Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Bồi dưỡng tình yêu nét đẹp văn hóa dân tộc thú chơi chữ cho học sinh lớp 8 trường THCS nga hải thông qua dạy học văn bản ông đồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.86 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BỒI DƯỠNG TÌNH YÊU
NÉT ĐẸP VĂN HÓA DÂN TỘC -THÚ CHƠI CHỮ- CHO HỌC
SINH LỚP 8 TRƯỜNG THCS NGA HẢI THÔNG QUA DẠY HỌC
VĂN BẢN ƠNG ĐỒ CỦA VŨ ĐÌNH LIÊN.

Người thực hiện: Hồng Thị Hồn
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường THCS Nga Hải
SKKN thuộc lĩnh vực(mơn): Ngữ văn

THANH HỐ NĂM 2017


MỤC LỤC
STT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.2
2.2.1


2.2.2
2.2.3
2.2.4
2.3
2.3.1
2.3.2
2.4
2.4.1
2.4.2
2.4.3
3
3.1
3.2

NỘI DUNG
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Vài nét về văn hóa dân tộc trong văn học, nghệ thuật
Thú chơi chữ - Bản chất và giá trị
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng xã hội -Tâm lý
Thực trạng giáo viên
Thực trạng học sinh
Thực trạng môn học
Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

Giải pháp chung
Giải pháp cụ thể
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Về phía giáo viên
Về phía học sinh
Kết quả cụ thể
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

TRANG
2
2
3
4
4
5
5
5
6
7
7
8
8
9
10
10
10
15
15

15
16
17
17
17

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong sự phát triển của một đất nước, giáo dục đóng vai trị quan trọng, bởi
lẽ giáo dục không chỉ đào đạo nguồn nhân lực mà cịn bồi dưỡng nguồn nhân
tài, góp phần thúc đẩy xã hội đi lên. Người Việt Nam chúng ta ln tự hào có
một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đó, bên cạnh nhiệm vụ “ Đào tạo
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” thì giáo dục Việt Nam cịn có thêm một
trọng trách vẻ vang nữa đó là giáo dục lớp trẻ biết yêu q hương, đất nước,
ln có ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc, biết tự hào, phát huy những giá trị văn
hóa dân tộc.
Giáo dục tình u nét đẹp văn hóa dân tộc cho học sinh trong nhà trường có
thể được tiến hành thơng qua nhiều hình thức, cách thức khác nhau như: qua các
môn học, qua các hoạt động ngồi giờ, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp,…Một
trong những mơn học có nhiệm vụ giáo dục học sinh giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc đó là mơn Ngữ văn. Bởi lẽ đây là môn học tác động trực tiếp tới tư
tưởng, tình cảm của con người ; gắn bó mật thiết với việc rèn luyện nhân cách
con người thơng qua các hình tượng nghệ thuật sống động, đúng như nhà phê
bình văn học Hồi Thanh đã nói: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta
khơng có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
được hun đúc, gìn giữ, kế thừa và phát triển hàng mấy nghìn năm dù trải qua
biết bao thăng trầm và biến cố của lịch sử . Trong quá trình dựng nước và giữ

nước, văn học Việt Nam là một thực thể có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc
bồi đắp nên tâm hồn, khí phách và bản lĩnh con người Việt Nam. Chính vì lẽ đó
mà nền văn hóa đậm đà bản sắc của ta khơng bao giờ tàn lụi. Văn học là nhân
học. Vì thế, nhiệm vụ bồi dưỡng tình yêu nét đẹp văn hóa dân tộc cho học sinh
qua mơn Ngữ văn là vô cùng quan trọng và là một trong những nhiệm vụ cơ bản
của môn học này.
Song, thực trạng hiện nay, việc dạy – học môn Ngữ văn mới chỉ dừng lại ở
việc truyền thụ kiến thức. Việc giáo dục, bồi dưỡng tình u nét đẹp văn hóa cho
học sinh có nhưng chưa rõ nét, ít được chú trọng. Học sinh khơng biết và ít cảm
nhận được những nét đẹp văn hóa dân tộc qua các tác phẩm văn chương, tâm
hồn các em có phần cằn cỗi vì khơng được ni dưỡng thường xuyên. Một phần
do xu thế xã hội: học sinh khơng thích, khơng chú trọng mơn Ngữ văn nên thầy
cơ khơng có hứng thú dạy, dần dà những nét đẹp văn hóa dân tộc trong học sinh

3


bị mai một. Thực trạng này như một hồi chuông cảnh báo đối với những người
làm giáo dục nói chung, giáo viên dạy Ngữ văn nói riêng.
Thực tiễn những năm gần đây, sự khôi phục, tôn vinh, phát huy những giá
trị văn hóa dân tộc đang diễn ra mạnh mẽ trên tồn quốc. Đã có nhiều giá trị văn
hóa dân tộc được tơn vinh như: Nhã nhạc cung đình Huế, Khơng gian văn hóa
Cồng chiêng Tây Ngun, Hát ca trù, Trị Xn Phả (Thọ Xn – Thanh
Hóa)....Và một trong những nét đẹp văn hóa đang được khơi phục, phát huy
mạnh mẽ từ hơn mười năm trở lại đây là thú chơi chữ.
Có thể nói, trong chương trình Ngữ văn hiện nay, nhiều nét đẹp văn hóa
dân tộc được đưa vào các tác phẩm để dạy - học trong nhà trường nhằm bồi
dưỡng cho các em tình yêu đất nước, dân tộc với những giá trị văn hóa cao đẹp,
bền vững (tình u di tích lịch sử, tình u làn điệu dân ca Huế, yêu nét sinh
hoạt ca Huế trên sông Hương của người dân xứ Huế,...và đặc biệt yêu nét sinh

