Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một vài kinh nghiệm dạy kiểu bài nghị luận xã hội trong chương trình ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.84 KB, 15 trang )

A. MỞ ĐẦU
Có thể nói, xã hội ngày càng phát triển thì tính chất phức tạp và đa chiều
càng thể hiện rõ nét. Nhiều hiện tượng đời sống xã hội khá phức tạp có sự đan
xen cả mặt tốt và mặt xấu. Vì vậy, giúp học sinh nhận ra sự việc, hiện tượng hay
định hướng cho các em một tư tưởng, đạo lí thật thấu đáo quả không dễ.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ học sinh hiện nay ngại học văn.
Số em “có tố chất văn” cũng tỏ ra ngại ngùng hoặc không ngần ngại khi quyết
định chuyển sang khối khác không có văn. Sau mỗi kì thi không thiếu những bài
văn “cười ra nước mắt” được biết đến qua phương tiện thông tin đại chúng. Để
tránh thực trạng trên, mỗi giáo viên cần khơi gợi trong các em sự yêu thích, say
mê đối với môn học mang tính nhân văn này. Với kiểu bài nghị luận xã hội,
dung lượng của một bài làm không quá dài so với các kiểu bài khác sẽ không
làm học sinh ngại học, ngại viết.
Mặt khác, đổi mới dạy học là việc lấy học sinh làm trung tâm. Việc học
thực sự phát huy hiệu quả khi học sinh hứng thú học. Các em biết chủ động,
sáng tạo, biến kiến thức thành của mình. Môn Ngữ văn so với các môn học khác
có đặc trưng riêng: “ Văn ôn, võ luyện”. Vậy làm cách nào để đem lại hứng thú
khi học sinh làm bài nghị luận xã hội ?
“ Văn học là nhân học” nên dạy văn, học văn là học cách làm người. Học
tốt, làm tốt kiểu bài nghị luận xã hội chính là cơ hội để các em rèn luyện kĩ năng
sống, ý thức bảo vệ môi trường và có những suy nghĩ đúng đắn trước các sự
việc, hiện tượng đang diễn ra xung quanh. Từ đó có hành động thiết thực, tốt
đẹp tô điểm cho cuộc đời.
Hơn nữa, từ năm 2009 (năm đầu tiên thi tốt nghiệp theo chương trình
SGK mới), trong các đề thi dành cho chương trình phân ban thí nghiệm đã có
câu làm văn nghị luận xã hội. Cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT đã qui định có
câu làm văn nghị luận xã hội chiếm 3.0 điểm trong thang điểm 10 của toàn bài
thi. Với kì thi vào 10 của học sinh cấp THCS, những năm gần đây, dạng đề này
cũng đã được đưa vào cấu trúc đề thi.
Một mùa thi sắp đến gần, với hi vọng sẽ nâng cao một phần chất lượng


bài làm của học sinh khi làm văn nghị luận xã hội, cùng với sự tích luỹ kinh
nghiệm và thực tế đang trực tiếp giảng dạy, tôi mạnh dạn trao đổi cùng đồng
nghiệp đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Một vài kinh nghiệm trong việc dạy
kiểu bài nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 9”.
1


II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thông qua việc dạy kiểu bài nghị luận xã hội nhằm góp phần đổi mới,
nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học Ngữ văn bậc THCS, giúp các em tạo
được hứng thú trong học tập đạt được kĩ năng, khả năng ứng dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Tạo điều kiện để học sinh được bày tỏ quan
điểm, nhận thức, thái độ, tình cảm của bản thân trước những sự việc, hiện tượng,
trước những vấn đề tư tưởng, đạo lí. Từ đó, đưa ra các giải pháp để giải quyết
những vấn đề của cá nhân, của xã hội cũng như cuộc sống hàng ngày.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểu bài nghị luận xã hội trong
chương trình Ngữ văn lớp 9 gắn liền với việc thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp
tỉnh và thi lên THPT. Trong phạm vi đề tài, tôi đã nghiên cứu sâu về vấn đề dạy
kiểu bài nghị luận xã hội trong giới hạn là chương trình sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 9 (Chương trình chuẩn hiện hành) và chọn đối tượng nghiên cứu là học sinh
khối lớp 9 tại trường THCS Thành Công nhằm nâng cao chất lượng môn học.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài gồm:
- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin lấy ý kiến của 44 học
sinh khối lớp 9 tại trường đầu năm học 2015 – 2016.
- Phương pháp thực nghiệm, đối chứng.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết dựa trên kinh nghiệm bản thân, cơ sở
những thực trạng và các kết quả mang tính khả thi của đề tài sau khi hoàn thành.


