Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe nói cho học sinh lớp 2 qua môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.67 KB, 18 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc “ nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của mỗi bậc học. Ở mọi lúc, mọi nơi giáo dục được đặt ở vị trí hàng
đầu. Hơn thế nữa nghị quyết số 29 – NQ/TƯ Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản toàn, toàn diện giáo dục
và đào tạo nhằm hướng tới những mục tiêu cụ thể cần đạt. Chính vì vậy, để
phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ thì phải rèn kĩ năng nghe – nói ngay từ
đầu cấp Tiểu học. Bởi đây là những hoạt động diễn ra thường xuyên trong
cuộc sống của chúng ta.
- Nghe – nói là cặp hoạt động ngôn ngữ nói dạng giao tiếp bằng âm
thanh, trong các hoạt động ngôn ngữ, hoạt động nghe – nói là phương
tiện đắc lực song hành cùng con người, giúp con người nhận thức và
tìm hiểu về thế giới xung quanh một cách có hiệu quả. Nó diễn ra ở
mọi lúc, mọi nơi.
-

Mỗi chúng ta khi giao tiếp không chỉ biết nói mà không biết nghe.
Muốn sử dụng kĩ năng nghe – nói có hiệu quả thì cần luyện tập thường
xuyên, liên tục và có kế hoạch.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những nội dung cũng như các

biện pháp rèn kĩ năng nghe – nói cho HS Tiểu học nói chung. Nhất là HS
đầu cấp Tiểu học như lớp 2 nói riêng, một cách có hiệu quả là hết sức cần
thiết.
Vì vậy, tôi đã nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp:
“ Rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 2”
2. Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát, thống kê phân loại biện pháp rèn kĩ năng nghe – nói cho HS lớp
2 qua môn Tiếng Việt.



1


- Rút ra những kết luận về giá trị, hiệu quả của biện pháp rèn kĩ năng nghe –
nói cho HS lớp 2.
- Khảo sát việc sử dụng biện pháp này trong sách giáo khoa nhằm phục vụ
cho việc giảng dạy sau này.
- Qua việc khảo sát thống kê rút ra những kết luận về việc khảo sát rút ra
biện pháp này, tôi nghĩ rằng nó sẽ mang lại hiệu quả thiết thực trong việc
giảng dạy môn Tiếng Việt, nhất là đối với các lớp đầu cấp Tiểu học như lớp 2.
Hơn thế nữa, qua việc sử dụng biện pháp này, tôi mong muốn phụ huynh HS
cũng phần nào tham khảo để hướng dẫn con em mình học tập một cách hiệu
quả hơn ở môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Từ đó
giúp các em có vốn sống tốt hơn trong đời sông sinh hoạt hằng ngày.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là
SGK Tiếng Việt lớp 2, sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2, một số loại sách ở các
phân môn khác của lớp 2 và thử nghiệm, khảo sát cùng với 40 HS lớp 2D do
tôi giảng dạy. Tôi tập trung nghiên cứu việc rèn kĩ năng nghe – nói trong các
bài tập đọc, tập làm văn, luyện từ và câu, kể chuyện, chính tả, tập viết…
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp trực quan.

2


B. PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Kĩ năng nghe - nói là một hoạt động không thể thiếu của con người ở mọi
lứa tuổi, đặc biệt là lứa tuổi Tiểu học. Bởi lẽ, rèn kĩ năng nghe – nói cho HS
lớp 2 là rất quan trọng, là nền tảng để phát triển toàn diện nhân cách cho HS
và được đánh giá cao trong giảng dạy.
Kĩ năng nghe – nói là hoạt đọng hết sức quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng học tập của HS Tiểu học nói chung và của HS lớp 2 nói riêng.
Nghe – nói tốt giúp các em giao tiếp có hiệu quả và là cơ sở tạo ra sự thành
công trong học tập. Nó là phương tiện để HS tư duy và nhận thức về thế giới
xung quanh một cách tích cực. Chính khả năng nghe – nói của các em đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả giao tiếp của các em.
Kĩ năng nghe – nói tốt là cơ sở giúp trẻ phát triển năng lực học tập, năng
lực tư duy, năng lực hợp tác. Đồng thời giúp trẻ tự mình tìm hiểu và khám phá
thế giới xung quanh một cách dễ dàng. Vì vậy chúng ta cần rèn kĩ năng nghe
– nói cho HS ngay từ lớp 2 sẽ:
* Giúp các em biết tiếp nhận lời người khác một cách đầy đủ, chính xác,
biết chia sẻ kiến, biết cách giao tiếp với người khác.
* Giúp các em biết tạo lập lời nói của mình một cách có văn hóa, lễ phép,
phù hợp với những nhân tố khác nhau trong giao tiếp.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Thực trạng của học sinh:
- Các em mới bước đầu bước ra thế giới thu nhỏ của gia đình nên việc
phát triển hoạt động nghe – nói, giao tiếp với bạn bè còn hạn chế.
- Khi GV đưa ra một câu hỏi, các em trả lời không rõ ràng, mạch lạc,
không có đủ thành phần câu hoặc chưa biết cách diễn đạt.
- Các em chưa hiểu được việc nghe – nói là cần thiết và giúp ích cho bản
thân trong quá trình học tập.

