tâm, tin tưởng.
Khi ở gia đình bố mẹ có mua sắm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ nhưng chơi như
thế nào? thì phương pháp thực sự còn chưa quan tâm, chơi cùng trẻ và hướng
dẫn trẻ chơi. Do đó sự trao đổi giữa cô và phụ huynh là rất cần thiết.
Ví dụ: Mua búp bê chỉ đưa cho trẻ thì trẻ chỉ chơi một lúc là chán. Nhưng
ở lớp trẻ chơi với búp bê thì cô phải hướng dẫn trẻ bế em, cho em ăn, lau miệng,
uống nước rồi cho em ngủ, thông qua lời nói kết hợp với động tác, qua đó trẻ bắt
chước những thao tác đó với những lời nói mang tính biểu cảm như “Chị yêu

em”, “Chị cho em ăn nhé”, “Em của chị ngoan lắm”…
19


Một số trẻ còn nói ngọng, nói lắp chưa được cha mẹ quan tâm, cần chú ý
sửa sai cho trẻ, có khi còn cho nghe lại thấy hay hay nên tạo thành thói quen
không tốt cho trẻ. Do đó phải có sự trao đổi, phối hợp giữa cô với phụ huynh là
rất cần thiết.
Ví dụ: Cháu Ngọc là cháu nói rất ngọng, hàng ngày tôi gần gũi hỏi “Cháu
con mẹ gì?” - “Con mẹ Sùy” tôi bảo Ngọc phải nói là “Con mẹ Thùy”. Trong
giờ nhận biếp tập nói, văn học… trẻ hay nói “Quả thị” là “Quả chị”, “Quả
chuối” là “Quả chúi”. Tôi đã luyện cho trẻ phát âm nhiều lần và trao đổi với phụ
huynh về nhà cũng sửa lỗi sai cho trẻ. Qua sự phối hợp chặt chẽ, trẻ đã dần dần
tiến bộ và không còn nói ngọng, nói lắp nữa.
Tóm lại: Việc rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ không phải của riêng ai mà phải
có sự phối kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh. Tuy nhiên cô giáo là người “khơi
nguồn” vốn ngôn ngữ cho trẻ là chính vì thời gian chăm sóc, giáo dục trẻ ở
trường nhiều hơn so với ở gia đình. Trường Mầm non là trường học đầu tiên, ở
đây có điều kiện, có cơ hội lớn để giáo dục ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là đối với
trẻ 24 - 36 tháng vì đó là lứa tuổi có “thời kỳ phác cảm ngôn ngữ” nhanh nhất,
do đó có thể khẳng định “học tiếng mẹ đẻ là sự học tập quan trọng nhất, cần
thiết nhất, bắt đầu sớm nhất và cần được quan tâm nhất”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một năm học, tôi thực hiện áp dụng các biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ thông qua hoạt động nhận biết, thông qua trò chuyện và đàm thoại, thông
qua hoạt động có chủ đích, thông qua hoạt động vui chơi và phối hợp với các
bậc phụ huynh giúp ngôn ngữ của trẻ phát triển đã đạt được kết quả như sau:
Số
trẻ


Đạt yêu cầu
Nội dung
Trẻ thực hiện được một số nhiệm
vụ khi yêu cầu.
Trẻ trả lời được các câu hỏi đưa ra

25

Trẻ phát âm rõ tiếng
Đọc được các bài thơ, ca giao,
đồng giao với sự giúp đỡ của cô
giáo.

Chưa đạt
yêu cầu
Số
Tỷ lệ
cháu
%

Số
cháu

Tỷ lệ
%

24

96


1

4

25

100

0

0

24

96

1

4

23

92

2

8

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận

Phát triển vốn từ và ngôn ngữ cho trẻ 25 – 36 tháng tuổi là hoạt động vô
cùng quan trọng. Vì vậy, các trường mầm non và mỗi giáo viên cần có biện pháp
thiết thực để phát triển vốn từ cho trẻ một cách tích cực.
20


