Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 9 kỹ năng lập dàn ý cho bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.74 KB, 18 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan
của con người trước cuộc đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, do kiểu tái hiện
đời sống và do sự giao tiếp nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những loại
tác phẩm văn học cũng khác nhau. Thơ trữ tình là một loại hình nghệ thuật đặc
biệt: nghệ thuật của cảm xúc.
Thơ trữ tình dùng để chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình, trong đó nhà
thơ bộc lộ một cách trực tiếp những cảm xúc riêng tư, cá thể về đời sống, thể hiện
tư tưởng về con người, cuộc đời và thời đại nói chung. Nội dung của thơ trữ tình là
biểu hiện tư tưởng, tình cảm làm sống dậy cái thế giới chủ thể của hiện thực khách
quan, giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư tâm trạng, nỗi niềm.
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình
về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy. Hay nói cách khác, nghị luận
thơ là cảm thụ được thế giới cảm xúc của nhân vật trữ tình, chạm được vào những
rung động sâu xa của tác giả được gửi gắm trong bài thơ qua nghệ thuật ngôn từ.
Trong bài nghị luận thơ, học sinh phải vận dụng tổng hợp rất nhiều kĩ năng: lập bố
cục, xây dựng luận điểm, tìm luận cứ; diễn đạt gợi cảm, cuốn hút…tất cả hoà
quyện trong một mạch văn tuôn chảy để làm sáng tỏ một vấn đề. Bởi vậy làm được
một bài văn nghị luận thơ đúng và hay quả thật rất khó. Đây chính là kiểu bài với
những yêu cầu cao nhất trong chương trình THCS. Để có thể làm được và làm tốt
một bài nghị luận thơ thì trước hết cần hiểu về đặc trưng thể loại, sau đó phải có sự
cảm hiểu thật sâu sắc tác phẩm tiến tới đồng sáng tạo với nhà thơ.
Cũng như các kiểu bài khác, để làm tốt bài văn nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ cần phải trải qua bốn bước: tìm hiểu đề, tìm ý; lập dàn ý; viết bài và sửa lỗi.
Trong bốn bước trên, bước nào cũng cần thiết song bước có tính quan trọng làm
khung nền cho bài làm là bước lập dàn bài.
Lập dàn ý cho một đề bài là khâu bắt buộc cần phải có trong quá trình giải
quyết một đề văn. Nếu làm một bài văn mà không lập dàn bài thì chẳng khác nào
chúng ta đi giữa đêm tối mà không có ngọn đuốc soi đường. Vì vậy, có thể nói đây
là công đoạn quyết định giá trị của một bài viết. Nhưng thực tế cho thấy, khi gặp


một đề bài cụ thể, các em cứ đọc đề xong là cầm bút viết ngay, ít khi quan tâm đến
việc lập dàn ý trước khi làm bài. Nếu có thì các em cũng chỉ làm qua loa cho xong
dẫn đến bài làm bị thiếu ý, các ý sắp xếp lộn xộn, chất lượng bài viết không tốt,
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập của các em. Vì vậy, sau nhiều năm trăn trở
và tìm lời giải cho khó khăn này, tôi đã rút ra một kinh nghiệm, đó là phải hướng
dẫn thật kĩ từng bước của quá trình làm bài. Do khuôn khổ của một Sáng kiến kinh
nghiệm, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm ở bước thứ hai: Hướng dẫn học sinh lớp 9 kĩ
năng lập dàn ý cho bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
II. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích giúp người dạy Văn tìm ra một con
đường gần nhất và hiệu quả nhất đến với kĩ năng viết bài của học trò. Đối với môn
Ngữ văn, học tập là để hướng đến năng lực cơ bản là nói và viết. Kĩ năng viết được
xem là sản phẩm quan trọng của người học văn. Đó chính là công cụ cho bất kì ai
1


thuộc bất kì lĩnh vực nào trên hành trình cuộc sống của mỗi người. Đề tài hướng
đến giúp học sinh xác định rõ cách thức tiến hành, nội dung cơ bản cần có trong
một bài văn nghị luận thơ. Vận dụng đề tài vào thực tiễn giúp học sinh tự tin trước
mỗi đề văn, giống như kim chỉ nam trước một con đường mà các em đang đi tới.
Học trò sẽ tự tin, chủ động hơn khi đã có câu trả lời cho câu hỏi: viết cái gì?
Dàn ý cũng giúp học sinh ôn luyện một cách dễ dàng trước mỗi kì thi, đảm
bảo hơn về chất lượng của bài làm.
Giải quyết một đề tài cũng là một quá trình không ngừng học hỏi, tìm tòi và
sáng tạo của người dạy. Trải qua thử nghiệm, thay đổi để cuối cùng vận dụng vào
thực tế dạy học có kết quả cũng là một cách tự học, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao
trình độ, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện của ngành giáo dục nói chung
và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn nói riêng.
III. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hướng đến rèn các kĩ năng lập dàn ý cho

một bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9.
Đề tài tập trung nghiên cứu ba nội dung:
- Hướng dẫn học sinh phân loại các dạng đề nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ;
- Hướng dẫn học sinh cách làm dàn ý chung của một bài nghị luận về một đoạn
thơ, bài thơ;
- Hướng dẫn học sinh vận dụng dàn ý chung đã biết vào việc lập dàn ý cho từng
dạng bài cụ thể.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp tôi đã sử dụng:
- Phương pháp quan sát khoa học: Là phương pháp quan sát đối tượng một cách có
hệ thống để thu thập thông tin. Có 2 cách quan sát khoa học là quan sát trực tiếp và
quan sát gián tiếp.
- Phương pháp điều tra: Là phương pháp mà giáo viên khảo sát đối tượng học sinh
trong nhà trường THCS Vân Du để phát hiện những đặc điểm, cách học, khả năng
làm bài.
- Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp giáo viên chủ động vào đối tượng
học sinh và quá trình diễn biến mà học sinh tham gia học để thực hiện theo mục
tiêu, dự kiến của mình.
- Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm: Là phương pháp nghiên cứu và
xem xét lại những thành quả thực tiễn để rút ra kết luận bổ ích cho thực tiễn.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Phương pháp giáo dục THCS là phải phát huy được tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối
tượng học sinh; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. Mục
tiêu dạy học Ngữ văn hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú
trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Một trong ba mục tiêu của môn Ngữ
2



văn là: “Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về
ngôn ngữ và văn học, phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào
tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Cụ thể hơn,
mục tiêu môn Ngữ văn trong thời đại mới là "biết để làm". Môn Ngữ văn không
chỉ là môn "bồi dưỡng tâm hồn" mà quan trọng hơn là môn "công cụ" để học sinh
có thể vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã học ứng dụng vào trong cuộc sống.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh ra văn bản (nói
và viết). Nhờ vậy, phân môn này đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng
bậc nhất của việc dạy và học.
Dạy phương pháp làm văn thực chất là luyện cho các em một số kĩ năng
tương ứng với các giai đoạn của quá trình xây dựng bài văn. Kĩ năng là khả năng
có thể hoàn thành một công việc nào đó để thu được một hiệu quả nhất định.
Bản chất của dạy học làm văn trong nhà trường là thực hành tổng hợp, hình
thành và nâng cao các kĩ năng viết văn. Trong quá trình đó, giáo viên phải giúp học
sinh rèn luyện các thao tác, biến các thao tác thực hiện các kĩ năng làm văn thành
kĩ xảo.
Dàn ý là một bản thiết kế cho việc triển khai bài văn, bao gồm những ý
chính, những luận điểm cơ bản cùng những luận cứ cần thiết. Lập dàn ý là phác
thảo ra một cái nhìn bao quát, tổng thể về bài văn trước khi tiến hành viết bài, tránh
xa đề, thiếu ý, lặp ý, thừa ý. Qua việc lập dàn ý, người viết có điều kiện suy nghĩ,
cân nhắc, lựa chọn, sắp xếp các ý, các phần sao cho đáp ứng được yêu cầu của đề
bài, tạo cơ sở vững chắc cho việc viết bài văn. Lập dàn ý còn giúp người viết xác
định được trọng tâm của đề bài, bao quát được nội dung chủ yếu của bài văn, đồng
thời có thể phân bố thời gian mội cách chủ động. Bởi vậy, Gớt-tơ nhà văn nổi tiếng
của Đức cho rằng: “ Tất cả đều phụ thuộc vào bố cục” còn Đô-tôi-ép-xki nhà văn
Nga lại mong muốn: “ Nếu tìm được một bản bố cục đạt thì công việc sẽ nhanh
như trượt trên mỡ”. Các ý kiến trên đã đề cao vai trò của dàn ý trước khi viết bài
văn.
Yêu cầu của một dàn ý là phải thể hiện được sự triển khai nội dung của văn