hoạt văn hóa rất đẹp của cha ơng - Thú chơi chữ - được thể hiện qua văn bản
Ông đồ của Vũ Đình Liên thuộc chương trình Ngữ văn 8). Mỗi giáo viên trong
cách truyền tải của mình nhằm giúp học sinh hiểu được nét đẹp của thú chơi chữ
và giá trị văn hóa đích thực của nó, từ đó có ý thức giữ gìn, kế thừa, phát huy nét
đẹp văn hóa này (dù chỉ một biểu hiện nhỏ là ý thức viết chữ đẹp của học
sinh). Song, nhìn chung mức độ tiếp nhận của học sinh về nét đẹp văn hóa này
cịn có những hạn chế nhất định: học sinh thụ động trong những kiến thức về thú
chơi chữ, sự hứng thú học tập hay tính chủ động tìm tòi về thú chơi chữ biểu
hiện chưa rõ,...
Từ những lý do trên kết hợp với thực tiễn dạy học của bản thân, tơi mạnh
dạn lựa chọn, tìm hiểu đề tài “Bồi dưỡng tình u nét đẹp văn hóa dân tộc-Thú
chơi chữ- cho HS lớp 8 Trường THCS Nga Hải thông qua dạy học văn bản Ơng
đồ của Vũ Đình Liên” với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc bồi
dưỡng tình yêu quê hương đất nước trong dạy - học văn qua một biểu hiện cụ
thể của văn hóa dân tộc.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng về tình u nét đẹp văn hóa dân tộc trong học sinh.
- Nghiên cứu cách bồi dưỡng tình yêu tình u nét đẹp văn hóa dân tộc cho học
sinh.
- Nghiên cứu việc bồi dưỡng này qua văn bản “ Ông đồ” - Ngữ văn 8 cho học
sinh để giáo viên giúp học sinh hiểu biết, trân trọng, yêu mến, gìn giữ, phát huy
4


những nét đẹp của văn hóa dân tộc nói chung và đặc biệt là nét đẹp về Thú chơi
chữ nói riêng được đề cập trong bài thơ của tác giả Vũ Đình Liên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 8 trường THCS Nga Hải.
- Văn bản “ Ông đồ” trong chương trình Ngữ văn 8.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:

- Đọc, nghiên cứu tài liệu để hiểu biết rõ về bản chất và giá trị của thú chơi chữ.
- Dự giờ các đồng nghiệp khi dạy văn bản “Ông đồ” ( Ngữ văn 8) và tham khảo
ý kiến của đồng nghiệp, của các nhà thư pháp (Qua tài liệu, qua thực tiễn đối
thoại ở mỗi lần đi tham quan).
- Khảo sát thực tế sự hiểu biết của HS về thú chơi chữ của ông cha.
- Thực nghiệm dạy văn bản “Ơng đồ” trong chính khóa và trong buổi học bồi
dưỡng của học sinh, đánh giá kết quả để từ đó rút ra hướng bồi dưỡng hiệu quả
cho học sinh khi bồi dưỡng cho các em về tình yêu nét đẹp văn hóa dân tộc.

5


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Vài nét về văn hóa dân tộc trong văn học, nghệ thuật:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.” [6] Như vậy, có thể khẳng
định văn học nghệ thuật là một trong những bộ phận cấu thành và rất quan trọng
của văn hoá. Văn học nghệ thuật được nảy sinh và nuôi dưỡng từ mảnh đất hết
sức màu mỡ là thực tiễn cuộc sống và nền văn hoá dân tộc. Rồi đến lượt mình,
văn học nghệ thuật lại làm phong phú sâu đậm thêm bản sắc dân tộc của văn
hoá. Trong văn học nghệ thuật, con người là đối tượng trung tâm và bao giờ
cũng mang trong mình những đặc trưng của văn hoá dân tộc cũng như thời đại
sản sinh ra nó. Vì vậy, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra thời đại cũng như màu
sắc dân tộc của thời đại đó cùng với những tư tưởng nhân văn tiến bộ thông qua
các tác phẩm văn nghệ đích thực.
Và khi nói đến văn hóa dân tộc, ta cần nói đầy đủ, rõ ràng là Bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Bản sắc: Màu sắc, tính
chất riêng tạo thành đặc điểm chính”. Vậy, “bản sắc dân tộc của văn hóa Việt

Nam được hiểu là những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước tạo thành những nét đặc
sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam”.[1]
Như vậy, bản sắc văn hóa dân tộc khơng phải là cái ngưng đọng, bất biến mà
luôn luôn phát triển theo tiến trình một cách biện chứng, với xu hướng tích lũy,
tiếp nhận những điều tốt đẹp, tiến bộ; loại trừ cái xấu, cái lạc hậu không phù hợp
với thời đại, dân tộc. Tiến trình văn hóa Việt Nam gồm sáu giai đoạn “ tạo thành
ba lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp
văn hóa giao lưu với phương Tây.” [6] Mặc dù phải trải qua nhiều biến cố suốt
chiều dài lịch sử, song, văn hoá Việt Nam đã vượt qua thế bị động, luôn chủ
động để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình. Và
trong quá trình phát triển, các thế hệ người Việt Nam ln ý thức giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc để khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế. Biết bao lớp trẻ khơng ngừng ra sức rèn đức, luyện tài, góp phần xây dựng,
phát triển đất nước, gìn giữ và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống của
dân tộc, tiếp tục khẳng định vị thế của đất nước ta với bạn bè năm châu trên thế
giới, đúng như lời căn dặn của Bác: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp
được hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai các
cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần rất lớn ở công
học tập của các em”. Hơn bao giờ hết, trong thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế,
với những thời cơ, vận hội lớn, đan xen những thách thức không nhỏ, chúng ta
càng phải quan tâm đến nguồn lực con người, nhất là đối với thế hệ trẻ (học
sinh, sinh viên) – một nhân tố vô cùng quan trọng, bảo đảm đất nước phát triển
6


nhanh, bền vững. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng
và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam…bồi dưỡng các giá trị
văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối
sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” [1] .

Chính vì vậy, ngay khi cịn ngồi trên ghế nhà trường, các em cần được biết và
hiểu rõ nhiệm vụ của một công dân – học sinh đối với đất nước, dân tộc để rèn
đức, luyện tài, cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Một việc
làm không kém phần quan trọng là việc gìn giữ, phát huy những nét đẹp văn hóa
truyền thống của dân tộc, trong đó có thú chơi chữ ( thuộc lớp văn hóa giao lưu
với Trung Hoa và khu vực).
2.1.2. Thú chơi chữ - Bản chất và giá trị:
Nói tới thú chơi chữ là nói tới Thư pháp. Vậy thư pháp là gì? “Mỗi nét
ngang như mây bay, như bày trận; mỗi nét móc như cây cung giương lên có sức
mạnh phi thường; mỗi nét chấm như một tảng đá từ cao rơi xuống; mỗi nét lượn
như một cái móc đồng; mỗi nét sổ như một sợi khơ đàng vạn tuổi; một nét phẩy
như đơi chân phóng bay.” [1] Đó là một định nghĩa nổi tiếng của thánh thư
Vương Hy Chi (Trung Quốc) về nghệ thuật thư pháp.
Thư pháp là một môn nghệ thuật đặc thù của nền văn hố phương Đơng ở
các nước như: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Và đất nước Trung
Hoa chính là cội nguồn của thư pháp. Giống như một mạch ngầm, một dòng
chảy lặng lẽ tồn tại với thời gian nhưng thư pháp lại có vị trí đáng kể và hàm
chứa nhiều giá trị nhân bản, đạo đức xã hội trong thế giới nghệ thuật. “Với cách
viết bằng bút lông, hợp cùng màu đen bóng của mực xạ là gam màu chủ thể
tương phản mạnh với màu nền duy nhất của các loại giấy tạo nên một bức họa
nhẹ nhàng, thanh thốt với những đường nét khoẻ, mềm, thanh tao, phóng
khống... bố cục cân đối, tương phản dài, ngắn...” [1]
Cũng như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam cũng có sự tiếp biến giao thoa
văn hoá để vươn lên những giá trị mới của nhân loại trên nền tảng bản sắc độc
đáo của mình. Thư pháp chữ Hán đã được các thế hệ tri thức Việt Nam tiếp
nhận, khơi dòng truyền lại cho đến tận ngày nay. Chúng ta cũng có khơng ít
những nhà thư pháp lừng danh như : Trịnh Sâm, Cao Bá Quát, Phan Bội Châu...
và ngày nay là Lê Xuân Hoà, Nguyễn Văn Bách... Các bức họa của các nghệ
nhân với những đường nét sống động có hồn, là tinh hoa, là minh chứng cụ thể
cho sức sống mạnh mẽ của thư pháp. Ngày nay các nghệ nhân của Việt Nam