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

2


Căn cứ vào nội dung nghị luận thì văn nghị luận được chia thành 2 loại:
nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Nếu như bài văn nghị luận văn học yêu
cầu người viết phải trình bày ý kiến, nhận xét về một vấn đề trong các tác phẩm
văn học (nhân vật, cuộc đời…) thì bài nghị luận xã hội lại bàn đến các vấn đề
của đời sống xã hội. Như vậy, giới hạn đề tài mà kiểu bài nghị luận xã hội đề cập
đến là phạm vi rất rộng, trừu tượng như phạm trù đạo đức con người, lẽ sống…
học sinh dễ có tâm lí ngại khi đề cập đến những vấn đề đó. Bằng nghiệp vụ sư
phạm của mình, giáo viên truyền niềm đam mê, sự hứng thú đến với học sinh.
Văn nghị luận nói chung và nghị luận xã hội nói riêng, tâm lí học sinh
thường cảm thấy ngại học, ngại viết. Nhất là trong thiên hướng học lệch của học
sinh hiện nay, các em chỉ quan tâm đến những môn học tự nhiên, ngại học văn,
chưa chịu khó khám phá “chất văn” trong mỗi bài văn. Vì vậy, khi giáo viên
giao đề văn làm thì các em đã vội vàng giở văn mẫu để chép dẫn đến tình trạng
bài văn không mang dấu ấn riêng của người viết. Đọc bài nào người chấm cũng
thấy sự na ná trong cấu tứ rất nhàm chán. Văn nghị luận xã hội đề cập đến
những vấn đề có tính “ thời sự” đang diễn ra, sẽ giúp các em thoát li khuôn mẫu,
có cách viết, cách nghĩ chủ động. Từ đó rèn cho các em sự năng động, sáng tạo
trong cuộc sống- một phẩm chất rất cần có của mỗi học sinh nhất là trong giai
đoạn phát triển của nước ta hiện nay.
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, dạng đề này được đưa vào cấu
trúc thi tốt nghiệp THPT và vào 10 cấp THCS. Vì vậy, giáo viên và học sinh đã
quan tâm nhiều hơn đến văn nghị luận xã hội. Học tốt, làm tốt kiểu bài này các
em sẽ đạt được kết quả tốt hơn trong các kì thi quan trọng. Văn nghị luận xã hội
giúp các em có cách nhìn, cách đánh giá chuẩn mực hơn, từ đó định hướng cho

các em có những suy nghĩ và hành động tốt đẹp trong cuộc sống. Mỗi bài học
đạo đức, triết lí sống về cuộc đời không tuyên truyền, giáo huấn khô khan như
những câu khẩu hiệu mà được cụ thể hoá bằng những câu chuyện “ quà tặng
cuộc sống” hay những thông điệp giàu tính nhân văn “những tấm lòng cao cả”.
Không chỉ vậy, văn nghị luận xã hội còn giúp các em tự tin hơn khi trình bày,
thể hiện cách đánh giá của mình. Đồng thời là cơ hội để các em rèn luyện kĩ
năng sống, ý thức bảo vệ môi trường…từ đó hình thành thói quen, ý thức quan
tâm hơn đến cộng đồng, tránh bệnh vô cảm mà hiện nay một bộ phận học sinh
đang mắc phải.
Không chỉ thế, học tốt làm tốt văn nghị luận xã hội còn giúp cho tâm hồn
chúng ta phong phú hơn. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng
3


khẳng định: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những
tình cảm ta sẵn có”. Từ suy nghĩ đúng đắn sẽ là những hành động tích cực, giúp
các em sống có trách nhiệm hơn với chính mình, với gia đình và toàn xã hội.
Xác định được điều này, tin rằng bài văn nghị luận của các em sẽ thể hiện được
tính chủ quan, điểm nhìn của chính người viết. Văn nghị luận xã hội không khó
và có nhiều tác dụng tích cực tới việc rèn luyện ý thức đạo đức cũng như nhân
cách con người. Giáo viên và học sinh cần quan tâm hơn nữa tới dạng văn này
để đạt hiệu quả như mong muốn.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề
Văn nghị luận xã hội chưa có sự đầu tư thích đáng ở phía giáo viên và cả
học sinh. Bởi thang điểm của kiểu bài này còn ít (cao nhất trong tổng chung của
bài thi cũng chỉ đạt đến 3.0 điểm, dẫn đến tình trạng giáo viên và học sinh ôn
chưa sâu) mà mới chuyên sâu vào dạng nghị luận văn học.
1.1. Đối với giáo viên:
- Theo phân phối chương trình, số tiết dành cho kiểu bài nghị luận xã hội