bản thích hợp với các yêu cầu nêu ra trong đề bài. Các ý lớn nhỏ phải được lựa
chọn, sắp xếp cho chặt chẽ, logic. Các bộ phận trong dàn ý phải cân đối, hài hoà,
trình bày đề cương phải sáng sủa, mạch lạc( dùng các ký hiệu).
Bởi vậy, lập dàn ý là thao tác tư duy rất quan trọng và bắt buộc nhằm định
hướng cho quá trình làm văn. Kĩ năng làm dàn bài cần cho tất cả những ai muốn
truyền đạt (nói và viết) trước người khác. Hướng dẫn học sinh biết cách làm dàn ý
trước mỗi đề bài là việc quan trọng góp phần nâng cao chất lượng bài làm.
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm.
1. Thực trạng
Thông thường khi viết một bài văn nói chung, bài nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ nói riêng công việc tiếp theo sau khâu tìm hiểu đề, tìm ý là khâu lập dàn ý.
Lập dàn ý có vai trò quan trọng trong quá trình hoàn thành một bài văn nhưng chưa
được giáo viên và học sinh coi trọng. Thực trạng này diễn ra ở số đông dẫn đến
chất lượng làm bài thấp. Vậy nguyên nhân của thực trạng do đâu?
3


1.1. Về phía người dạy:
Dạy Tập làm văn là phân môn khó nhất trong ba phân môn của bộ môn ngữ
văn. Tập làm văn được xem là kết quả của hai môn còn lại. Trong đó, kiểu bài nghị
luận về một đoạn thơ bài thơ lại được xem là kiểu bài khó, với yêu cầu cao nhất về
kiến thức và kĩ năng. Trong chương trình Ngữ văn 9, thời lượng cho việc tìm hiểu
kiểu bài, hướng dẫn làm bài chỉ có tổng 4 tiết (Tiết 124,125,139,140). Như vậy,
lượng thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thực hành về kiểu bài
là rất ít.
Tuy nhiên đây lại là kiểu bài chiếm đa số và thang điểm nhiều nhất trong các
kì thi lớn của lớp 9. Hơn nữa, lập dàn ý cho một bài nghị luận thơ cũng đòi hỏi
người dạy phải đầu tư suy nghĩ, bỏ nhiều công sức mới có thể làm được một dàn ý
(chính là đáp án) một cách đầy đủ, chính xác và đúng yêu cầu. Thực tế, một bộ
phận giáo viên chưa nhận thức hết được vai trò của việc lập dàn ý hoặc nhận thức

được song lại lệ thuộc quá nhiều vào tài liệu có sẵn hoặc tìm kiếm trên mạng mà
chưa tự mình lập dàn bài trước mỗi đề văn; vẫn còn giáo viên lười suy nghĩ, lười
sáng tạo đã khiến cho chất lượng dạy học không được nâng cao.
Trong ngân hàng đề học kì và đề học sinh giỏi mà đội ngũ giáo viên gửi lên,
Phòng Giáo dục vẫn có những đánh giá phản hồi, trong đó có những trường hợp có
nhiều đề giống hệt nhau. Chứng tỏ các đề này lấy cùng một nguồn và không phải
do giáo viên tự mình xây dựng đáp án (dàn ý) mà dùng lại dàn ý của người khác.
Đây là thực trạng đáng buồn khi một bộ phận giáo viên tỏ ra cẩu thả trong công tác
chuyên môn, sao chép y nguyên của người khác làm sản phẩm của mình mà không
tự mình giải quyết một đề văn. Thực tế, chỉ khi giáo viên thành thục về kĩ năng lập
dàn ý trước bất kì một đề văn nào thuộc chương trình cấp học mình đang dạy thì
lúc đó học sinh mới được hướng dẫn kĩ năng này một cách đầy đủ và bài bản.
1.2. Về phía người học:
Một thực tế là học sinh nhận được đề bài là bắt tay vào viết ngay mà không
quan tâm đến việc lập dàn ý, cho dù chỉ là một dàn ý đại cương. Điều này cũng có
thể chấp nhận được nếu học sinh đã thành thạo cách lập dàn ý các dạng đề, kiến
thức vững vàng, tư duy mạch lạc. Tuy nhiên, thực tế lại không mấy em đạt được
như vậy. Do một phần bởi sự khống chế về mặt thời gian nên các em quá vội vã mà
không dành ra khoảng 5 - 7 phút đề lập một dàn bài. Bởi vậy, học sinh cứ đặt bút là
viết ngay nên bài làm thường thiếu ý, các ý sắp xếp lộn xộn do các em nhớ đâu viết
đó, chưa làm rõ được yêu cầu của đề bài, hoặc xa rời đề bài. Thông thường, nhiều
em chỉ biết có một thao tác là phân tích bài thơ rồi vận dụng cho mọi đề. Vì vậy,
bài làm của các em thường xa đề, thậm chí lạc đề vì các em không biết cách giải
mã yêu cầu đề văn thông qua việc lập một dàn ý.
2. Kết quả của thực trạng.
Trong năm học 2013 -2014, Sau khi học xong 4 tiết về kiểu bài Nghị luận về
một bài thơ, đoạn thơ, tôi cho HS thực hiện 2 đề bài với hai mức độ khác nhau (dễ
và khó) và yêu cầu lập dàn ý cho hai kiểu bài đó (đề 1 và đề 6 sau đây). Kết quả
thu được như sau:


4


Mức độ
của đề Số
bài
HS
Dễ (HS
đại trà) 50
Khó (HS
giỏi)
11

Làm tốt

Biết
làm Thiếu nhiều ý Chưa
biết
nhưng
chưa hoặc xa đề, lạc làm
đầy đủ
đề
SL TL % SL
TL %
SL
TL %
SL
TL %
4