không chỉ thể hiện thư pháp bằng chữ Hán mà cả chữ Việt theo ký tự La Tinh –
thư pháp quốc ngữ. Đây là một sự sáng tạo kế thừa nhằm truyền tải những giá
trị văn hoá mang bản sắc dân tộc làm cho nhiều người ngạc nhiên và thu hút
được sự quan tâm của nhiều giới, hứa hẹn một nghệ thuật sáng tạo của thư pháp
Việt Nam.
Với những đặc sắc riêng: Đơn sơ trong từng nét chữ, mộc mạc trong từng ý
niệm, thâm thuý trong ý nghĩa nên thư pháp đã đi sâu vào đời sống tình cảm của
7


người Việt Nam từ bao đời nay như một món ăn tinh thần vô giá và không thể
thiếu trong mỗi dịp Tết đến, xuân về. Và cũng chính bởi thế mà từ cổ chí kim,
người Việt ta ln coi trọng "cái chữ", coi "hiền tài là nguyên khí quốc gia" và
ln trọng người có chữ để xây dựng và bảo vệ đất nước.
“Thư pháp là một lồi hình nghệ thuật độc đáo, hình tượng, bởi mỗi chữ viết
ra đều tốt lên cốt cách của nghệ nhân.” [1] Có thể nói, nghệ nhân đã truyền tâm
hồn mình vào chữ viết. Và trong đời sống, một trong những cách ông bà, cha mẹ
ta thường dùng để giáo dục con cháu là chọn cái chữ để răn, để dạy. Chỉ một chữ
thôi (chữ "Hiếu", chữ Tâm”... ) mà thay cho ngàn lời giáo huấn sâu xa, quả là
vừa nhẹ nhàng lại vừa thấm thía biết bao! Vì vậy, mỗi ký tự viết ra là một nét
bút mang đặc trưng khác nhau tuỳ theo vị trí và dụng ý của người viết, mục đích
của người sử dụng. Những câu thư pháp mừng xuân như “ phượng múa rồng
bay” làm lòng người xốn xang, rạo rực khơng chỉ xuất hiện trên giấy mà cịn
được chuyển trên mọi vật liệu như gỗ, giấy mành dệt...tỏ rõ những mong ước
cao đẹp về con người, cuộc sống,… là một minh chứng sống động:
Mai vàng nở rộ mừng tri kỷ
Đào hồng khoe sắc đón tri ân....
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng xã hội -Tâm lý:
Từ nghìn đời nay, nghệ thuật viết và thưởng thức nét đẹp của thư pháp đã

trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa rất đẹp của dân tộc ta, đặc biệt trở thành
thói quen mỗi khi hoa đào điểm sắc. Điều đó được nhà thơ Vũ Đình Liên khắc
họa rất sinh động trong bài thơ “Ơng đồ”:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, có một thời gian dài, do tác động của nền kinh
tế thị trường, của văn minh Tây học đã có một số người quay lưng lại, chà đạp
lên những giá trị văn hóa dân tộc, ngay cả thú chơi chữ - một thú chơi văn hóa
vốn rất cao quý, đẹp đẽ, hướng con người vào cõi tinh thần thanh cao cũng bị
lãng quên. Điều này cũng được nhà thơ Vũ Đình Liên khắc họa thật chi tiết:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...

8


Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?.
Thế nhưng, khi kinh tế - xã hội phát triển, đời sống của người dân ngày
một nâng cao thì nhu cầu thưởng thức những nét đẹp văn hóa truyền thống của
dân tộc lại được khơi dậy và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong những năm
gần đây, người dân và đặc biệt là các bạn trẻ đang quay trở lại với thú thưởng
ngoạn nghệ thuật viết chữ thư pháp. Khi Văn Miếu - Quốc Tử Giám mở cửa đón
du khách đến tham quan trong những ngày đầu xuân thì đã có hàng trăm bạn trẻ
sẵn sàng đợi từ sáng đến chiều tối, xếp hàng dài mong đến lượt để “xin” chữ.
Ngoài ra, mỗi khi Hà Nội và một số địa phương tổ chức triển lãm về thư pháp,
các bạn học sinh, thanh niên đến thưởng thức cũng rất đông. Tuy nhiên, hoạt
động này chưa phổ biến rộng khắp trên toàn quốc nên việc hiểu biết cụ thể về
nét đẹp văn hóa này đối với các bạn trẻ và học sinh vùng xa, vùng hẻo lánh cũng
mới chỉ là trên sách vở hoặc biết một cách lơ mơ mà thơi.
2.2.2. Thực trạng giáo viên:
Trước đây, trong q trình dự giờ đồng nghiệp khi dạy văn bản “Ơng đồ”,
tơi nhận thấy GV(giáo viên) đã khai thác được kiến thức một cách có hệ thống,
trọng tâm. Nhưng phần nhận biết của HS(học sinh) chủ yếu là do GV cung cấp
kiến thức chứ không phải là các em tự chiếm lĩnh, đặc biệt phần liên hệ ý thức
của bản thân HS để thể hiện tình u đối với nét đẹp văn hóa dân tộc qua văn
bản chưa cụ thể, chưa khơi dậy được ở các em lòng tự hào dân tộc và ý thức
trách nhiệm đối với việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa nước nhà.
2.2.3. Thực trạng học sinh:
Nhiều em chưa chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập nên kiến thức
tiếp thu được chỉ là học vẹt, học máy móc theo kiểu thầy dạy gì các em học vậy.
Hơn nữa, đối với HS Nga Hải thuộc vùng khó nên nhiều HS cịn sống trong tình
cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần, nhiều HS còn phải nặng lòng với bát
cơm manh áo hằng ngày nên việc để tâm cho học tập chưa nhiều. Địa bàn sinh
sống của các em xa với trung tâm văn hóa nên ít có điều kiện được tiếp xúc với
các hoạt động văn hóa đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật như đến tham