3



- Vốn từ của các em còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc rèn
kĩ năng nghe – nói,
2. Thực trạng của giáo viên:
Mục tiêu của chương trình tiểu học là rèn : 4 kĩ năng nghe – nói – đọc – viết.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, giáo viên quá chú trọng vào 2 kĩ năng
đọc – viết, thường coi nhẹ việc luyện kĩ năng nghe – nói. Bản thân giáo viên
còn lúng túng trong việc tổ chức dạy học ( lựa chọn nội dung dạy học, hình
thức dạy học, phương pháp dạy học), nhằm hình thành và bồi dưỡng kĩ năng
nghe - nói cho HS. Đa số giáo viên cho rằng lớp học trật tự là 1 lớp học đang
học tập. Như thế là chưa đủ. Việc rèn kĩ năng nghe – nói cho trẻ thông qua
thảo luận nhóm hay tổ chức một số hình thức luyện tập khác cần đầu tư nhiều
thời gian và công sức. Vì vậy, không phải giáo viên nào cũng quan tâm đến
vấn đề này một cách nghiêm túc
3. Kết quả khảo sát của thực trạng:
Với nguyên nhân trên lí giải phần nào về kết quả khảo sát kĩ năng
nghe – nói cho HS lớp 2 qua bài: “Bạn của Nai Nhỏ”. Kết quả thu được như
sau:
Kết quả
Số
HS

40

Điểm 9 - 10
SL
11

%
27,5


Điểm 7 - 8
SL
16

%
40,0

Điểm 5 - 6
SL
8

%
20,0

Điểm dưới 5
SL
5

%
12,5

Qua bảng khảo sát trên, cho thấy chất lượng rèn kĩ năng nghe – nói chưa
có gì khả quan, số HS có điểm 5 – 6 và điểm dưới 5 vẫn còn cao. Vậy cần
làm gì? để rèn kĩ năng nghe – nói cho HS lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng
học tập thì tôi đã nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp sau:
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ CÁCH TỔ CHỨC THỰC HIÊN:
1. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:

4



Rèn kĩ năng nghe – nói cho HS lớp 2 có rất nhiều biện pháp. Căn cứ vào
đặc điểm tâm lí và nhận thức của HS , tôi đã áp dụng một số giải pháp tổ
chức cơ bản nhằm giúp các em rèn kĩ năng nghe – nói trong quá trình học tập
Tiếng Việt như: đàm thoại theo tranh ảnh, dạy theo mẫu, ghép nhóm và tổ
chức hoạt động theo nhóm, đóng vai và trò chơi. Những giải pháp này đều
mang tính chất luyện tập nhằm tăng cường khả năng sử dụng vốn ngôn ngữ
mà các em đã và sẽ được tích lũy.
2. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
2.1. Biện pháp đàm thoại theo tranh ảnh:
Sử dụng đàm thoại theo tranh ảnh là một biện pháp phù hợp với đặc điểm
tâm lí của HS lớp 2, cụ thể là:
- Việc sử dụng kênh hình giúp các em có thể tiếp nhận kiến thức một cách
trực quan. Thông qua kênh hình, HS được gợi mở, liên tưởng và huy động
vốn ngôn ngữ đã có của bản thân và phát triển tư duy. Trên cơ sở kênh hình,
GV kết hợp với đàm thoại nhằm gợi mở dẫn dắt HS tìm hiểu nội dung bài.
- Biện pháp sử dụng với kênh hình kết hợp với đàm thoại, bằng hệ thống
câu hỏi dẫn dắt sẽ đem lại sự trao đổi thông tin giữa GV và HS, càng có cơ
hội khai thác nội dung bài sâu, định hướng đúng mục tiêu của bài học.
- Quá trình đàm thoại chính là quá trình rèn kĩ năng nghe – nói một cách
trực tiếp.
* Nội dung thể hiện:
- Nội dung thứ nhất là rèn kĩ năng nghe – nói theo chủ đề. Ở nội dung này,
mỗi bức tranh có sẵn một tên gọi. Dựa vào tên gọi của bức tranh có thể định
hướng rèn kĩ năng nghe – nói cho HS. Để giúp HS nói được những câu đầy
đủ về nội dung bức tranh dựa trên tên gọi có sẵn. GV phải dùng những câu
hỏi mở dẫn dắt HS tập trung vào chủ đề của bức tranh mà không làm mất đi
sự sáng tạo của các em. Mỗi một bức tranh có thể gợi nên những cảm nhận
khác nhau. Thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, GV không cần áp đặt suy nghĩ