8,0

10

20,0

20

40,0

26

34,0

1

9,1

3

27,3

6

54,5

1

9,1


Nhìn vào bảng số liệu khảo sát ta thấy: Số học sinh làm tốt và làm khá dàn bài
còn ít ( chỉ khoảng 8,0 - 27,3 %). Trong khi đó số HS lạc đề, xa đề hoặc không xác
định được hướng làm bài rất lớn (chiếm 63,5 - 74,0 %). Như vậy, với 4 tiết học
chính khoá (124,125,139,140), trong đó có hai tiết luyện nói là khoảng thời gian
khiêm tốn, khó để hướng dẫn học sinh thành thục kiểu bài này. Vì vậy, để rèn tốt kĩ
năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ đòi hỏi giáo viên phải sắp xếp thời
gian để hướng dẫn, rèn kĩ năng cho học trò; tranh thủ thời gian của các giờ tự chọn,
các giờ ôn luyện, phụ đạo; lên phương án khoa học để cùng với học sinh khám phá,
giải quyết các dạng đề cơ bản một cách bài bản và đúng hướng.
III. Các giải pháp thực hiện để giải quyết vấn đề.
1. Phân loại dạng đề.
Sau đây là một số đề bài Tập làm văn đại diện cho một số dạng cơ bản trong
chương trình Ngữ văn 9:
Đề 1: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của đoạn thơ sau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Đồng chí – Chính Hữu; đề thi vào lớp 10 năm học 2015 - 2016)
Đề 2: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của đoạn thơ sau:
Bỗng nhận ra hương ổi

Vắt nửa mình sang thu.
(Sang Thu – Hữu Thỉnh; đề thi vào lớp 10 năm học 2015 - 2016)
Đề 3: Suy nghĩ về những điều người cha nói với con trong bài thơ “ Nói với con”
của nhà thơ Y Phương.
Đề 4. Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của
Phạm Tiến Duật.
Đề 5: “Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện
lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện thoáng
qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại.” (Hoài Thanh)

Bằng hiểu biết của em về bài thơ Ánh trăng, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

5


Đề 6: Bàn về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, có ý kiến cho rằng: “ Bài thơ biểu
hiện một triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều
có sức toả sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời”.
Bằng những hiểu biết của em về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, hãy làm
sáng tỏ nhận định trên.
Đề 7: Nhận xét về nét đặc sắc làm nên giá trị của bài thơ Sang thu (Hữu Thỉnh), có
người cho rằng “đó là sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ”; người khác thì khẳng
định “đó là cái đối ngẫu, hàm súc rất Đường thi”.
Qua bài thơ Sang thu, em hãy bàn về hai ý kiến trên.
(Đề thi HSG cấp tỉnh năm học 2015 - 2016)
Đề 8 : Bàn về văn học nghệ thuật, Nguyễn Đình Thi viết: “ Mỗi tác phẩm lớn như
rọi vào bên trong chúng ta một thứ ánh sáng riêng, không bao giờ nhoà đi.”
Từ cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận, hãy trình
bày suy nghĩ của em về vấn đề trên.
Đề 9 : Nhà văn Pháp Ana- tôn Prăng- xơ từng nói:
Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ tâm hồn con người.
Em hãy làm rõ sự gặp gỡ tâm hồn qua bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng
Việt.
Đề 10 : Sự khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai bài thơ Bếp lửa
của Bằng Việt và Nói với con của Y Phương.
Đề 11 : Hình tượng người lao động mới qua hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của
Nguyễn Thành Long và Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận.
...
Nhìn vào hệ thống đề đại diện trên đây, căn cứ vào yêu cầu đề bài, giáo viên
hướng dẫn học sinh chia thành các dạng đề cơ bản :

Dạng 1 : Nghị luận về một đoạn thơ: Đề 1, 2
Dạng 2 : Nghị luận cả bài thơ: Đề 3,4
Dạng 3 : Nghị luận về bài thơ thông qua một nhận định: Đề 5,6,7 (Trong đó đề 7
làm rõ đồng thời hai nhận định trong cùng một bài thơ).
Dạng 4 : Nghị luận về một vấn đề lí luận văn học qua tác phẩm thơ: Đề 8,9
Dạng 5 : Đề tổng hợp từ hai bài thơ trở lên: Đề 10,11
Trong các đề trên thì dạng 1,2 thường được vận dụng làm bài kiểm tra định
kì và thi vào lớp 10. Còn dạng 3,4,5 khó hơn thường vận dụng trong các kì thi học
sinh giỏi các cấp. Tuỳ từng giai đoạn trong năm học và từng đối tượng học sinh mà
người dạy cần cho học sinh nhận rõ dạng đề và luyện cách làm bài cho từng
dạng. Muốn thành thạo trong làm bài thì trước hết học sinh cần nắm chắc dàn ý của
bài nghị luận thơ nói chung và dàn ý cho từng dạng bài nói riêng.
Việc chia dạng đề trên đây chỉ mang tính tương đối. Đây là các dạng có tính
chất cơ bản, phổ biến. Thực tế kiểu bài nghị luận thơ khá đa dạng và phong phú.
Trong khuôn khổ chương trình với đối tượng học sinh lớp 9 thì chúng ta chỉ nên
hướng dẫn các dạng 1,2 (cho HS đại trà và thi vào 10), dạng 3,4,5 cho đội tuyển
học sinh giỏi. Mục đích của việc phân loại dạng đề nhằm hướng dẫn sát đối tượng
học sinh.Tránh trường hợp dạy tràn lan dẫn đến hiệu quả ngược.
2. Hướng dẫn các kĩ năng lập dàn ý chung về kiểu bài.
2.1. Nắm vững dàn ý chung và cụ thể hoá dàn ý.
6


Sách giáo khoa (tiết 125) đã hướng dẫn bố cục của một bài văn nghị luận thơ.
Tuy nhiên bố cục này còn khá khái quát. Cần cụ thể thành một dàn ý mang tính
định hướng để học sinh dễ dàng hơn trong cách làm bài. Sau đây là dàn bài chung
và dàn bài cụ thể hoá:
Phần Dàn ý chung
Dàn ý cụ thể
Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và - Giới thiệu tác giả, tác phẩm (vị trí

bước đầu nêu nhận xét đánh giá của đoạn thơ)
MB
của mình.(Nếu phân tích một đoạn - Khái quát vấn đề nghị luận (thường
thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ là nội dung cảm xúc của đoạn thơ,
ấy trong tác phẩm và khái quát nội bài thơ hoặc ý kiến ở đề bài)
dung cảm xúc của nó)
Lần lượt trình bày những suy nghĩ, - Luận điểm 1: Nội dung, tư tưởng
đánh giá về nội dung và nghệ thuật thứ nhất của bài thơ (đoạn thơ)
TB
của đoạn thơ, bài thơ.
+ Luận cứ 1(dẫn chứng và phân tích)
+ Luận cứ 2 (dẫn chứng và phân tích)
...
- Luận điểm 2: Nội dung, tư tưởng
thứ hai của bài thơ (đoạn thơ)
+ Luận cứ 1(dẫn chứng và phân tích)
+ Luận cứ 2 (dẫn chứng và phân tích)
- Luận điểm n
- Đánh giá, nâng cao:
+ Đánh giá nội dung, nghệ thuật
+ Nâng cao vấn đề
KB
Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn - Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn
thơ, bài thơ.
thơ, bài thơ.
- Suy nghĩ của người viết – liên hệ
2.2. Hướng dẫn học sinh cách làm từng phần trong dàn ý.
2.2.1. Hướng dẫn xây dựng ý phần Mở bài.
Phần Mở bài thường gồm 2 ý lớn, đó là:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm (vị trí của đoạn thơ).