quan câu lạc bộ thư pháp để trực tiếp thưởng thức hoạt động viết chữ thư pháp
của các nghệ nhân hay thưởng thức nét chữ “rồng bay phượng múa” trên các
bức thư pháp. Vì vậy, việc nói đến thú chơi chữ qua bài học “Ông đồ” đối với
các em có thể nói là xa lạ chứ chưa nói đến việc các em thể hiện một hành động
nhỏ để thể hiện sự hiểu biết, phát huy giá trị của nét đẹp văn hóa dân tộc này.
9


Năm học 2016 - 2017, tôi được phân công giảng dạy mơn Ngữ văn 8.
Trước khi dạy văn bản “Ơng đồ”(Sau khi hướng dẫn xong tiết bài đọc thêm văn
bản Muốn làm thằng cuội, tơi liên hệ hồn cảnh lịch sử thời bấy giờ để dẫn dắt
HS tìm hiểu số phận của một nét đẹp văn hóa dân tộc - thú chơi chữ ở bài học
tiếp theo: Ơng đồ) tơi đã đưa ra câu hỏi để khảo sát mức độ hiểu biết về thú chơi
chữ ở HS với câu hỏi: “Em hiểu gì về thú chơi chữ? Em đã làm gì để thể hiện
ý thức gìn giữ, phát huy nét đẹp văn hóa này của dân tộc?” và kết quả đạt
được như sau:
Lớp

Sĩ số

1

8A

2

8B

STT


Tổng

Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu cầu

Số lượng

%

Số lượng

%

34

12

35.3

22

64.7

34

9

26.5


25

73.5

68

21

30.9

47

69.1

(Đạt yêu cầu tôi đặt ra là: HS chỉ cần nói được đây là một biểu hiện của nét
đẹp văn hóa dân tộc gắn liền với những chữ đẹp như “rồng múa phượng bay”
trên các bức mành, giấy, gỗ,…thường được treo ở trong chùa, ở gia đình trên
tường cao giữa nhà, hay trên cột nhà,…là những nơi trang trọng. Em rất thích
và trân trọng những bức chữ đó).
2.2.4. Thực trạng mơn học:
Chương trình Ngữ văn 8 đưa văn bản Ơng đồ vào dạy học ở tiết 65. Đây là
một thuận lợi để giúp HS biết được một nét đẹp văn hóa dân tộc - Thú chơi chữ được đề cập trong bài. Đặc biệt là những thăng trầm của lịch sử ảnh hưởng tới
“số phận” của thế hệ nhà nho cùng với thú chơi chữ. Từ đó khơi dậy ở học sinh
tình cảm đối với những nét đẹp văn hóa dân tộc nói chung, tình cảm với thú chơi
chữ nói riêng. Mặc dù được học trong một tiết bài trọn vẹn, song, với những
mong muốn như trên thì thời lượng 45 phút dành cho bài học cịn hạn chế. Vì
vậy, khả năng hiểu biết cũng như sự liên hệ việc làm của học sinh để thể hiện ý
thức giữ gìn, phát huy nét đẹp văn hóa dân tộc cịn mờ nhạt, thiếu cụ thể.
Từ thực trạng trên, để giúp HS nhìn nhận rõ vẻ đẹp của thú chơi chữ và qua
đó, bồi dưỡng cho HS tình u đối với nét đẹp văn hóa này, tơi đã mạnh dạn

nghiên cứu đề tài “Bồi dưỡng tình u nét đẹp văn hóa dân tộc-Thú chơi chữcho HS lớp 8 Trường THCS Nga Hải thơng qua dạy học văn bản Ơng đồ của
Vũ Đình Liên”. Do điều kiện về mặt thời gian của bài học cũng như đối tượng
HS nên tôi kết hợp giáo dục HS về tình yêu nét đẹp thú chơi chữ trong cả tiết
học chính và tiết bồi dưỡng văn với mong muốn HS hiểu được thú chơi chữ là
nghệ thuật viết chữ thư pháp - nghệ thuật viết chữ đẹp, là một nét đẹp của văn
10


hóa dân tộc; biết nhận diện chữ thư pháp trong thực tiễn (qua các bức câu đối,
bức chữ treo trong nhà hoặc ở chùa, nhà văn hóa, đình làng,…) qua đó các em tự
hào, u q, trân trọng, giữ gìn, phát huy nét đẹp văn hóa đó thơng qua các
biểu hiện cụ thể như: Biết nâng niu, giữ gìn, bảo quản các bức thư pháp; có ý
thức luyện chữ viết hằng ngày thật đẹp là những biểu hiện đáng quý, góp phần
làm phong phú thêm các hoạt động gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa dân tộc Thú chơi chữ.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề :
2.3.1. Giải pháp chung:
Để bồi dưỡng tình yêu nét đẹp văn hóa dân tộc cho học sinh, bản thân tôi đã
xác định rằng đây là việc làm không phải dễ dàng, nhanh chóng có thể đạt được
trong ngày một, ngày hai mà phải trải qua một quá trình theo kiểu mưa dầm
thấm lâu. Vì vậy tơi đã xây dựng, thực hiện các giải pháp như sau:
- GV phải tìm hiểu, nắm được các nét đẹp văn hóa dân tộc được gửi gắm qua
các tác phẩm văn học.
- Tìm hiểu kỹ bản chất của các nét đẹp văn hóa dân tộc, đặc biệt là thú chơi chữ
mà tôi sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu khi giảng dạy văn bản “ Ơng đồ” của Vũ
Đình Liên ( Ngữ văn 8)
- Khảo sát việc hiểu biết về nét đẹp văn hóa dân tộc và những biểu hiện cụ thể
của xã hội đối các nét đẹp ấy, đặc biệt là đối với nét đẹp Thú chơi chữ của bản
thân học sinh.
- Dự giờ đồng nghiệp khi dạy các bài đề cập đến nét đẹp văn hóa dân tộc như:
Ca Huế trên sông Hương, Một thứ quà của lúa non,…; trao đổi với đồng nghiệp