còn quá ít:
+Tiết 99: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
+Tiết 100: Cách làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống.
+Tiết 109: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.
+Tiết 113, 114: Cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.
- Giáo viên chưa thực sự hiểu bản chất của kiểu bài.
- Nhiều giáo viên chưa nắm bắt kịp thời các vấn đề xã hội nóng bỏng.
1.2. Đối với học sinh:
- Vốn sống ít, đặc biệt đối với học sinh Trường THCS Thành Công, các em
có suy nghĩ đơn giản trước các vấn đề trong cuộc sống, không có thói quen lật
lại vấn đề.
- Không hiểu bản chất kiểu bài: không chỉ sao chép lại sự việc, hiện tượng
một cách đơn giản mà cần phải đưa những vấn đề ra để phân tích, đánh giá.
- Đối với nghị luận văn học, học sinh thường bám vào các luận điểm quan
trọng có sẵn, trong khi kiểu bài nghị luận xã hội học sinh phải tự tìm luận điểm
trong khi khả năng tư duy, đánh giá còn hạn chế.
2. Kết quả của thực trạng

4


Thực tế cho thấy, giáo viên ngại đổi mới trong phương pháp dạy học sẽ
dẫn đến việc học chưa có hiệu quả như mong muốn. Qua khảo sát đầu học kì II
năm học 2014- 2015 kết quả thu được như sau:
Khối 9
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình (%)
Yếu (%)

44 học sinh
2 (4,5)
7 (15,9)
15 (34,1)
20 (45,5)
Từ thực trạng trên cho thấy kết quả kiểm tra phần nghị luận xã hội của
học sinh trường THCS Thành Công chưa cao nên tôi thấy rất cần thiết phải áp
dụng đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học văn nghị
luận xã hội.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực
1.1. Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong đó tôi sử dụng có hiệu
quả phương pháp thuyết trình.
Trong kiểu bài nghị luận xã hội, để việc dạy học đạt hiệu quả và sản phẩm
cuối cùng là bài viết của học sinh như mong muốn. Để làm được điều này đòi
hỏi giáo viên phải chú ý tới hiệu quả của ngôn ngữ nói. Lời thuyết trình dễ hiểu
và đi sâu vào lòng người nghe là lời tâm tình chân thành. Trong các tiết học thực
hành cách làm văn nghị luận xã hội, giáo viên cần khéo léo đưa ra một vài kinh
nghiệm để làm tốt bài nghị luận xã hội, tránh nêu lí lẽ giáo huấn khô khan.
Thuyết trình muốn có hiệu quả trước hết giáo viên nên chân thành chia sẻ một
vài kinh nghiệm làm văn nghị luận xã hội với các em như cách đặt hệ thống câu
hỏi. Sau đó linh hoạt kể chuyện hay đọc những câu danh ngôn, ca dao, tục ngữ
phù hợp với tâm sinh lí học sinh.
Ví dụ: Dạy tiết 100: Cách làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống ( Ngữ văn 9-tập 2) tôi hướng dẫn các em tự đặt các câu hỏi để tìm ra
dàn ý bài làm:

+ Hệ thống chung:

+ Hệ thống riêng:


Mở bài viết gì ?
Thân bài chia thành mấy đoạn văn? Tương
ứng với những luận điểm nào?
Kết bài có nhiệm vụ gì?
Sự việc, hiện tượng cần nghị luận là gì ?
Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả, giải pháp
khắc phục của sự việc, hiện tượng đó?
5