- Khái quát vấn đề nghị luận và giới hạn phạm vi bài làm.
Ở ý thứ nhất, cần giới thiệu ngắn gọn, khái quát; chú ý đến phong cách nghệ
thuật, sự nghiệp sáng tác của nhà văn và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Ở ý thứ hai, cần xác định rõ vấn đề nghị luận là gì và phạm vi giải quyết vấn đề
ra sao:
Nếu đề là dạng đề ẩn tức là đề chưa lộ rõ luận điểm (đề 1,2,3,4...) thì học
sinh phải tự tìm vấn đề nghị luận. Vấn đề nghị luận dựa vào yêu cầu cụ thể của đề
bài, tuy nhiên cơ sở để xác định luận điểm cho dạng đề này chính là giá trị nội
dung của đoạn thơ, bài thơ.
Ví dụ: Ở đề 4, luận điểm chính là nội dung cảm xúc cơ bản của hai khổ thơ
đầu bài Sang thu: Những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước khoảnh khắc giao
mùa và những biến đổi của đất trời lúc cuối hạ sang thu.
7


Nếu đề là dạng đề nổi tức là luận điểm được nêu rõ thông qua một ý kiến,
nhận định ở đề bài (đề 5,6,7,8...) thì học sinh cần phải dẫn lại các ý kiến đó vào mở
bài.
2.2.2. Hướng dẫn xây dựng hệ thống luận điểm phần Thân bài:
* Dựa vào mạch cảm xúc, bố cục của bài thơ để xây dựng hệ thống luận điểm.
Bài văn rất khoát phải có ý rành mạch và phải có lớp lang. Một bài văn
không thể nói đạt yêu cầu nếu các ý được sắp xếp lộn xộn, tuỳ tiện. Vậy nên, xây
dựng hệ thống luận điểm là cách để học sinh tránh được lỗi này. Cách đơn giản
nhất là bám sát vào văn bản thơ, tiến hành chia đoạn và tìm ra ý chính (nội dung,
nghệ thuật )của mỗi đoạn.
Chẳng hạn, với bài thơ Đồng chí cần chia bố cục 3 phần như sau:
+ Phần 1: 7 dòng thơ đầu
+ Phần 2: Khổ thơ giữa
+ Phần 3: 3 dòng thơ cuối bài
Căn cứ bố cục, xác định ý chính mỗi đoạn, xây dựng các ý chính thành các

luận điểm chính.
+ Luận điểm 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí
+ Luận điểm 2: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội
+ Luận điểm 3: Bức tranh đẹp về tình đồng chí, biểu tượng đẹp về cuộc đời người
chiến sĩ
Từ luận điểm chính, tìm các luận cứ để làm sáng tỏ cho luận điểm (ý nhỏ hơn)
Ví dụ: Luận điểm 2 có các luận cứ sau:
+ Tình đồng chí trước hết là sự thấu hiểu và sẻ chia những tâm tư, nỗi lòng thầm
kín của nhau. (3 câu đầu đoạn)
+ Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sẻ chia những gian lao, thiếu thốn
của cuộc đời người chiến sĩ. (phân tích 4 câu tiếp theo).
+ Tình đồng chí là sự sẻ chia tình yêu thương ấm nồng (3 câu kết đoạn).
=>Khái quát lại luận điểm để mở ra luận điểm mới.
Như vậy, việc xây dựng dàn ý cơ bản cho bài nghị luận thơ còn phụ thuộc
vào tiết Đọc hiểu văn bản. Nội dung phần đọc hiểu được trình bày theo bố cục đầy
đủ và khoa học, nội dung rành mạch, rõ ràng, chắc chắn sẽ là cơ sở quan trọng giúp
các em thực hành tập làm văn nghị luận dễ dàng hơn.
* Dựa vào hình tượng thơ để xây dựng luận điểm.
Bên cạnh mạch cảm xúc là con đường dẫn tới luận điểm thì hình tượng nổi
bật trong bài thơ cũng là một đối tượng mà người đọc cần cảm nhận, khám phá. Tất
nhiên, việc xây dựng theo cách nào còn phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể ở đề bài.
Chẳng hạn trong tác phẩm “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” có hai hình
tượng là những chiếc xe không kính trong chiến tranh vẫn băng ra chiến trường và
những chiến sĩ lái xe. Hai hình tượng này có mối quan hệ bổ sung làm nổi bật
nhau. Khi nghị luận toàn bài thơ này, học sinh nên lựa chon cách xây dựng hệ
thống luận điểm theo hình tượng thơ sẽ phù hợp hơn tránh được việc lặp lại nội
dung như khi nghị luận theo bố cục.
Hình tượng người lính lái xe có các luận điểm chính:
- Vẻ đẹp của người lính lái xe trước hết là tư thế ung dung, hiên ngang và tâm hồn
lãng mạn, lạc quan, yêu đời. (Phân tích 2 câu thơ đầu và khổ thơ thứ 2).

8


- Một vẻ đẹp làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính
là tinh thần lạc quan sôi nổi, bất chấp gian khổ, hiểm nguy (Phân tích khổ 3,4).
- Bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, vẻ đẹp của người lính trở nên sâu sắc
hơn qua tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe Trường Sơn (Phân
tích khổ 5,6).
- Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí
quyết tâm giải phóng Miền Nam.
Thành thạo cách xây dựng luận điểm theo hai cách trên, học sinh có thể linh
hoạt vận dụng vào từng bài với từng đề cụ thể mà không bị lúng túng.
Với bài Bếp lửa: Đề về Vẻ đẹp tình bà cháu trong bài thơ thì ta nên xây
dựng luận điểm theo bố cục. Nhưng nếu là đề Hình ảnh người bà trong bài thơ thì
nên xây dựng luận điểm theo hình tượng (tức là lựa chọn hình ảnh theo chiều dọc
của bài).
*Căn cứ vào luận điểm cho sẵn ở đề bài để xây dựng hệ thống luận điểm.
Nếu đề bài là một nhận định, ý kiến thì việc xây dựng hệ thống luận điểm
vẫn trên cơ sở mạch cảm xúc và bố cục của bài thơ. Tuy nhiên, trước hết phải giải
thích vấn đề, sau đó chứng minh nhận định bằng các luận điểm thành phần. Các
luận điểm này phải xuất phát từ luận điểm đã cho ở đề bài. Nếu nhận định nhiều
hơn một ý thì mỗi một ý là một luận điểm.
Ví dụ ở đề 5: “Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những
chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện
thoáng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại.” (Hoài Thanh)
Bằng hiểu biết của em về bài thơ Ánh trăng, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Ngoài ý giải thích và đánh giá, Có 2 luận điểm lớn chính là hai ý trong nhận định:
Luận điểm 1: Đến với bài thơ Ánh trăng, chúng ta cảm nhận được dường như
Nguyễn Duy hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh
mình.

Luận điểm 2: Tuy nhiên, qua bài thơ, những điều ở người khác có thể chỉ là
chuyện thoáng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại.
* Giải thích và đánh giá, nâng cao trong bài nghị luận thơ.
Trong mọi đề, sau khi đã làm rõ vấn đề, chúng ta cần thêm ý đánh giá, nâng
cao trước khi kết bài.
Đánh giá là chúng ta khái quát lại những giá trị nổi bật về nội dung, nghệ
thuật của đoạn thơ, bài thơ.
Nâng cao là ta nâng vấn đề nghị luận lên tầm khái quát ( một lớp người, một
trào lưu, một giai đoạn, một tư tưởng...); hoặc có thể liên hệ về một hay vài bài thơ
cùng chủ đề, giai đoạn, tư tưởng...
2.2.3. Xây dựng ý cho phần Kết bài.
Phần kết bài có ý nghĩa tổng kết vấn đề nghị luận và mở ra một vấn đề mới.
Bởi vậy, phần kết thường có hai ý:
- Đáng giá khái quát vấn đề nghị luận: việc đánh giá phải có tính khái quát, nâng
cao và khẳng định vấn đề. Tránh lặp lại cách diễn đạt ở mở bài.
- Suy nghĩ của người viết: bày tỏ suy nghĩ về vấn đề hoặc liên hệ với thực tiễn.
3. Hướng dẫn học sinh cách lập dàn ý cho từng kiểu bài
9