để dạy các bài học đồng dạng ( trong đó có “ Ơng đồ” của Vũ Đình Liên)
2.3.2. Giải pháp cụ thể:
a. Đối với bài dạy thực nghiệm “Ơng đồ”, trong dạy chính, tơi đã tiến
hành như sau:
* Chuẩn bị của GV:
- Cung cấp kiến thức khái quát về thú chơi chữ cho học sinh ngay sau khi HS
nhận diện các bức tranh chiếu về ông đồ và cơng việc đặc trưng của ơng đồ
(Ơng đồ có thể sử dụng thư pháp bằng chữ Hán và cả thư pháp quốc ngữ)

11


12


- Thiết kế giáo án, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp để HS chủ động chiếm
lĩnh kiến thức bài học, đồng thời khơi gợi cho HS nhận biết về thú chơi chữ và
bản chất của nó để các em liên hệ tới ý thức của bản thân đối với nét đẹp văn
hóa này.
- Sử dụng máy chiếu – Ti vi với các tranh ảnh về thư pháp, về hoạt động viết
chữ thư pháp của các nghệ nhân, hoạt động xin chữ của người thưởng thức, các
clip về không khí của các câu lạc bộ thư pháp,…( Chỉ chọn một số hình ảnh
minh họa vì thời gian có hạn)
- Thực hiện một số thể nghiệm để kiểm nghiệm tính hiệu quả của đề tài bằng
cách yêu cầu HS trả lời một số câu hỏi:
+ Sau khi kết thúc phân tích phần 1(Hình ảnh ơng đồ thời chữ Nho thịnh
hành), Gv đưa ra câu hỏi: Em hãy nhận xét về vị trí của ơng đồ cùng với thú
chơi chữ trong xã hội lúc bấy giờ?
+ Sau khi phân tích xong khổ thơ 3 và 4 thuộc phần 2(Hình ảnh ơng đồ khi chữ
Nho suy tàn), GV đưa ra câu hỏi: Vị trí của ơng đồ cùng với thú chơi chữ hiện

lên ở hai khổ thơ này có gì khác so với ở phần 1?
+ Cho HS thảo luận nhóm: (5 phút) sau khi dạy xong bài với câu hỏi đã thực
nghiệm lần 1: “Em hiểu gì về thú chơi chữ? Em đã làm gì để thể hiện ý thức
gìn giữ, phát huy nét đẹp văn hóa này của dân tộc?”
* Chuẩn bị của HS:
- Chuẩn bị bài chu đáo, trả lời tốt các câu hỏi phần “ Đọc – Hiểu văn bản”, tham
khảo các tài liệu viết về thư pháp.
- Sưu tầm tranh thư pháp.
- Ln ln phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc chuẩn bị bài cũng như
tiếp thu kiến thức, thực hành luyện tập dưới sự chỉ đạo của GV.
b. Đối với tiết học bồi dưỡng văn: (Thời gian ôn luyện bài học là 3 tiết).
Tôi đã tiến hành như sau:
* Chuẩn bị của GV:
- Cung cấp sâu hơn kiến thức về nghệ thuật thư pháp – thú chơi chữ cho HS
thơng qua hình ảnh (sử dụng máy chiếu) và thuyết minh của GV.
- Chuẩn bị giấy A4 .

- Cho HS ôn lại bài học với các câu hỏi sau:

13


1. Viết đoạn văn giới thiệu về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ơng đồ.
2. Nêu nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của văn bản.
3. Cảm thụ của em về bài thơ Ông đồ.
4. Bằng một đoạn văn, hãy nêu hiểu biết và tình cảm của em đối với nét đẹp
văn hóa dân tộc được gợi lên trong bài thơ Ông đồ.
Yêu cầu HS: + Câu 1, 2, 4: HS trình bày theo yêu cầu đề.
+ Câu 3: HS trình bày phần tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết một vài
đoạn văn theo yêu cầu của GV (Các em về nhà hoàn thiện bài văn->GV kiểm tra

sau).
Trong bài học ôn tập này, khi hướng dẫn đến câu 4, GV thực hiện các bước
sau:
Bước 1: GV chiếu một số clip về hoạt động của các câu lạc bộ thư pháp ở
Thành phố Hồ Chí minh, Sóc Trăng, Hà Nội, Hải Phịng và Thanh Hóa để HS
thấy được sự khôi phục, phát huy mạnh mẽ của thú chơi chữ - Nét đẹp văn hóa
dân tộc, giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn về ý nghĩa thiêng liêng của thư pháp,
về trách nhiệm của bản thân đối với hoạt động văn hóa chung của cả nước.

Các bạn trẻ xếp hàng đợi xin chữ đầu năm mới

Các bạn trẻ xin chữ mong muốn điều tốt
đẹp trong cuộc sống

Trong bước này, sau khi cho HS xem xong các clip, tôi đưa ra một số câu hỏi
đàm thoại nhanh để chuẩn bị tốt cho đoạn văn viết của các em:
Qua các clip vừa rồi, các em hiểu biết gì về vị trí của thư pháp trong đời
sống của người dân? Hoạt động xin chữ và cho chữ thường diễn ra vào thời
gian nào? Thái độ của người cho chữ và người xin chữ như thế nào? Các bức
thư pháp sẽ được treo ở đâu?
( HS có thể nêu những nội dung cơ bản sau:
Hoạt động thư pháp - Thú chơi chữ có vị trí đặc biệt trong đời sống nhân dân.
Điều này được thể hiện qua hình ảnh từng dịng người xếp hàng, chờ đợi để được
thưởng thức nghệ nhân viết chữ rồi xin cho mình những chữ tâm đắc. Đặc biệt sự
có mặt đơng đảo của các bạn trẻ ở đây đã thể hiện rõ sức sống lâu bền, mạnh mẽ
của thư pháp trong đời sống tinh thần của người Việt ta và sức lan tỏa lớn trong
đời sống tinh thần của giới trẻ ngay giữa xã hội hiện đại nhiều bề bộn, lo toan cho
cuộc sống.
Hoạt động xin chữ và cho chữ thường diễn ra sôi nổi nhất mỗi khi tết đến,
xuân về.