Em có suy nghĩ gì về sự việc, hiện tượng trên?
Với tiết học này, giáo viên có thể lựa chọn vấn đề về vệ sinh an toàn thực
phẩm để đặt các câu hỏi:
Câu hỏi 1: Em hãy nêu thực trạng của vấn đề thực phẩm bẩn hiện nay?
Câu hỏi 2: Nguyên nhân và hậu quả của thực trạng nói trên là gì?
Câu hỏi 3: Từ hâu quả đó, theo em cần có những giải pháp nào?
Khi tôi đặt những câu hỏi trên, học sinh trường tôi đã có những câu trả lời
như sau:
- Thực trạng: Thực phẩm bẩn là hiện tượng phổ biến, đang diễn ra từng
ngày: thịt có chất tạo nạc, rau có thuốc trừ sâu…
- Nguyên nhân: + Thái độ độc ác, ích kỉ của những người sản xuất thực
phẩm.
+ Tâm lí dùng và tiêu thụ hàng rẻ của người dân.
- Hậu quả:
+ Gây nên những bệnh tật nguy hiểm như ung thư,…
+ Gây tâm lí hoang mang cho xã hội.
- Giải pháp:
+ Nâng cao ý thức tự giác trong việc cung cấp thực phẩm
sạch, an toàn cho mình và người khác.

+ Lên án những kẻ chạy theo lợi ích trước mắt mà xem
thường sức khỏe, tính mạng của người khác.
Vậy việc hướng dẫn học sinh tìm ra câu trả lời chính là giáo viên đang
hướng dẫn học sinh tìm ra các luận điểm chính của bài viết.
Dạy tiết 113, 114: Cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng,
đạo lí. (Ngữ văn 9-tập 2) tôi hướng dẫn các em đặt câu hỏi để tìm ra dàn ý bài
làm:
Mở bài viết gì ?
+Hệ thống chung:
Thân bài chia thành mấy đoạn văn? Tương
ứng với những luận điểm nào?
Kết bài có nhiệm vụ gì?
Tư tưởng, đạo lí cần nghị luận là gì ?
+Hệ thống riêng:
Tư tưởng, đạo lí đó hiểu như thế nào? Có biểu
hiện ra sao? Giá trị của nó hiện nay?
Em có suy nghĩ gì về tư tưởng, đạo lí ấy?
Sau khi nêu hệ thống câu hỏi, giáo viên lồng ghép kể một câu chuyện nhỏ
cảm động, chắc chắn các em sẽ rất hứng thú. Chẳng hạn như tiết học trên, giáo
viên có thể lựa chọn câu chuyện kể về một cậu bé 9 tuổi ở Nhật sống sót sau cơn
6


sóng thần khủng khiếp đã từ chối nhận xuất lương khô sớm hơn mọi người, kiên
nhẫn đợi xếp hàng đến lượt mình theo đúng thứ tự…Giáo viên khéo léo ngừng
mạch kể bằng câu hỏi: Vậy em có suy nghĩ gì về việc làm của cậu bé ?
Khi tôi đặt câu hỏi trên, các em học sinh lớp 9A trường tôi đã có những câu
trả lời như sau:
- Đồng cảm, chia sẻ với những thiệt hại, mất mát to lớn của gia đình cậu bé nói
riêng và nhân dân, đất nước Nhật Bản nói chung do thảm hoạ động đất, sóng

thần gây ra gần đây.
- Cảm phục, xúc động trước những cử chỉ, hành động, việc làm cao đẹp của
cậu bé.
- Rút ra bài học về thái độ bình tĩnh, nhẫn nại, về tinh thần nhường cơm xẻ áo,
chấp nhận hi sinh cho người khác.
- Trong mọi hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh khó khăn, vẻ đẹp của tình người vẫn
toả sáng lấp lánh. Đó chính là “cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con
người.”
Vậy việc hướng dẫn học sinh tìm ra câu trả lời chính là giáo viên đang hướng
dẫn học sinh tìm ra các luận điểm chính của bài viết.
1.2. Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong đó tôi sử dụng có hiệu
quả phương pháp chia nhóm.
Nếu như phương pháp dạy học “ thuyết trình hiệu quả” thiên về lí lẽ nhiều
thì việc vận dụng chia nhóm lại mang tính thực hành. Kiểu bài nghị luận xã hội
có phạm vi rộng là các vấn đề trong thực tế đời sống. Chia nhóm giúp các em có
cơ hội chia sẻ thông tin cho nhau. Thâm nhập thực tế bằng những trải nghiệm
của bản thân sẽ giúp các em có sự hiểu biết sâu rộng hơn về các vấn đề của xã
hội.
Chia nhóm học tập, giáo viên phân công công việc cụ thể cho mỗi nhóm
bằng cách dành thời gian thích đáng (5 đến 7 phút) trong phần hướng dẫn học
sinh học bài cũ và chuẩn bị bài mới. Ví dụ: Để học tốt, làm bài tốt phần nghị
luận xã hội, giáo viên chia nhóm như sau: (Tuỳ vào số học sinh trong một lớp để
chia nhóm cho phù hợp)
+ Nhóm 1: Sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, danh ngôn liên quan đến bài
học làm người. Mỗi em trình bày suy nghĩ về câu em tâm đắc nhất ?
+ Nhóm 2: Hiện tượng nổi bật nhất trong giới học sinh tuần qua trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Em có suy nghĩ gì về vấn đề đó ?