Đề văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ thường khá đa dạng, phong phú.
Thời lượng để hướng dẫn cho học sinh tất cả các đề bài ứng với từng bài thơ trong
chương trình lớp 9 là bất khả thi. Hơn nữa cách làm này sẽ làm học sinh bị rối, khó
nắm bắt và thiếu khoa học. Vì vậy, tôi chọn giải pháp là hướng dẫn kĩ năng làm dàn
ý cho từng dạng đề và rèn cho các em thành thục các dạng đó để các em vận dụng
vào bất kì đề văn nào một cách đúng hướng.
3.1. Xây dựng dàn ý cho kiểu bài nghị luận một đoạn thơ.
Đối với dạng nghị luận về một đoạn thơ, điều lưu ý với học sinh là phải nắm
chắc các nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ và đặt trong mối quan hệ toàn bài.
Tránh trường hợp học sinh tách biệt và phân tích độc lập chỉ mình đoạn thơ nêu ở

đề bài thì bài viết sẽ không sâu sắc, không đảm bảo tính hệ thống và toàn vẹn của
bài. Hơn nữa, dù là chỉ nghị luận một đoạn thơ thi cũng nên truyền tải thông điệp
của cả thi phẩm mà tác giả muốn gửi đến bạn đọc. Điều khó ở dạng đề này là phải
xây dựng được hệ thống các ý lớn, ý nhỏ cho bài viết. Muốn làm được, học sinh
phải hiểu, cảm được cặn kẽ nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ; thiết lập ý và chia
các câu thơ làm dẫn chứng phù hợp với ý. Dạng đề này, nếu không hướng dẫn kĩ,
học sinh sẽ khó viết đủ ý, bài làm quá ngắn gọn, thậm chí cả phần thân bài chỉ có
một đoạn văn. Vậy nên, giáo viên nên quan tâm hướng dẫn thật kĩ phương pháp lập
dàn bài (vì đây còn là dạng đề phổ biến cho học sinh thi vào lớp 10).
Sau đây là dàn ý chung và dàn ý minh hoạ cho đề văn: Cảm nhận của em về
vẻ đẹp của đoạn thơ sau:
“ Mùa xuân người cầm súng
...
Cứ đi lên phía trước”.
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
Phần Dàn ý chung
Dàn ý minh hoạ
MB - Giới thiệu tác giả, tác - Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê
phẩm
ở Thừa Thiên – Huế. Ông là một trong những cây
- Giới thiệu vị trí của bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở
khổ thơ và nội dung Miền Nam từ những ngày đầu. Thơ ông bình dị,
chính của nó
đôn hậu, tình cảm chân thành, thiết tha.
- Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ra đời 1980 khi nhà
thơ đang nằm trên giường bệnh, không bao lâu
trước khi qua đời. Bài thơ thể hiện niềm yêu mến
thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện của
tác giả.
- Khổ thơ thứ hai và ba thể hiện niềm cảm xúc

thiết tha của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
- Giới thiệu khái quát -Giới thiệu mạch cảm xúc (tương ứng ý 1)
mạch cảm xúc toàn bài - Nêu luận điểm: Hai khổ thơ 2, 3 là cảm xúc
TB
(ý 1)
thiết tha của tác giả trước mùa xuân của đất
- Lần lượt trình bày các nước. (tương ứng ý 2)
giá trị nội dung và nghệ - Cụ thể thành các luận điểm nhỏ: (cụ thể ý 2)
thuật của khổ thơ, đoạn + Khổ thơ xuất hiện hai hình ảnh người cầm
10


thơ. (ý 2)
- Đánh giá lại nội dung
khổ thơ và liên hệ đến
mối quan hệ về nội
dung và nghệ thuật ở
đoạn sau.

KB

súng và người ra đồng là những con người cụ thể
tượng trưng cho hai nhiệm vụ cơ bản của đất
nước. -> Mùa xuân làm thức dậy lòng người,
rạng rỡ, hăng say cùng không khí sôi động của
đất nước.
+ Hình ảnh lộc non là hình ảnh sáng tạo giàu ý
nghĩa -> mùa xuân đang trải rộng khắp muôn nơi
hay chính những con người đang ngày đêm đang
hăng say lao động và bảo vệ tổ quốc đã mang về

mùa xuân cho đất nước.
+ Hoà cùng nhịp sống của mùa xuân đất nước,
các từ láy hối hả, xôn xao đã khắc hoạ tâm trạng
nôn nao, náo nức của con người.
+ Nhà thơ có những suy nghĩ về lịch sử dân tộc
bằng niềm tin tưởng, tự hào qua hình ảnh nhân
hoá “ Đất nước bốn nghìn năm/ Vất vả và gian
lao”
+ Tác giả đã khái quát được cả một thờ đại đang
đi lên của dân tộc bằng một hình ảnh so sánh đẹp
“ Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”
- Đánh giá, nâng cao: (ý 3)
+ Đánh giá:
* Nghệ thuật: thể thơ, giọng điệu, hình ảnh.
* Đoạn thơ đã tái hiện lại không khí của cả dân
tộc trong một thời kì dựng xây hối hả, khẩn
trương của dân tộc trong điều kiện đất nước còn
bao gian khó...
+ Nâng cao:
* Cảm nhận vẻ đẹp trong cảm xúc của nhà thơ.
* Đặt bài thơ trong cảm xúc toàn bài; hoàn cảnh
ra đời của bài thơ.
- Khái quát giá trị của - Khẳng định lại nội dung của đoạn thơ.
khổ thơ đặt trong mối - Suy nghĩ của người viết.
quan hệ toàn bài.
- Liên hệ.

3.2. Xây dựng dàn ý cho kiểu bài nghị luận cả bài thơ
Phương pháp lập dàn ý cho dạng bài này về cơ bản giống dạng trên. Tuy
nhiên hệ thống luận điểm được xây dựng dựa vào bố cục và mạch cảm xúc toàn

bài.
3.3. Xây dựng dàn ý cho kiểu đề làm rõ một nhận định hoặc đồng thời
làm rõ hai nhận định.
MB: - Dẫn dắt vấn đề, giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.
- Dẫn lại nhận định và khẳng định vấn đề nghị luận.
11


TB. Ý 1- Giải thích nhận định.
Ý 2- Xuất phát từ nhận định để xây dựng luận điểm trên cơ sở mạch cảm xúc
của toàn bài.
Ý 3- Đánh giá lại nhận định, mở rộng vấn đề.
KB: - Khẳng định lại vấn đề bàn bạc.
- Suy nghĩ của người viết.
Dạng đề nghị luận về tác phẩm thơ thông qua một nhận định thì trước hết
cần hướng dẫn cho học sinh nắm vững kĩ năng lập dàn ý cũng như kĩ năng làm bài.
Trước hết, người viết phải nắm vững hệ thống các ý cơ bản trong bài viết, sau đó
phải thành thạo kĩ năng giải quyết từng ý trong dàn bài.
Với ý 1- giải thích nhận định: Khi giải thích nhận định, chú ý các từ then
chốt. Đây thường là các từ ngữ có hình ảnh hoặc có nghĩa bóng bẩy. Cần giải thích
các từ ngữ này sau đó khái quát lên vấn đề được gửi gắm trong nhận định. Nếu
nhận định là các mệnh đề thi học sinh lần lượt giải thích từng mệnh đề để khái quát
lên vấn đề nghị luận. Nếu nhận định nói rõ luận điểm mà luận điểm lại chính là giá
trị nội dung của tác phẩm thì học sinh không phải giải thích.
Với ý thứ hai - xây dựng luận điểm: Hướng dẫn học sinh lấy ngay nhận
định làm luận điểm của bài. Thông thường các luận điểm này gắn với bố cục của
bài thơ. Như vậy, về cơ bản vẫn bám vào mạch cảm xúc của bài thơ song các lí lẽ
và dẫn chứng phải hướng vào luận điểm và làm rõ luận điểm. Khi xây dựng dàn ý,
cấn chú ý đến sự hoà quyện giữa luận điểm lớn (nhận định) với các luận điểm
thành phần, tránh chỉ nêu luận điểm xong đề đấy, phần lí lẽ và dẫn chứng chỉ đơn