Ngôn ngữ phát triển sẽ giúp cho trẻ mở rộng giao tiếp. Điều này giúp trẻ có
điều kiện học hỏi những gì tốt đẹp xung quanh. Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ
sớm tiếp thu những giá trị thẩm mỹ trong thơ ca, truyện kể, những tác phẩm
nghệ thuật ngôn từ đầu tiên người lớn có thể đem đến cho trẻ từ những ngày ấu
thơ. Sự tác động của lời nói có nghệ thuật như một phương tiện hữu hiệu giáo
dục thẩm mỹ cho trẻ.
Để phát huy được hiệu quả về lĩnh vực phát triển cho trẻ lứa tuổi 25 - 36
tháng tuổi đòi hỏi: Giáo viên phải nắm vững nội dung phát triển ngôn ngữ cho
trẻ ở nhóm 25 - 36 tháng tuổi. Xây dựng môi trường giáo dục trong và ngoài
lớp. Đa dạng hình thức gây hứng thú. Tạo cơ hội phát huy tính tích cực của trẻ ở
mọi lúc mọi nơi. Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng đồ chơi để cho trẻ được trải nghiệm.
Tổ chức các hoạt động một cách linh hoạt, sáng tạo hơn..
- Kiến nghị
* Đối với bản thân, đồng nghiệp: Muốn phát triển ngôn ngữ, làm giàu vốn
từ cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi, giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung, kiến thức,
xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài dạy, để tổ chức tốt giờ dạy nhận biết, tạo
môi trường học tập phong phú, thân thiện với trẻ. Trang trí và sắp xếp lớp học
theo chủ đề. Giáo viên là người tạo cơ hội, tạo tình huống có vấn đề để trẻ tích
cực hoạt động, tích cực nói, trả lời câu hỏi, trò truyện với cô. Giáo viên phải
nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó có biện pháp rèn luyện, uốn nắn
kịp thời, không nhắc lại những lời nói sai của trẻ. Cho trẻ tiếp xúc với các sự
vật, hiện tượng xung quanh, đặt nhiều câu hỏi để trẻ trả lời. Chuẩn bị tốt mọi
điều kiện, phương tiện, đồ dùng, đồ chơi phong phú, đẹp mắt, phù hợp với trẻ,
tận dụng phế liệu làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.

Luôn chú ý đến từng cá nhân trẻ, tạo mọi điều kiện khích thích trẻ hoạt
động tích cực,sáng tạo. Giờ học phải được thiết kế nhẹ nhàng,thoải mái, lồng
ghép các nội dung giáo dục một cách phù hợp.Thường xuyên sử dụng công nghệ
thông tin vào các hoạt động nhận biết, đưa yếu tố vui chơi, trò chơi dân gian, ca
dao, đồng dao vào giời học. Giáo viên phải biết ôn luyện cho trẻ mọi lúc, mọi
nơi trong mọi hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ hằng ngày.
* Đối với nhà trường: Nhà trường phối kết hợp với gia đình rèn luyện, phát
triển ngôn ngữ cho trẻ. Giáo viên luôn tự học, tự rèn luyện, nâng cao chất lượng
giờ dạy, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhà trường phải có kế hoạch
tăng cường bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên khối nhà trẻ. Thường xuyên
quan tâm, bổ sung, đầu tư trang thiết bị đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục
mầm non hiên nay.
Trên đây là những kinh nghiệm qua quá trình chỉ đạo thực hiện lồng ghép,
tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu cho trẻ mẫu
giáo, rất mong được sự góp ý của Ban giám hiệu nhà trường cũng như các bạn
đồng nghiệp, Phòng giáo dục để tôi chỉ đạo tổ chức thực hiện được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
21


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Nga Sơn, ngày 12 tháng 04 năm 2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN

Trịnh Thị Oanh

Phạm Thị Thơm


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo thông tư số
17/2009/ BGD&ĐT ngày 19 tháng 07 năm 2009.
2. Mô đun MN1 - A - Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm
giáo dục phát triển ngôn ngữ (Dành cho giáo viên) Bộ giáo dục và đào tạo.
3. Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non theo chương trình
giáo dục mầm non mới – Bùi Kim Tuyến (Chủ biên) Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam.
4. Hướng dẫn thực hiện chương trình cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi – Trần Thị
Ngọc Trâm - T.S Lê Thu Hương – PGS.TS Lê Thị Ánh Tuyết (Đồng chủ biên)
5. Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non theo chương trình
giáo dục mầm non mới – Bùi Kim Tuyến (Chủ biên) Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam.
6. Những sáng kiến kinh nghiệm chọn lọc nâng cao chất lượng chă sóc,
giáo dục trẻ (Dành cho giáo viên mầm non) – Phan Lan Anh – Lý Thị Hằng –
Nguyễn Thị Hiếu – Nguyễn Thanh Giang – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
7. Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện kể, câu đố theo chủ đề cho trẻ
3 – 36 tháng _ Lê Thu Hương (Chủ biên) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
8. Tạp chí GDMN, Qua mạng Internet
9. Các trò chơi và hoạt động cho trẻ 25 - 36 tháng tuổi

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
KỂ TỪ KHI ĐƯỢC TUYỂN DỤNG VÀO NGÀNH GIÁO DỤC

Họ và tên: Phạm Thị Thơm
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường mầm non Nga Thái

TT
1

2

3

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá xếp
loại
( Phòng, Sở,
Tỉnh…)

Một số biện pháp nâng cao - Phòng giáo dục
chất lượng cho trẻ 4 – 5 tuổi
làm quen với tác phẩm văn
học.
Một số biện pháp hướng dẫn - Phòng giáo dục
trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi phát
triển thẩm mỹ thông qua hoạt
động nặn tại Trường mầm
non nga Thái.
Một số biện pháp phát triển - Phòng giáo dục

ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36
tháng thông qua hoạt động
nhận biết ở lớp A1 trường
Mầm non Nga Thái - Nga
Sơn”.

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, C)

Năm học
được đánh giá
xếp loại

B

Năm học:
2011 - 2012

B

Năm học:
2014 - 2015

A

Năm học:
2016 - 2017


24



×