7



+ Nhóm 3: Sưu tầm, thi kể trong nhóm về những câu chuyện mang tính nhân
văn trong cuốn: “ quà tặng cuộc sống”, “ những tấm lòng cao cả”, "tinh hoa xử
thế”... Thông điệp trong câu chuyện em yêu thích nhất ?
+ Nhóm 4: Sưu tầm dẫn chứng về những nhân vật thành danh nhờ nghị lực
vươn lên trong cuộc sống. Em có suy nghĩ gì về tấm gương đáng để học sinh
chúng ta noi theo ?
Sự chuẩn bị chu đáo của học sinh chính là bồi thêm kĩ năng sống để các em
viết bài nghị luận xã hội tốt hơn.
2. Dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh
Trong một lớp học, mức độ học sinh có sự tiếp thu khác nhau. Giáo viên cần
chia nhỏ đối tượng để bổ sung cho các em những kiến thức phù hợp: đối tượng
học sinh yếu, học sinh trung bình, học sinh khá giỏi. Chẳng hạn khi dạy nghị
luận xã hội tôi đã chia thành các nhóm học sinh như sau, mỗi nhóm lượng kiến
thức tương ứng với khả năng tiếp thu của các em:
2.1. Đối tượng học sinh yếu:
Cần có những kiến thức cơ bản, dễ nhớ, dễ áp dụng với đối tượng học sinh này.
Các em nắm được bản chất của văn nghị luận xã hội (trình bày suy nghĩ, phân
tích, chứng minh, bình luận…một vấn đề có ý nghĩa xã hội). Cách làm các dạng
bài nghị luận xã hội được tôi mô hình hoá bằng những sơ đồ sau:

Kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng:
Dàn
bài
chung:
Mở bài:
Giới thiệu sự việc, hiện tượng cần bàn luận.
Kiểu
bài
nghị luận

về một sự
việc, hiện
tượng đời
sống

Thân bài:
-Liên hệ thực tế
-Phân tích các mặt.
-Đánh giá
-Nhận định

Thực trạng
Nguyên nhân
8


Hậu quả
Biện pháp

Kết bài:
Kết luận, khẳng định, phủ định, lời khuyên.
Kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí:
Mở bài:
Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
Dàn bài
chung:
Kiểu bài
nghị luận
về một vấn
đề tư

tưởng, đạo


Giải thích
Thân bài:
-Giải thích, chứng
minh nội dung vấn
đề tư tưởng, đạo lí.
-Nhận định, đánh
giá vấn đề tư tưởng,
đạo lí đó trong bối
cảnh của cuộc sống
riêng, chung.

Phân tích

Mở rộng

Kếtsơbài:
Hiện nay, việc sử dụng
đồ tư duy vào dạy học thực sự đem lại hiệu quả.
Kết
luận,
tổng
kết,lànêu
thức
tỏ ýsự
Học sinh dễ nắm bắt kiến thức. Sơ đồ
tư duy
mộtnhận

kĩ thuật
dạymới,
học thực
khuyên bảo hoặc tỏ ý hành động.
thiết thực cho mọi đối tượng học sinh nhất là với học sinh còn yếu.
2.2. Đối tượng học sinh trung bình:
Cần cho các em luyện các thao tác làm bài hoàn chỉnh theo từng đoạn kết hợp
với chia nhóm. Ví dụ nhóm 1: luyện viết đoạn văn nêu thực trạng của hiện tượng
học sinh đam mê điện tử. Nhóm 2: luyện viết đoạn văn nêu nguyên nhân của
hiện tượng học sinh đam mê điện tử. Nhóm 3: luyện viết đoạn văn trình bày hậu
quả của hiện tượng học sinh đam mê điện tử. Nhóm 4: luyện viết đoạn văn nêu