thuần là phân tích bài thơ. Đây là điều cần tránh mà người dạy phải hướng dẫn các
em một cách tỉ mỉ, cụ thể, thông qua thực hành làm bài thì học sinh mới thật sự
thành thục khi giải quyết một đề văn dạng này.
Ở ý thứ 3 - Đánh giá lại nhận định, mở rộng vấn đề (Đánh giá, nâng cao):
Cần hướng dẫn học sinh sau khi phân tích bài thơ phải quay lại đánh giá tính đúng
đắn cũng như giá trị của nhận định. Nhiều học sinh thường bỏ quên ý này khiến
cho bài làm thiếu chặt chẽ, cụt ý, thiếu sâu sắc.
Ví dụ ở Đề 5:
Ý thứ nhất: cần giải thích Những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình là tất
cả những gì đang diễn ra, đang hiện hữu hàng ngày xung quanh cuộc sống con
người. Chuyện thoáng qua là những điều không mấy ai quan tâm, để ý; lắng sâu,
đọng lại chỉ sự thấm sâu, in đậm trong trí nhớ, trong tâm tưởng người đọc. Ý kiến
khẳng định: Nguyễn Duy thường hướng cảm xúc, suy nghĩ tới tất cả những gì đang
diễn ra xung quang cuộc sống của con người, kể cả những điều không mấy ai quan
tâm. Tuy nhiên, qua thơ ông, những cái tưởng như thoáng qua ấy lại trở thành
những điều sâu sắc, in đậm trong tâm tưởng người đọc buộc ta phải trăn trở, suy
ngẫm.
Ý thứ 2: chứng minh nhận định: (đã trình bày ở phần 2.2.2).
Ý thứ 3: Đánh giá, nâng cao: việc đánh giá vẫn phải xuất phát từ giá trị của
bài thơ ( nội dung và nghệ thuật). Song luôn gắn chặt dưới quan điểm của nhận
đinh. Sau đây là một vài ý định hướng:

12


- Những điều giản dị mà sâu sắc ấy được Nguyễn Duy thể hiện qua một bài thơ 5
chữ với giọng điệu tâm tình như một câu chuyện nhỏ; sự sáng tạo hình ảnh vầng
trăng mang nhiều tầng ý nghĩa...
- Điều suy ngẫm và đọng lại ở bài thơ Ánh trăng là lời tự nhắc nhở của nhà thơ về
những năm tháng gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu, ân tình; gợi

nhắc, củng cố người đọc thái độ sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thuỷ chung
cùng quá khứ.
- Ý kiến của Hoài Thanh thể hiện năng lực tìm tòi, khám phá của một cây bút phê
bình văn học bậc thầy. Đây cũng được coi như một định hướng giúp ta hiểu:
những cái tưởng như thoáng qua hàng ngày nếu suy ngẫm nó sẽ đọng lại thành
những điều lắng sâu, ý nghĩa...
Nếu đề bài đồng thời yêu cầu làm rõ hai nhận định thì bố cục như trên, tuy
nhiên sau khi giải thích cả hai nhận định thì lấy mỗi nhận định làm một luận điểm
chính cho bài văn.
Thông thường, mỗi nhận đinh thường hướng đến một khía cạnh của văn bản
(nội dung và nghệ thuật). Nên hai nhận định không trái ngược hay đối lập nhau mà
thể hiện hai cách nhìn ở hai phương diện khác nhau của cùng một bài thơ nên
chúng bổ sung cho nhau, gắn bó mật thiết với nhau. Khi làm bài học sinh nhất
thiết phải đánh giá được điều này vào phần đánh giá nâng cao của bài làm.
Chẳng hạn với đề văn: Nhận xét về nét đặc sắc làm nên giá trị của bài thơ
Sang thu (Hữu Thỉnh), có người cho rằng “đó là sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ”;
người khác thì khẳng định “đó là cái đối ngẫu, hàm súc rất Đường thi”.
Qua bài thơ Sang thu, em hãy bàn về hai ý kiến trên.(Đề thi HSG cấp tỉnh,
năm học 2015 -2016).
Ngoài việc giải thích từng ý kiến, thì đến phần chứng minh, mỗi ý kiến trên
sẽ là một luận điểm lớn của bài làm. Sau đó phải đánh giá mỗi quan hệ, sự gắn bó
của hai ý kiến và giá trị đồng thời của chúng làm nên sức sống cho bài thơ.
3.4. Xây dựng dàn ý cho kiểu đề nghị luận về nghệ thuật của bài thơ
Phải phát hiện và phân tích tất cả các yếu tố nghệ thuật tiêu biểu. Khi đọc thơ,
bao giờ cũng có những tín hiệu nghệ thuật tập trung cao nhất chất lượng thẩm mĩ
hiện ra trên văn bản thơ, mách bảo người thưởng thức tìm hiểu, khám phá.
Sau đó phải tìm hiểu xem vẻ đẹp nghệ thuật ấy thể hiện tập trung nhất ở trong
những yếu tố nào như hình ảnh thơ, nhạc điệu trong câu thơ, trong từ khoá, từ đắt
(con mắt thơ); trong cấu trúc, đoạn; trong các phương tiện chuyển nghĩa như ẩn dụ,
hoán dụ, nhân hoá...

Điều cuối cùng và quan trọng nhất là cần làm rõ các yếu tố nghệ thuật ấy lầm
rõ cho nội dung tư tưởng nào mà tác giả muốn gửi gắm. Nếu tách rời phương diện
nội dung thì sự phân tích nghệ thuật trở nên vô nghĩa.
3.5. Xây dựng dàn ý cho kiểu bài nghị luận thơ xuất phát từ một vấn đề
lí luận văn học.
Dàn ý chung cho kiểu bài này như sau:
MB: - Dẫn dắt từ vấn đề lí luận văn học
- Trích dẫn ý kiến
- Giới thiệu tác phẩm cần chứng minh và phạm vi bài làm
TB: Ý 1. Giải thích ý kiến
13