14


Người xin chữ vừa say mê dõi theo từng nét chữ của nghệ nhân, vừa chờ đợi để
nhận được chữ rồi cẩn trọng, nâng niu, gìn giữ. Cịn người cho chữ thì say sưa với
từng nét chữ như dồn tất cả cái trí và cái tâm vào chữ viết để đáp lại tình cảm của
người xin chữ, vừa như để thể hiện sự tiếp nối xứng đáng đối với tổ tiên thư pháp.
Các bức thư pháp được treo ở trên cột nhà, trên tường,…..ở những nơi trang
trọng của nhà ở, đình, chùa, nhà văn hóa, khu di tích,…với tất cả tình cảm thiêng
liêng và thái độ nâng niu, gìn giữ.
Bước 2: GV cho HS trải nghiệm thực tế bằng cách cho các em tập viết thư
pháp – Thư pháp quốc ngữ trên giấy A4.
(Trước khi HS thực hành, GV chiếu một số bức thư pháp và định hướng những
cách thực nghiệm – chọn chữ để giúp các em khỏi lúng túng).

Bước 3: Yêu cầu HS trình bày nội dung câu hỏi 4 vào bài thực hành viết thư
pháp của mình -> GV thu, nhận xét, cho điểm đánh giá.
(Yêu cầu đối với câu 4: HS nêu được các ý sau:
- Nói tới thú chơi chữ là nói đến hoạt động thư pháp.
15


- Viết chữ thư pháp là viết chữ đẹp - “ Phượng múa, rồng bay”.
- Đây là nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc và ngày nay đang được phát
huy mạnh mẽ ở khắp các tỉnh thành trong cả nước(dẫn chứng qua xem clip).
- Tình cảm tự hào, yêu quý, ý thức gìn giữ các bức thư pháp, đặc biệt là ý thức
thường xuyên luyện viết chữ đẹp cũng là biểu hiện đáng quý của người học
sinh đối với việc gìn giữ, phát huy nét đẹp văn hóa dân tộc - Thú chơi chữ.)
* Chuẩn bị của HS:

- Ôn tập tốt bài học “ Ông đồ”.
- Suy nghĩ sâu hơn về câu hỏi thực nghiệm đã làm.
- Đem theo các bức thư pháp ( Bằng giấy; khổ nhỏ, vừa, đem theo thuận lợi).
- Bút dạ đen( hoặc màu).
- Chuẩn bị tốt mọi yêu cầu của GV để ôn tập tốt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
2.4.1. Về phía giáo viên:
Trong q trình giảng dạy, với mong muốn đặt ra là giúp HS hiểu được nét
đẹp văn hóa dân tộc được gợi nhắc trong bài thơ Ông đồ để HS bổ sung vào kiến
thức “Bản sắc văn hóa Việt Nam trong tơi” với sự giàu có và phong phú đến vô
cùng, điều quan trọng hơn là khơi dậy trong các em tình yêu và ý thức trách
nhiệm đối với việc gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc - Thú chơi
chữ. Vì vậy, trong q trình giảng dạy, tơi đã từng bước vận dụng kiến thức phù
hợp, ở những phần nội dung học, ôn tập cụ thể khi dạy văn bản Ông đồ (Như đã
trình bày ở trên) và tơi nhận thấy nếu kết hợp hợp lý, khéo léo kiến thức để bồi
dưỡng tình yêu của các em đối với nét đẹp văn hóa dân tộc sẽ mang lại hiệu quả
tốt, đáng khích lệ trong phương pháp giảng dạy của GV và tạo hứng thú học tập
của học sinh. Và khi bồi dưỡng cho các em, giáo viên cũng thực sự được sống
trong thời đại của những nét đẹp văn hóa dân tộc được gợi nhắc trong các bài
học, được hiểu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về nghệ thuật chơi chữ thư pháp và
đặc biệt từ trong trái tim, niềm tự hào, yêu quý dân tộc với sự giàu có về thuyền
thống văn hóa càng thấm đẫm hơn bao giờ hết và muốn truyền tình yêu ấy tới
học sinh của mình với mong muốn các em sẽ luôn tự hào về dân tộc và có ý thức
gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó có thú
chơi chữ.
2.4.2. Về phía học sinh:
Qua cung cấp kiến thức kết hợp với việc dẫn dắt của giáo viên, đặc biệt là
qua các hình ảnh trực quan về nghệ thuật thư pháp, các em có được hiểu biết
nhất định và nhận diện được dễ dàng hơn về thú chơi chữ. Điều quan trọng hơn
là sự hứng thú học tập của các em và tình cảm các em dành cho nét đẹp văn hóa

dân tộc - Thú chơi chữ.
Đã có nhiều học sinh thể hiện sự hứng thú khi được trải nghiệm viết thư
pháp và tỏ rõ ý thức quyết tâm luyện viết chữ cho đẹp hơn như là một hành động

16


thiết thực của lớp học sinh hôm nay nhắn gửi tới tiên tổ rằng hồn dân tộc qua
nghệ thuật thư pháp sống mãi với thời gian, năm tháng.
2.4.3. Kết quả cụ thể:
Sau hai lần thực nghiệm (Trong bài học chính khóa và trong tiết bồi dưỡng
văn văn)ở hai lớp 8A, 8B với nội dung câu hỏi và yêu cầu cần đạt đã trình bày ở
trên thì kết quả đạt được như sau: (GV thu bài của HS để chấm)
STT

Lớp

Sĩ số

1

8A

2

8B
Tổng

Đạt yêu cầu


Chưa đạt yêu cầu

Số lượng

%

Số lượng

%

34

31

91.2

3

8.8

34

30

88.2

4

11.8


68

61

89.7

7

10.3

Qua kết quả trên, tôi thấy chất lượng bài học nâng lên đáng kể. Các em
không những nắm được nội dung bài học mà cịn hiểu rõ hơn về một nét đẹp văn
hóa dân tộc, đó là thú chơi chữ. Các em khơng chỉ hứng thú học tập mà còn tỏ ra
hăng hái, quyết tâm rèn luyện viết chữ cho đẹp hơn, đó là một biểu hiện đáng
quý, đáng phát huy của học sinh đối với nghệ thuật thư pháp của cha ông. Với
kết quả đạt được như trên, tôi hi vọng rằng dạy học văn với những bài học cụ thể
có thể kết hợp “Bồi dưỡng tình u nét đẹp văn hóa dân tộc” cho học sinh sẽ
được đồng nghiệp lưu tâm hơn và phù hợp với mục tiêu đào tạo con người trong
thời đại mới.