5


của các em mà phải khơi dậy những y tưởng hồn nhiên, trong sáng của các
em.
- Nội dung thứ hai là rèn kĩ năng nghe – nói thông qua việc kể chuyện. Đây
là hình thức luyện tập yêu cầu ở mức độ cao hơn, cụ thể là: HS phải nói được
nhiều câu, biết liên kết các câu thành đoạn, liên kết các đoạn thành bài. Câu
chuyện kể phải thể hiện được nội dung tư tưởng và y nghĩa rõ ràng, câu
chuyện phải có nhân vật, hành động, sự kiện… để tạo nên cốt chuyện một
cách chặt chẽ, logic.
* Quy trình vận dụng: Để sử dụng kênh hình kết hợp với đàm thoại trong
quá trình rèn kĩ năng nghe – nói cho HS đạt hiệu quả có thể thực hiện theo
quy trình sau:
Bước 1: HS quan sát tranh
Ví dụ: Bức tranh quét nhà ( Quét nhà là một đề tài phù hợp với HS. Vì
hoạt động này là hoạt động các em trực tiếp quan sát bố mẹ, anh chị hoặc em
đã làm.)
Bước 2: Tổ chức HS đàm thoại
GV có thể đàm thoại với HS xung quanh bức tranh này với các câu hỏi như
sau:
- Trong tranh các em thấy bạn đang làm gì?
- Bạn dùng gì để quét nhà?
- Em thử đoán xem, bạn đó quét nhà vào khi nào?
- Theo em bạn quét nhà như thế nào thì nhà mới sạch?
- Bạn quét xong, ông bà, bố mẹ, anh chị của bạn có vui không?
Bước 3: HS nói thành câu, thành bài
Sau khi đàm thoại, GV có thể dựa vào kết quả ấy để giúp HS nói thành
chuỗi câu hoặc bài nói hoàn chỉnh. Trong khi HS nói GV chú sửa lỗi cho các

em nói sao cho rõ ràng dễ hiểu.
Bước 4: GV nhận xét, động viên.
- GV nhận xét lời nói của HS, động viên và khích lệ các em.
6


- GV có thể hát hoặc cho lớp hát bài :bé quét nhà.
2.2. Biện pháp rèn kĩ nghe – nói theo mẫu:
Biện pháp nghe – nói theo mẫu là biện pháp GV sử dụng những mẫu lời nói
cụ thể hoặc mô hình lời nói để hướng dẫn HS nhận diện đặc điểm của mẫu.
Thông qua đó, HS biết cách tạo ra những lời nói theo định hướng của mẫu.
HS được nghe - nói hoặc tường minh mẫu một cách trực tiếp không cần lời
giảng dài dòng. Rèn kĩ nghe – nói bằng biện pháp này sẽ giúp HS tiếp nhận
kiến thức một cách trực quan. Biện pháp này có thể sử dụng ở tất cả các phân
môn Tiếng Việt.
* Nội dung thể hiện:
Trong quá trình sử dụng mẫu. Giáo viên phải đảm bảo tính mẫu mực tối đa.
Khi lựa chọn mẫu, ngoài việc đảm bảo tính mẫu mực , các mẫu cần đảm bảo
các yêu cầu sau: Mẫu phải ngắn gọn, dễ quan sát, chứa đụng nhiều nội dung
đáp ứng mục đích tư tưởng, mẫu phải đảm bảo tính thẩm mĩ, đảm bảo HS
được tiếp nhận, thưởng thức và biết nhận thức về giá trị của cái đẹp. Mẫu cần
phải phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi.
- Ngoài ra, dùng mẫu là một trong các kĩ năng đầu tiên của quá trình phát
triển các kĩ năng nghe – nói cho HS. Với vai trò là người chỉ đạo, tổ chức,
giao tiếp mà không đơn giản chỉ là – người cung cấp thông tin cho các em.
Nếu GV có khả năng nghe – nói tốt thì có ảnh tốt đến việc rèn kĩ năng nghe –
nói cho HS.
* Quy trình vận dụng:
Bước 1: Tiếp cận ngữ liệu mẫu.
Đây là việc làm đầu tiên có vai trò quan trọng. Việc lựa chọn phải đảm bảo