Ý 2. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Ý 3. Chứng minh, làm rõ vấn đề lí luận thông qua việc phân tích tác phẩm
Ý 4. Đánh giá, nâng cao.
KB: - Khẳng định lại vấn đề
- Suy nghĩ bản thân.
Đây là dạng đề khó, thông thường chỉ học sinh đội tuyển mới tiếp cận và giải
quyết các dạng đề này. Nhiều giáo viên khi dạy học sinh mũi nhọn thường rất ngại
dạy dạng để này hoặc dạy nhưng vẫn còn lúng túng nên chưa hình thành cho các
em một kĩ năng thành thục để làm bài. Xây dựng dàn ý cho kiểu bài này cần hướng
dẫn các em từng bước một.
Đối với phần Mở bài, không nên áp dụng máy móc như các dạng đề khác là
giới thiệu tác giả, tác phẩm mà phải dẫn dắt từ một vấn đề lí luận liên quan. Bởi lẽ,
nhận định về một vấn đề lí luận thường có tính đánh giá một đặc tính, một bản chất
của văn học cho nên nó có thể áp dụng cho mọi tác phẩm cùng thể loại. Nếu dẫn
dắt về tác giả, tác phẩm (phạm vi hẹp) sang vấn đề lí luận cần bàn (phạm vi rộng
hơn) thì bài làm sẽ khập khiễng, khó thuyết phục người đọc. Sau khi dẫn dắt từ vấn
đề nghị luận liên quan, cần trích dẫn nguyên văn ý kiến và giới thiệu tên tác phẩm

cần chứng minh.
Ở phần Thân bài:
Ý 1: Giải thích ý kiến: Giải thích một vấn đề lí luận đối với học sinh THCS là
một thao tác khó, nhất là học sinh không được học bất kì một bài lí luận văn học
nào ở trong chương trình. Tuy nhiên, việc giải quyết được vấn đề nêu ở đề bài vẫn
là nhiệm vụ của người làm bài (nhất là học sinh đội tuyển học sinh giỏi). Nhiệm vụ
của người giáo viên đứng đội tuyển là dạy cho các em những kiến thức lí luận cơ
bản nhất về đặc điểm thơ trữ tình như: Tính trữ tình; nội dung phản ánh trong thơ
trữ tình; đặc điểm của ngôn ngữ thơ trữ tình...
Ý 2: Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Thông thường với đề bài lí luận văn học,
phần tác giả, tác phẩm được giới thiệu sau phần giải thích để kết nối với phần
chứng minh tính đúng đắn của vấn đề thông qua bài thơ. Đây là điểm khác với các
dạng đề còn lại.
Ý 3: Chứng minh, làm rõ vấn đề lí luận thông qua việc phân tích tác phẩm
thơ. Trên cơ sở bố cục, mạch cảm xúc của bài thơ, học sinh xây dựng hệ thống luận
điểm gắn chặt với vấn đề lí luận nêu ở đề bài. Tránh trường hợp, sau khi giải thích,
học sinh tập trung phân tích bài thơ mà xa rời luận điểm (vấn đề lí luận). Vấn đề
nghị luận phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài văn. Nội dung, nghệ thuật bài thơ chỉ
đóng vài trò là dẫn chứng làm sáng rõ vấn đề đó. Nói cách khác, người viết không
nhất thiết phân tích toàn bộ mọi vấn đề có ở tác phẩm thơ mà cần lựa chọn những
nội dung tiêu biểu phục vụ làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
Ý 4: Việc đánh giá, nâng cao cũng bám sát vấn đề lí luận và giá trị của bài
thơ.
Chẳng hạn, với đề văn: Nhà văn Pháp Ana- tôn Prăng- xơ từng nói:
Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ tâm hồn con người.
Em hãy làm rõ sự gặp gỡ tâm hồn qua bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt.
Hướng dẫn học sinh lập dàn ý như sau :
MB: - Dẫn dắt vấn đề, trích dẫn ý kiến
14



- Giới thiệu bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
TB:
Ý 1: Giải thích:
- Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, là nơi nhà văn gửi
gắm những tình cảm sâu sắc nhất, những cảm xúc chân thành nhất, những khát
vọng mãnh liệt nhất về con người và cuộc sống. Nói đến thơ trữ tình là nói đến thế
giới của tình cảm, cảm xúc. Chỉ khi thực sự thăng hoa, cảm xúc đang chất chứa
trong lòng thì người nghệ sĩ mới sáng tạo thành thơ.
- Sự gặp gỡ tâm hồn con người là sự gặp gỡ của độc giả với thế giới nội tâm của
nhân vật trữ tình thông qua tác phẩm thơ. Thế giới tâm hồn có thể là niềm vui, nỗi
buồn, sự trăn trở, niềm yêu thích… trước một vấn đề nào đó của cuộc sống xã hội;
tâm hồn trong thơ có thể là thế giới nội tâm của chính tác giả được bộc lộ thầm kín
qua lăng kính ngôn từ…
- Thế giới tâm hồn mà bạn đọc gặp gỡ dường như không được bộc lộ một cách
trực tiếp, giản đơn mà thông qua các hình thức nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm.
Đó là hệ thống hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu, các biện pháp nghệ thuật tiêu biểu…
- Bạn đọc phải đặt mình vào nhà thơ để rung lên những cảm xúc đồng điệu thì mới
có thể gặp gỡ được tâm hồn vô cùng tinh tế mà thi sĩ gửi gắm trong tác phẩm của
mình.
=> Đánh giá của nhà văn Pháp Ana- tôn Prăng- xơ hướng bạn đọc đến thế giới
cảm xúc của tác giả và sự đồng điệu trong tâm hồn giữa nhà thơ và bạn đọc.
Ý 2: Chứng minh qua bài thơ “Bếp lửa”
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Đến với bài thơ Bếp lửa là ta gặp gỡ nỗi lòng của người cháu xa quê nhớ về
người bà kính yêu.
- Nỗi lòng của nhà thơ là sự hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà, bên
bếp lửa.
- Từ hồi ức kỉ niệm mà người cháu đã có những suy ngẫm và liên tưởng về cuộc
đời bà về bếp lửa, ngọn lửa.

-Thế giới tâm hồn của nhà thơ được bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ bà, nhớ quê hương
da diết, khôn nguôi.
Ý 3: Đánh giá, nâng cao
+ Đọc bài thơ Bếp lửa ta đã gặp gỡ được nỗi lòng của người cháu xa quê đang
hướng cả tình yêu, nỗi nhớ về người bà kính yêu với tất cả niềm biết ơn, trân trọng.
+ Từ tình cảm của nhân vật trữ tình, bài thơ biểu hiện một triết lí thầm kín mà sâu
sắc : những gì thân thiết nhất của tuổi ấu thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng
bước chúng ta trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình cảm yêu quý và
biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình cảm gia đình, quê hương đất nước.
+ Nhận xét của nhà văn Pháp Ana- tôn Prăng- xơ đã định hướng cho chúng ta con
đường tiếp nhận, cảm thụ những tác phẩm thơ trữ tình.
KB : - Khẳng định lại vấn đề nghị luận
- Suy nghĩ của người viết
3. 6. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho dạng đề tổng hợp.
Đây là dạng đề yêu cầu nghị luận một vấn đề ở cả 2 hoặc nhiều hơn hai bải thơ.
Vấn đề nghị luận được thực hiện tuỳ thuộc vào dạng nào trong các dạng đã phân
15


tích ở trên. Tuy nhiên, điểm khác là mở bài cần phải giới thiệu tên của cả hai bài
thơ và tác giả của chúng chứ không cần giới thiệu cụ thể như các dạng đề khác.
Phần thân bài cần triển khai theo hướng :
Ý 1: Phân tích điểm tương đồng.
Ý 2: Phân tích điểm khác biệt.
Ý 3: Lí giải nguyên nhân của sự tương đồng hay khác biệt ấy.
(Riêng ý 1 và 2 có thể đổi thứ tự cho nhau)
Ví dụ với đề bài : Nét đẹp ân tình, thủy chung của con người Việt Nam qua
hai bài thơ Bếp lửa (Bằng Việt) và Ánh trăng (Nguyễn Duy).
Dàn ý đại cương sẽ là:
MB: Giới thiệu vấn đề bàn luận truyền thống ân tình, chung thủy của con người