17


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Nói tới Việt Nam là nói tới một đất nước tươi đẹp, có một nền văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc. Mỗi người con đất Việt ln tự hào về điều đó. Vì vậy, để
bảo tồn, phát huy những giá trị đó, mỗi người Việt Nam phải có ý thức giữ gìn
và phát huy. Trong thời đại hội nhập thế giới, việc giữ gìn và phát huy nét đẹp
văn hóa dân tộc là một thách thức đối với mỗi con người và đặc biệt là thế hệ trẻ

với phương châm
“ hòa nhập nhưng khơng hịa tan”.
Nhiệm vụ của người giáo viên nói chung, giáo viên dạy văn nói riêng là
phải giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, ý thức giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc qua từng tiết dạy, từng tác phẩm văn học Việt Nam, nuôi dưỡng
tâm hồn thế hệ trẻ qua từng trang sách để các em tiếp nối sức sống bền bỉ, mãnh
liệt, đậm bản sắc của cốt cách và khí phách con người Việt Nam.
Với đề tài “Bồi dưỡng tình yêu nét đẹp văn hóa dân tộc-Thú chơi chữ- cho
HS lớp 8 Trường THCS Nga Hải thơng qua dạy học văn bản Ơng đồ của Vũ
Đình Liên” bản thân tơi thấy đã phần nào góp phần giúp học sinh nói chung, học
sinh trường THCS Nga Hải nói riêng thêm yêu những nét đẹp văn hóa dân tộc,
hiểu rõ giá trị của “Thú chơi chữ” qua tác phẩm “ Ơng đồ”. Từ đó mà các em có
ý thức nâng niu, giữ gìn những bức thư pháp khi các em gặp trong đời sống, đặc
biệt các em thể hiện tình yêu đối với thú chơi chữ qua một biểu hiện nhỏ là cố
gắng luyện viết chữ đẹp – một biểu hiện bình dị mà sâu sắc, thiêng liêng.
Tơi thiết nghĩ rằng với tình hình, điều kiện về cơ sở vật chất ở các nhà hiện
nay thì đề tài này không chỉ thực hiện được ở trường THCS Nga Hải mà có thể
áp dụng được cho các nhà trường trong dạy - học nhằm bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam.
3.2. Kiến nghị:
Qua thực tiễn dạy học với kết quả đạt được như đã trình bày ở trên, tơi mạnh dạn
đưa ra một số đề xuất sau:
- GV cần vận dụng phối kết hợp các cách thức dạy học cụ thể, linh động, sáng
tạo để giúp HS hứng thú học tập, khơi dậy ở các em lịng tự hào, tự tơn dân tộc
với những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mà nét đẹp văn hóa chơi

18


chữ thư pháp qua bài thơ “Ông đồ” của tác giả Vũ Đình Liên là một dẫn chứng

cụ thể.
- Nhà trường cần đầu tư thêm cơ sở vật chất như máy chiếu, đĩa hình liên quan
đến bài học để GV có thể sử dụng thường xuyên hơn vào bài học giúp học sinh
hứng thú hơn trong học tập cũng như đạt được như ý mục đích bài học đặt ra.
- Ngồi ra, nhà trường có thể tổ chức cho HS được trải nghiệm viết thư pháp
trong dịp kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam để các em bày tỏ tình yêu đối với
dân tộc qua một nét văn hóa cụ thể; bày tỏ lịng trân trọng, ngưỡng mộ, hồi cổ
đối với “những người mn năm cũ” cũng như lịng tri ân đối với “ những
người lái đò” của các em qua các chữ viết mang đầy ý nghĩa mà các em thể
hiện.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 25 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN

của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

Hồng Thị Hoàn

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Internet.
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn Trung
học cơ sở - Tập 2.
3. Sách giáo viên Ngữ văn 8 – Tập 2.

4. Một số kiến thức – kỹ năng và bài tập nâng cao Ngữ văn 8, Nguyễn
Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng, Nhà xuất bản Giáo dục – 2005.
5. Kiến thức cơ bản Ngữ văn 8, Lê Lương Tâm, Thái Thủy Vân, Nguyễn
Lan Thanh, Nhà xuất bản Đà Nẵng – 2004.
6. Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản Giáo dục –
1999 ( Trang 10, 38)

20


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO THANH HÓA
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hoàng Thị Hoàn
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Nga Hải

TT

1.

2.

Tên đề tài SKKN
Hoạt động nhóm trong
dạy học Văn ở mơn
Ngữ văn Trung học cơ
sở.
Rèn luyện kỹ năng viết

đoạn văn miêu tả cho
HS lớp 6.

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh,…)

Kết quả
đánh giá
Năm học đánh giá
xếp loại
hoặc xếp loại
(A, B
hoặc C)

Cấp Phòng

A

2007 - 2008

Cấp phòng

C

2009 - 2010

-----------------------------------------


21


GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM GIẢNG DẠY VĂN BẢN ÔNG ĐỒ
(NGỮ VĂN 8)
Ngữ văn: Tiết 65 - Văn bản:

ƠNG ĐỒ
(Vũ Đình Liên)

A. Mục tiêu cần đạt: Giúp HS.
- Biết đọc - hiểu một tác phẩm thơ lãng mạn để bổ sung thêm kiến thức về tác
giả, tác phẩm của phong trào thơ mới.
- Thấy được một số biểu hịên của sự đổi mới về thể loại, đề tài, ngôn ngữ, bút
pháp nghệ thuật lãng mạn. Hiểu được những xúc cảm của tác giả trong bài thơ.
1. Kiến thức: Sự đổi thay trong đời sống xã hội và sự tiếc nuối của nhà thơ đối
với những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc đang dần bị mai một. Lối viết
bình dị mà gợi cảm của tác giả trong bài thơ.
2. Kĩ năng: Nhận biết được tác phẩm thơ lãng mạn. Đọc diễn cảm tác phẩm.
Phân tích được những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm.
3. Thái độ: Biết trân trọng và có ý thức giữ gìn giá trị của một nét đẹp văn hóa
tinh thần của dân tộc.
B.Chuẩn bị:
1. GV: - Các kiến thức về nghệ thuật thư pháp, thú chơi chữ, hoàn cảnh xã hội
khi tác phẩm “Ông đồ” ra đời.
- Giáo án.
2. HS: Đọc kỹ bài thơ “Ông đồ” và trả lời các câu hỏi phần “ Đọc - Hiểu văn
bản”.
C. Tiến trình lên lớp:
1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số.

2. Kiểm tra bài cũ: GV kiểm tra sự chuẩn bị bài của HS.
3. Bài mới:
- Cho HS quan sát một số bức tranh, hình ảnh về ông đồ.

22


? Em có biết những bức tranh này thể hiện hình ảnh ai khơng?
(Về những ơng đồ xưa.)
? Ơng đồ là những người làm nghề gì?
(Đó là những ơng giáo dạy chữ Nho và viết chữ thuê).
Hình ảnh của các ông đồ ngày xưa gắn liền với một nét đẹp của văn hóa
dân tộc, đó là thú chơi chữ. Nhưng từ đầu thế kỷ XX, thú chơi văn hóa vốn rất
cao quý này bỗng trở nên lạc bước trong thời đại mới, bị cuộc đời bỏ quên và
cuối cùng là vắng bóng.Hiện thực ấy được phản ánh cụ thể ra sao chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu trong bài học hơm nay.
- GV chiếu tranh vẽ ông đồ với bài thơ của Vũ Đình Liên.