tính tư tưởng , tính thẫm mĩ, tính hình thức và tính mục đích. Sau khi lựa chọn
được ngữ liệu. Tôi đã giới thiệu ngữ liệu đó để HS tiếp cận. Trong việc rèn kĩ
năng nghe – nói , ngữ liệu mẫu tồn tại dưới dạng âm thanh của ngôn ngữ.
Bước 2: Phân tích ngữ liệu.

7


Bằng thao tác phân tích. Tôi đã giúp HS nhận xét, tìm hiểu để rút ra đặc
điểm chung của ngữ liệu. Những đặc điểm này chính là nội dung chốt, HS cần
ghi nhớ. Mỗi mẫu có thể chứa một hay nhiều nội dung cần ghi nhớ. Vì vậy,
tôi đã lựa chọn để nêu những đặc điểm của mẫu sao cho phù hợp với nội dung
bài giảng.
Bước 3: Vận dụng
HS dựa vào đặc điểm cấu tạo của mẫu mà mình đã tiếp nhận để tạo lập một
đơn vị lời nói theo mẫu. Sản phẩm các em tạo ra sẽ mang đầy đủ đặc điểm
của mẫu.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá.
Dựa trên những sản phẩm tạo theo mẫu của HS, GV cần nhận xét, đánh giá
chất lượng của sản phẩm. Nếu như sản phẩm này chưa đáp ứng được yêu cầu
thì tôi lại giúp HS tự chỉnh sửa sản phẩm mang đặc điểm của mẫu.
Như vậy, biện pháp làm mẫu luôn thể hiện ở 2 khía cạnh: Nhận diện mẫu
và tổ chức tạo mẫu. Khía cạnh thứ nhất nghiêng về quá trình tiếp nhận các
mẫu ngôn ngữ của HS, còn khía cạnh thứ 2, nghiêng về quá trình tổ chức tạo
mẫu.
2.3. Biện pháp ghép nhóm và tổ chức hoạt động nhóm:
Việc ghép nhóm và tổ chức hoạt động theo nhóm có tầm quan trọng trong
quá trình dạy học các môn học nói chung và đặc biệt có tác động rất lớn trong
việc dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 , cụ thể là: giúp HS tích cực và tham gia
nhiều hơn các kĩ năng giao tiếp về thế giới xung quanh và một số kĩ năng

sống cơ bản khác được phát triển. HS có thể diễn đạt bằng lời nói và chia sẻ
các suy nghĩ của mình với những người khác trong việc phát triển kĩ năng
ngôn ngữ, HS có thể hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau; HS sinh dần dần làm quen
với vai trò và trách nhiệm khác nhau, như: vai trò trưởng nhóm, vai trò thành
viên. Bản thân tôi có thể hỗ trợ cho HS theo nhu cầu khác nhau. HS được làm
việc trong nhóm nhỏ sẽ dần dần mạnh dạn và tự tin hơn.
* Nội dung thể hiện:
8


- Cách ghép nhóm: Căn cứ vào những mục tiêu khác nhau, chúng ta có thể
có nhiều cách ghép nhóm. Bởi vì với HS lớp 2, có thể tạo nhóm theo thành
phần HS, theo quy mô nhóm, theo cấu trúc, theo kiểu nhóm…
Vai trò và trách nhiệm của từng thành viên được thể hiện qua sơ đồ sau:

VAI TR Ò VÀ TRÁCH
NHỆM CỦA TỪNG
THÀNH VIÊN TRONG
NHÓM

Trưởng nhóm
- Đọc
- Nêu nhiệm vụ
Phân việc
- Điều khiển
nhóm thảo luận

Thư kí
Ghi chép các y
kiến, kết quả

công việc của
nhóm

Người trình bày
Trình bày công
việc và kết quả
của nhóm

Các thành viên
trong nhóm
- Trao đổi, góp
y kiến về nhiệm
vụ được giao

Người quản lý
- Thu thập quản
ly các học sinh
- Tính thời gian

* Quy trình vận dụng:
Bước 1: GV nêu yêu cầu, nhiệm vụ HS phải làm.
Bước 2: GV hướng dẫn chia nhóm dựa theo yêu cầu bài tập ( mỗi nhóm đều
phải có thư kí, nhóm trưởng, người trình bày) mọi thành viên trong nhóm đều
tham gia đóng góp y kiến .
Bước 3: GV giao nhiệm vụ cho từng nhóm và giới hạn thời gian thảo luận.
Bước 4: Quan sát hoạt động thảo luận, hướng dẫn, gợi y các nhóm thảo
luận.
Bước 5: Đại diện các nhóm trình bày kết quả.
Bước 6: Tổ chức nhận xét, đánh giá xếp loại, bổ xung những y kiến cần
thiết, động viên tinh thần làm việc của nhóm.


9


Biện pháp ghép nhóm và tổ chức hoạt động nhóm được vận dụng kèm với
các biện pháp dạy học khác như: biện pháp đóng vai, biện pháp trò chơi, biện
pháp thực hành giao tiếp… Với cách thực hiện như trên, biện pháp này sẽ có
hiệu quả cao trong quá trình dạy Tiếng Việt lớp 2.
2.4. Biện pháp đóng vai:
Đóng vai là biện pháp trong đó HS tham gia diễn xuất ( một cách tức thời)
một vấn đề hay một tình huống của nội dung học tập mà không cần luyện tập
trước. Việc nhập vai thành công hay không chính là thước đo kết quả học tập
của các em trong nhận thức và việc sử lí tình huống học tập.
Biện pháp đóng vai có thể sử dụng trong việc rèn kĩ năng nghe – nói, HS
sẽ vào vai một nhân vật giao tiếp nào đó để rèn kĩ năng nghe – nói sao cho
phù hợp với tình huống giả định ấy. Đây là những tình huống học tập nhưng
có nhiều nét tương đồng với các tình huống giao tiếp diễn ra trong cuộc sống
thực của các em.
Đóng vai giúp cho các em có cơ hội hay điều khiển hành động của bản
thân khi giao tiếp với người khác. Đóng vai cũng là sự luyện tập, thực hành
giữa ngôn ngữ lời nói với ngôn ngữ cơ thể ( tư thế, biểu hiện cảm xúc trên
khuôn mặt, hoạt động tay, chân… ). Các kĩ thuật này có thể áp dụng trong
cuộc sống hằng ngày. Biện pháp đóng vai giúp HS hình thành và phát triển
khả năng giao tiếp, khả năng thích ứng với các tình huống. Ngoài ra, thông
qua đóng vai, có thể rèn luyện cho HS thực hiện những kĩ năng ứng sử và bày
tỏ thái độ trong môi trường được thầy cô chỉ dẫn trước khi thực hành trong
thực tiễn, gây hứng thú và chú y cho HS học tập. Tiếng Việt tạo cơ hội cho
HS bộc lộ cảm xúc cũng như việc hình thành các kĩ năng giao tiếp, kích thích
sự sáng tạo cho HS, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo chuẩn
mực hành vi đạo đức có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói về việc