Việt Nam và hai tác phẩm Bếp lửa và Ánh trăng
TB: Ý 1: Giới thiệu chung về truyền thống ân tình thủy chung của người Việt
Nam.
Ý 2: Sự gặp gỡ của vẻ đẹp truyền thống ân tình, thuỷ chung thể hiện
trong hai thi phẩm.
- Coi trọng quá khứ, kỉ niệm : đó là những tình cảm nghĩa tình, quý giá giúp con
người vượt qua những khó khăn của cuộc sống (phân tích qua 2 tác phẩm).
- Hai tác phẩm đều được viết bởi thực tại hồi tưởng về quá khứ để từ đó suy ngẫm
về những giá trị thiêng liêng của tình người.
- Từ những cảm xúc, hoàn cảnh khác nhau, hai bài thơ đều đề cập đến một giá trị
sống, một đạo lý trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó là : ân tình, chung
thủy của con người.
Ý 3: Nét đẹp của truyền thống ân tình, thủy chung trong từng bài thơ.
- Trong bài thơ Bếp lửa, truyền thống ân tình, thủy chung được thể hiện trong tấm
lòng của người cháu yêu thương và nhớ ơn bà khi đã khôn lớn trưởng thành.
- Trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, truyền thống ân tình, thủy chung được
thể hiện qua tâm tình người chiến sĩ bước ra từ chiến tranh trở về với cuộc sống
hoà bình.
- Những sáng tạo về nghệ thuật thể hiện ở mỗi bài.
Ý 4: Đánh giá, nâng cao.
- Đánh giá về điểm tương đồng và lí do khác biệt trong hai bài thơ.
- Đánh giá về giá trị của hai bài thơ trong việc thể hiện một truyền thống tốt đẹp
của dân tộc.
KB: - Khái quát vấn đề nghị luận.
- Liên hệ, suy ngẫm.
IV. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm.
Sau hai năm nghiên cứu và vận dụng đề tài vào trong thực tiễn giảng dạy, tôi
thấy hiệu quả của đề tài đã thể hiện rõ rệt. Học sinh lớp 9 đã chủ động trước một đề
bài nghị luận thơ. Tuỳ vào khả năng diễn đạt và cảm thụ ở những mức độ khác
nhau, nhưng các bài làm của các em đều có chung một ưu điểm là đủ ý, làm đúng

yêu cầu đề bài. Như vậy, học sinh đã đạt đến yêu cầu làm đúng. Đây chính là nền
tảng, là cơ sở để người thầy tiếp tục hướng đến hướng dẫn các em những kĩ năng
để làm một bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ có chất lượng.
16


Sau những suy nghĩ, tìm tòi để tạo một cách đi phù hợp đến con đường tiếp
cận gần hơn với tác phẩm trữ tình, bản thân tôi cũng rút ra cho mình nhiều kinh
nghiệm cũng như bài học quý. Tôi đã nhận ra những khó khăn, lúng túng mà học
sinh gặp phải khi viết bài. Nắm bắt được những điều các em cần để kịp thời thay
đổi nội dung và phương pháp giảng dạy. Trong quá trình cùng học tập với học sinh,
tôi cũng đã tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho mình.
Khảo sát chất lượng học sinh lớp 9 Trường THCS Vân Du năm học 2015 2016 khi làm dàn ý cho bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, kết quả như sau :
Mức độ Số Làm tốt
của đề HS
bài
SL TL %
Dễ(HS
đại trà) 58 30 51,8

Biết làm nhưng Thiếu nhiều ý Chưa biết
chưa đầy đủ
(hoặc xa đề, lạc làm
đề)
SL
TL %
SL
TL % SL TL %
20


34,5

6

10,3

2

3,4

Khó(HS 10
giỏi)

2

20

0

0

0

0

8

80

Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta thấy số học sinh làm được và làm tốt

phần dàn ý đã tăng lên rõ rệt. Từ việc làm được dàn ý học sinh đã có cơ sở để làm
tốt kiểu bài này. Kết quả hai năm vận dụng đề tài khá khả quan:
- Năm học 2014 - 2015, điểm bình quân thi vào lớp 10 của toàn khối 9, Trường
THCS Vân Du do tôi phụ trách đạt 7,2 điểm (Cao nhất trong toàn huyện Thạch
Thành).
- Cũng trong năm học này, kết quả thi HSG cấp huyện đạt 6/6 giải (1 giải Nhì, 3
giải Ba, 2 giải KK); thi HSG cấp tỉnh đạt 3 giải (1 giải Nhì, 2 giải Ba)
- Năm học 2014-2015 và 2015 - 2016, để tài này cũng được tôi áp dụng vào hướng
dẫn đội tuyển học sinh giỏi tham gia thi cấp tỉnh của huyện, bước đầu cũng thu
được kết quả khả quan ( Năm học 2014 - 2015 đạt 7 giải, Năm 2015 - 2016 đạt 6
giải, riêng Trường THCS Vân Du đạt 02 giải: một giải Ba, một giải KK).
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Dạy học là một quá trình công phu và đòi hỏi sự tận tâm, nhiệt tình của của
người thầy. Đổi mới giáo dục dù theo theo cách nào thì sản phảm của nghề dạy học
vẫn là con người với các năng lực cơ bản cần phải có. Năng lực viết làm một năng
lực quan trọng, nó là sự tổng hợp của nhiều năng lực như sự nhanh nhạy, óc phán
đoán, khả năng tư duy, giải quyết vấn đề, rung cảm thẩm mĩ...Có được sự hoàn
chỉnh của năng lực viết đòi hỏi một quá trình lâu dài, công phu, kiên trì. Thao tác
lập dàn ý cho một đề văn là một trong những mắt xích quan trọng của sự hoàn
chỉnh đó. Có được kĩ năng thành thục ở khâu này đòi hỏi cả người dạy và người
học không ngừng học hỏi, vận dụng thực hành, rút kinh nghiệm... để mỗi thao tác
trong quy trình sản sinh văn bản đều thành thục. Chỉ khi vững chắc về kĩ năng làm
bài thì sự thăng hoa trong cảm xúc mới thật sự đạt đến sự hoàn thiện.
17


Lập dàn ý cũng chính là việc làm đáp án cho một đề văn. Ra đề và làm được
đáp án cho một đề bất kì có chất lượng là một công việc cực kì khó khăn, đòi hỏi
kinh nghiệm, kiến thức và sự khổ luyện của người giáo viên. Không có sự thành

công nào đến một cách dễ dàng. Sản phẩm của người thầy chính là kết quả học tập
của học sinh. Có được kết quả tốt cần phải coi trọng cả quá trình dạy học, công
phu, kiên nhẫn, từng bước một. Chắc chắn sự tận tâm của người thầy là chìa khoá
trao cho các em mở cánh cửa tương lại. Đối với những người dạy văn, học trò viết
được những bài văn đúng và cao hơn là những bài văn hay là phần thưởng vô giá
của mỗi người giáo viên trong sự nghiệp trồng người.
2. Kiến nghị :
Về phía Sở giáo dục và Phòng giáo dục: Nên có những đợt tập huấn về
phương pháp, kinh nghiệm dạy Tập làm văn; chúng tôi mong được chia sẻ kinh
nghiệm và học tập nhiều hơn nữa từ các đồng chí có năng lực giỏi, có bề dày thành
tích và kinh nghiệm.
Về phía Nhà trường: Các tổ chuyên môn nên thảo luận sâu về phương pháp,
cách làm trong quá trình dạy học; chia sẻ kinh nghiệm để cùng nhau học tập, nâng
cao chất lượng dạy và học.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong quá trình hướng
dẫn học sinh lớp 9 lập dàn ý cho bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Do thời
gian có hạn cùng với khả năng của bản thân còn hạn chế chắc chắn không tránh
khỏi thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến từ Hội đồng khoa học, các đồng
chí đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn và có hiệu quả cao trong quá trình
giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Vân Du, ngày 15 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan SKKN là do tôi tự làm,
không sao chép của người khác.
Người viết SKKN

Trần Thị Liên


18



×