- GV giới thiệu về NT chơi chữ thư pháp cho HS.
23


Hoạt động của thầy và trị
- Em hiểu biết gì về tác giả Vũ Đình
Liên qua tìm hiểu chú thích * sgk/tr
9?
- HS trả lời -> Gv bổ sung thông tin
về tác giả.
- Giới thiệu với HS về hoàn cảnh
sáng tác bài thơ Ơng đồ.

? Em biết gì về vị trí của VB?
- GV hướng dẫn HS đọc-> đọc mẫu
và gọi HS đọc bài thơ.
- GV nhận xét cách đọc của HS.

Yêu cầu cần đạt
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Vũ Đình Liên, sinh ngày
12/11/1913, mất ngày 18/1/1996.
- Ơng làm thơ, nghiên cứu, dịch thuật và
giảng dạy văn học.
- Thơ ơng mang nặng lịng thương cảm
và nỗi niềm hồi cổ.
2. Văn bản :
a. Vị trí: Là bài thơ hay nhất của Vũ
Đình Liên và của phong trào Thơ mới –
giai đoạn đầu.
b. Đọc:
- Y/c:
+ Khổ 1: giọng nhẹ nhàng, bình thản.
+ Khổ 2: giọng đọc vui, thán phục.
+ Khổ 3,4: giọng chùng xuống, chậm
dần lại.
+ Khổ 5: đọc thật chậm, giọng buồn
thương, da diết.
c. Giải thích từ ngữ: 1, 2, 4, 5 và 6

- GV yêu cầu HS giải nghĩa một số từ
khó.
? Bài thơ được làm theo thể thơ gì?

d. Thể loại: Thơ ngũ ngơn (năm chữ)
? Hãy xác định bố cục của bài thơ?
- GV thống nhất bố cục bài thơ.

- Gọi HS đọc lại 2 khổ thơ đầu.
? Em có nhận xét gì về sự xuất hiện
của ông đồ ở hai khổ thơ đầu? Ông
xuất hiện để làm gì?
- GV Giới thiệu thêm cho HS về văn
hố Việt Nam ngày tết:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ.
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng
xanh.
? Thái độ, tình cảm của mọi người đối
với ơng đồ ra sao?
- GV chiếu hình ảnh mọi người

e. Bố cục:
- Khổ 1,2: Hình ảnh ơng đồ khi chữ Nho
thịnh hành.
- Khổ 3,4,5 Hình ảnh ơng đồ thời chữ
Nho suy tàn.
II. Phân tích văn bản:
1. Hình ảnh ông đồ thời chữ Nho
thịnh hành:
- Thời gian: Hoa đào nở.
- Hành động: bày mực tàu, giấy đỏ.
- Địa điểm: Bên phố đơng người.
-> Ơng bày mực tàu, giấy đỏ bên hè phố
đơng người qua lại, như góp mặt vào cái

đông vui, náo nhiệt của phố phường.
H/ả gần gũi, thân quen như không thể
thiếu trong mỗi dịp tết đến xuân về.
- Thái độ của mọi người:
+ Thuê viết…
+ Ngợi khen: tài, có hoa tay, chữ rồng
24


đang xin chữ của ơng đồ.

? Em có nhận xét gì về h/ả ơng đồ ở
hai khổ thơ đầu?

- HS suy nghĩ,trả lời.
- Lớp nhận xét ->GV khái quát, nhấn
mạnh vị trí quan trọng của ơng đồ
trong đời sống tinh thần của nhân
dân.

- Gọi HS đọc khổ 3, 4, 5 của bài thơ.
? Hình ảnh ơng đồ lúc này ra sao?
? Em nghĩ gì về hai câu:
“Giấy đỏ buồn khơng thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”

- HS trả lời->GV khái quát, bình thêm
về nghệ thuật diễn đạt cũng như biểu
hiện tâm trạng trong hai đoạn thơ.


? Hai câu thơ: “Lá vàng rơi trên
giấy;/ Ngồi giời mưa bụi bay.” có
phải là những câu thơ tả cảnh không?
- HS trả lời -> Lớp nhận xét -> Gv
thống nhất.

múa, phượng bay
-> Ai cũng tìm đến ông, yêu mến cái tài
viết chữ của ông à ông đã góp phần tạo
nên nét xuân trong ngày tết truyền
thống.
=> H/ả ơng đồ như hịa vào, góp vào cái
rộn ràng, tưng bừng sắc màu rực rỡ của
phố xá đang đón tết; mực tàu, giấy đỏ
của ơng hịa với màu đỏ của hoa đào nở;
sự có mặt của ơng đã thu hút bao người
xúm đến. Người ta khơng chỉ tìm đến
ơng vì cần th ơng viết chữ, mà cịn để
thưởng thức tài viết chữ đẹp của ông.
Mọi người tấm tắc ngợi khen tài ơng,
khen ơng có hoa tay, khen chữ ông như
phượng múa, rồng bay -> Ông trở thành
trung tâm của sự chú ý, là đối tượng
ngưỡng mộ của mọi người.
2. Hình ảnh ơng đồ khi chữ Nho suy
tàn:
- Xn về, ơng đồ xuất hiện nhưng
khơng cịn ai th viết, ngợi khen ->
vắng bóng.
- Hình ảnh nhân hố thể hiện hồn cảnh

cũng như tâm trạng của ơng đồ một cách
sâu sắc à nỗi sầu như lan ra cả những
vật vô tri vô giác. Tờ giấy đỏ cứ phơi ra
đấy mà chẳng được đụng đến trở thành
bẽ bàng, màu đỏ của nó trở thành vơ
dun, khơng thắm lên được; nghiên
mực cũng vậy, không hề được chiếc bút
lông chấm vào, nên mực như đọng lại
bao sầu tủi và trở thành nghiên sầu.
- Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình - bộc lộ
tâm trạng (tâm cảnh), nỗi lịng của ơng
đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của
bài thơ. Lá vàng gợi sự tàn tạ, buồn bã;
đây lại là lá vàng rơi trên những tờ giấy
dành viết câu đối của ông đồ. Vì ơng ế
khách, tờ giấy đỏ cứ phơi ra đấy hứng lá
vàng rơi và ơng cũng bỏ mặc. Ngồi
giời mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh
lẽo tới buốt giá -> đây chính là mưa
25


×