làm của từng vai diễn.
* Nội dung thể hiện

10


Biện pháp đóng vai thể hiện ở 3 khía cạnh cơ bản đó là người tham gia
đóng vai, cách tổ chức đóng vai và nội dung của hoạt động đóng vai.
- Người tham gia đóng vai là HS trong tổ, trong lớp. Các em đóng vai
không nhằm luyện tập các kĩ năng biểu diễn mà các em đóng vai chủ yếu
nhằm mục đích luyện tập theo chủ đề hội thoại giao tiếp để sau đó cả lớp cùng
phân tích, nhận xét, rút kinh nghiệm.
* Cách tổ chức đóng vai:
Khi đóng vai thực hiện một tình huống giả định, các nhân vật tham gia hội
thoại có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau để phát triển đề tài, thực hiện
cuộc hội thoại như biện pháp hỏi-đáp, phiếu học tập để đưa ra lời giải trên
giấy.
* Hoạt động đóng vai:
Theo sự phát triển của tình huống giao tiếp giả định, hội thoại trong hoạt
động đóng vai được thực hiện trong mỗi giai đoạn của cuộc giao tiếp với
những chức năng nhiệm vụ khác nhau
+ Hoạt động mở đầu cuộc giao tiếp bao gồm những lời nói dùng trong lúc
gặp gỡ, làm quen và các lời thoại giới thiệu đề tài giao tiếp.
+ Hoạt động triển khai đề tài giao tiếp bao gồm những đoạn thoại của các
nhân vật để trò chuyện và thương lượng hay trình bày, phân tích trao đổi, thảo
luận… về đề tài.
+ Hoạt động kết thúc cuộc giao tiếp bao gồm những lời nói, lời chia tay,
lời tạm biệt, hẹn gặp lại…
* Quy trình vận dụng
Bước 1: Chuẩn bị

Tôi chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và quy định rõ thời gian
chuẩn bị, thời gian đóng vai.
Bước 2: HS nhận nhiệm vụ được giao
Các nhóm thảo luận và thống nhất một số nội dung như: phân vai, dàn cảnh,
cách thể hiện từng nhân vật, diễn thử.
11


Bước 3: HS thực hiện đóng vai
- Các nhóm đóng vai sau khi đã được chuẩn bị.
- Lớp thảo luận và đưa ra nhận xét theo gợi y: Cách ứng xử của các nhân vật
phù hợp hay chưa phù hợp? Cảm xúc của HS được bộc lộ như thế nào khi
thực hiện cách ứng xử? Có thể phát hiện thêm cách ứng xử nào khác. ( Cho
HS tranh luận về ích lợi, tác hại hay hạn chế của mỗi cách ứng xử.)?
Bước 4: GV nhận xét, đánh giá
GV nêu y nghĩa của tình huống và kết luận về cách ứng xử, nhập vai của HS
giúp các em rút ra bài học cho bản thân.
2.5. Biện pháp tổ chức trò chơi học tập
Trò chơi học tập là loại trò chơi có tác dụng gắn với nội dung bài học và
phục vụ cho mục đích học tập, giúp HS khai thác vốn kinh nghiệm của bản
thân. Trò chơi học tập giúp rèn luyện trí tuệ lẫn phong cách cho HS. Th ông
qua trò chơi, HS có thể được rèn luyện thể lực , các giác quan, sự thông minh,
nhạy cảm, sáng tạo, hoạt bát và đặc biệt là được giao lưu và được học hỏi với
các bạn trong nhóm, trong tổ.
Dạy học bằng phương pháp trò chơi học tập giúp HS hình thành ý thức
tự củng cố kiến thức, kĩ năng, thói quen hợp tác trong học tập theo các hình
thức khác nhau ( nhóm, tổ, lớp…). Trò chơi sẽ làm cho giờ học sôi nổi, không
khí học tập diễn ra một cách tự nhên, thoải mái. HS mạnh dạn, tự tin và có
nhiều cơ hội luyện kĩ năng nghe- nói một cách tự nhiên bên cạnh việc được
củng cố kiến thức đã học, giúp HS phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh

thần.
- Nội dung: Để vận dụng trò chơi học tập vào trong từng tiết học thành
công, bên cạnh mục đích củng cố kiến thức, GV cần thường xuyên rèn cho
HS các kĩ năng , kĩ xảo khi tham gia trò chơi. Trong đó kĩ năng đáng quan
tâm nhất là kĩ năng nghe – nói.
* Nội dung chơi: Nội dung của các trò chơi học tập cần phải gắn với các
tri thức, kĩ năng của phân môn Tiếng Việt lớp 2.
12


* Luật chơi: Để tổ chức trò chơi đạt mục đích học tập của HS. GV cần
phải đưa ra những luật chơi nhất định. Tuy nhiên đối với HS đầu cấp Tiểu học
như lớp 2 thì luật chơi đưa ra cần đơn giản, rõ ràng, dễ nhớ, không đòi hỏi
nhiều thời gian cho việc huấn luyện. Ngoài ra, trò chơi học tập thường được
diễn ra trong thời gian rất ngắn, phù hợp với trình độ của HS, luật chơi cần
được giới thiệu trước khi chơi bao gồm: nội dung chơi, cách tổ chức chơi và
cách tính điểm cho người chơi.
- Thời gian và thời điểm chơi: Trò chơi luôn là một khâu kết nối khá
quan trọng trong quá trình tổ chức giờ học. Nếu như việc sử dụng trò chơi học
tập đúng mục đích, đúng liều lượng thì sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong
việc rèn kĩ năng nghe –nói. Nhưng nếu lạm dụng trò chơi thì giờ học sẽ biến
thành giờ thư giản, giải trí không đạt mục đích của tiết học.
Trò chơi học tập thường được đưa vào cuối tiết học, nhằm củng cố kiến
thức và kĩ năng học tập trong tiết học đó, khi HS có dấu hiệu mệt mỏi thì trò
chơi tạo sự hưng phấn cho HS để kết thúc tiết học vui vẻ. Tuy nhiên, có
những trường hợp trò chơi có thể đưa vào đầu tiết học nhằm kiểm tra các kiến
thức đã được học và có giá trị như một màn khởi động tạo tâm thế học tập cho
HS.
Ngoài các vấn đề cần lưu y trên GV cũng luôn phải xác định được mục
đích của trò chơi nhằm củng cố kiến thức, theo dõi, kiểm soát và đánh giá

người chơi trong các hoạt đông tham gia. Trò chơi ở đây là một biện pháp học
tập, rèn luyện, vì thế cần tránh tình trạng chơi để mà chơi..
* Quy trình vận dụng
Thông qua trò chơi, GV tạo cơ hội cho HS củng cố kiến thức, rèn kĩ năng,
kĩ xảo. Để HS tham gia chơi có hiệu quả. Chúng ta cần thực hiện theo quy
trình sau:
Bước 1: Giới thiệu trò chơi
- Nêu tên trò chơi

13


-

Nêu rõ mục đích yêu cầu của trò chơi cũng như nội dung cần rèn
luyện.

- Chơi nhằm mục đích rèn kĩ năng nghe – nói.
Bước 2: Hướng dẫn cách chơi
Bản thân GV phải mô tả hoặc làm mẫu, nếu cần mời HS làm thử ngay. GV
nên lưu y: Đối với HS lớp 2 cách chơi đưa ra càng đơn giản, dễ nhớ, dễ làm
càng tốt.
- GV nêu luật chơi và thời gian chơi.
Bước 3: Tổ chức chơi
- Chơi thử hay còn gọi là chơi nháp để xem HS đã nắm được cách chơi
chưa đồng thời để xem tình huống của trò chơi có khả thi không?
- Trong lượt chơi thử, GV quan sát những HS thường mắc lỗi nhằm nhấn
mạnh luật chơi trước khi cho các em chơi thật.
- Chơi thật:
+ Khi chơi thật, người quản trò áp dụng luật chơi đã đưa ra khi chơi nhằm “

xử phạt” những HS phạm luật chơi, khen thưởng đối với những HS thực hiện
tốt.
+ Trong quá trình tổ chức chơi cần lưu y vai trò của người tổ chức và chế độ
thưởng phạt.
Vai trò của người tổ chức hay là người quản trò có vị trí quan trọng, nó gây
được hứng thú cho người tham gia có khả năng lôi cuốn, thu hút HS, biết kiên
nhẫn, diễn đạt mạch lạc, biết dừng trò chơi đúng lúc, thực hiện đúng luật chơi,
đánh giá y nghĩa của trò chơi.
Thưởng phạt cũng phải công bằng khiến người tham gia chơi cảm thấyvui
vẻ, thoải mái.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá và rút kinh nghiệm
- Cần nhận xét,đánh giá trò chơi bằng những kiến thức được củng cố và kĩ
năng luyện tâp.
- Nhận xét thái độ tham gia của người chơi và rút kinh nghiệm.
14


Biện pháp trò chơi học tập không chỉ giúp HS củng cố kiến thức mà phát
triển cho HS những kĩ năng tổ chức, kĩ năng trình bày, kĩ năng nghe, kĩ năng
quan sát, nhận xét, đánh giá và tham gia thảo luận. Ngoài ra, HS sẽ dần dần
có y thức trách nhiệm,biết tôn trọng kỉ luật, biết giúp đỡ bạn bè và sẵn sàng
phấn đấu, cố gắng vì danh dự của nhóm…Thông qua trò chơi học tập, HS đặc
biệt có cơ hội để thể hiện bản thân mình từ tính cách, năng lực đến khả năng
trình bày, diễn đạt.
Như vậy, thông qua biện pháp tổ chức trò chơi học tập, sẽ có tác động
tích cực tới việc hình thành và phát triển kĩ năng nghe – nói cho HS lớp 2, từ
đó giúp HS tiếp thu kiến thức môn học Tiếng Việt được tốt hơn, tư duy phát
triển nhanh hơn và kĩ năng đọc – viết cũng tốt hơn.
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện” Biện pháp rèn kĩ năng nghe –

nói cho HS lớp 2”. Với những kế hoạch và biện pháp nêu trên bước đầu đã
thu được kết quả như sau:
- GV nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc rèn kĩ năng nghe –
nói cho HS lớp 2. GV tích cực tự bồi dưỡng, vững vàng hơn về chuyên
môn.
- Chất lương giảng dạy và học tập môn Tiếng Việt đạt hiệu quả rõ rệt.
- HS tích cực , hứng thú và chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức
- Không khí lớp học sôi nổi, hào hứng, HS thích thú với môn học này.
- HS mạnh dạn, tự tin hơn khi thể hiện mình trước đám đông, có tinh
thần hợp tác cùng làm việc trong nhóm, biết bày tỏ y kiến cá nhân của
mình.
Kết quả cụ thể như sau:
Ở bài ôn tập giữa học kì 2 – Tiết 8. Tôi đã tiến hành tìm hiểu kĩ năng nghe
– nói của HS lớp 2 do tôi chủ nhiệm , bằng việc áp dụng các biện pháp đã
nêu ở trên, kết quả đạt được như sau:

15


Kết quả

Điểm 9 -10

Điểm 7 – 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

40


SL
23

SL
12

SL
5

SL
0

Số
HS

%
57,5

%
30,0

%
12,5

%

Qua kết quả trên, tôi thấy việc áp dụng biện pháp : Rèn kĩ năng nghe –
nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiêng Việt là rất khả thi và bước đầu đã đạt
được kết quả đáng khích lệ, không còn điểm dưới 5 điều đó cho thấy rằng:

các em đã được trang bị cho mình những kiến thức kĩ năng nghe – nói cơ bản,
cần thiết , các em đã nhận thức được tác dụng của việc rèn kĩ năng nghe – nói
trong học tập cũng như trong đời sống hằng ngày.

16


C. PHẦN KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu, thống kê phân loại và sử dung biện pháp này, tôi
nhận thấy HS có kĩ năng nghe – nói tốt hơn, cách diễn đạt cũng rõ ràng mạch
lạc hơn, các em không những thích tìm tòi, khám phá mà còn mạnh dạn, tự tin
hơn trong giao tiếp và làm việc nhóm cùng bạn bè, thầy cô. Như vậy, biện
pháp rèn kĩ năng nghe – nói cho HS lớp 2 không những tạo hiệu quả tốt trong
học tập mà nó còn tạo điều kiện cho việc phát triển kĩ năng sống cho các em.
Việc nghiên cứu và đúc rút kinh nghiệm: Rèn kĩ năng nghe – nói cho HS
lớp 2 không làm cho hoạt động dạy học trở nên rườm rà mà còn giúp cho việc
tham gia các hoạt động học tập của HS trở nên vui vẻ, tích cực, hào hứng, sôi
nổi và nhẹ nhàng hơn. Việc vận dụng các kĩ năng nghe – nói vào từng bài học
cụ thể, sẽ làm tăng thêm hiệu quả giáo dục, đồng thời sẽ tạo điều kiện để HS
được thực hành và trải nghiệm nhiều hơn.
Trên đây là một số biện pháp “ Rèn kĩ năng nghe – nói cho HS lớp 2”.
Trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu viết đề tài này không tránh khỏi những
khiếm khuyết. Rất mong nhận được y kiến đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp
để đề tài của tôi đươc hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của Hiệu Trưởng

Thanh Hóa ngày 31 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tôi
nghiên cứu và viết, không sao chép nội

dung của người khác.
Người viết

Hoàng Thị Duyên

17


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

1

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu


2

B. PHẦN NỘI DUNG

3

I. Cơ sở lý luận

3

II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

3

III. Các giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện

4

IV. Kết quả nghiên cứu

15

C. PHẦN KẾT LUẬN

17

18




×