9


giải pháp khắc phục hiện tượng học sinh đam mê điện tử. Từ cách viết đoạn văn
lưu ý các em cách viết, liên kết câu, đoạn.
2.3. Đối tượng học sinh khá, giỏi:
Cần hướng các em tới việc đưa chất văn vào bài văn nghị luận xã hội. Một
bài văn nghị luận xã hội được xem là có chất văn khi bên cạnh hệ thống ý mạch
lạc, sắc sảo, người viết còn thể hiện lòng nhiệt tình trong cách thể hiện chính
kiến, quan điểm của cá nhân về vấn đề đưa ra bàn luận. Lòng nhiệt tình ấy thể
hiện ở thái độ nghiêm túc xem xét vấn đề một cách thấu đáo. Sử dụng ngôn ngữ
chính xác, truyền cảm, cách diễn đạt giàu hình ảnh…là những yếu tố quan trọng
để bài văn đạt hiệu quả, giàu tính thuyết phục. Vậy làm cách nào để tạo chất văn
trong bài làm của học sinh? Hình thành ý tưởng và xác định thái độ là bước đầu
tiên. Ý tưởng chính là những ý cần triển khai trong bài viết, phải có thái độ đúng
đối với vấn đề đặt ra (khen hay chê, đồng tình hay phản bác…). Khi đã có ý
tưởng, giáo viên định hướng cho các em lập dàn ý sát với từng dạng đề. (Dàn ý
đã trình bày ở phần trên). Sau đó, tổ chức điểm nhìn ( kết hợp cả khách quan và

chủ quan để vấn đề bàn luận được xem xét thấu đáo hơn) và sử dụng lời văn.
Lời văn trong văn nghị luận xã hội phải chặt chẽ, chính xác, có sức lay động tới
người đọc. Vì vậy cần kết hợp linh hoạt kiểu câu và một số phương pháp lập
luận trong bài.
Tóm lại, dù đối tượng học sinh nào các em cũng cần thiết nắm được bố
cục của một bài nghị luận xã hội. Khi viết một bài văn nghị luận xã hội ngắn hay
một đoạn văn cũng phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu của một bài làm. Việc dạy
học phù hợp với mức độ nhận thức của học sinh có thể bổ sung kịp thời chỗ kiến
thức còn thiếu hụt của các em, cũng là một cách khơi gợi sự hứng thú khi làm
bài văn nghị luận xã hội của học sinh.
3. Tạo môi trường học tập thân thiện tích cực
3.1. Tổ chức cho các em:“học mà chơi, chơi mà học”.
Việc học căng thẳng, những bài học triết lí, khô khan, xa rời thực tế sẽ khiến
các em nhàm chán. Giáo viên là người biến một giờ học căng thẳng thành những
phút giây thư giãn đáng mong đợi ở các em.Tổ chức cho các em được nhập vai
tình huống, kể lại tình huống hay câu chuyện sẽ giúp các em thích thú hơn.
Chẳng hạn để giải quyết đề:
“ Có một người cha trước khi chết gọi ba người con trai đến bên giường, đưa
cho họ một bó tên và bảo: “ Các con thử bẻ bó tên này xem ai có thể bẻ gãy
được. Cả ba người con đều lấy hết sức bình sinh để bẻ nhưng bó tên vẫn không
10


gãy một chiếc nào. Người cha cầm lấy bó tên tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc
một. Trong phút chốc bó tên đã bị bẻ gãy…”
(Truyện ngụ ngôn Người cha và bó tên)
Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dòng) bàn về tình
đoàn kết trong gia đình và cộng đồng.
Học sinh được đóng vai hay kể lại, nghĩa là các em đang được trải nghiệm. Điều
đó sẽ giúp các em có những suy nghĩ sâu sắc hơn, toàn diện hơn.

3.2. Tổ chức cho các em hoà nhập vào các hoạt động tập thể bổ ích một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp.
Các hoạt động tập thể là cơ hội tốt để các em rèn luyện kĩ năng sống, giáo
dục ý thức bảo vệ môi trường. Từ đó giúp các em tự tin hơn trong lời ăn, tiếng
nói cũng như cách viết. Hoạt động tập thể tốt nhất là các em được tham gia
chứng kiến trực tiếp. Giáo viên tạo điều kiện để tất cả các em được tham gia
dưới cái nhìn đa chiều sẽ có những nghĩ suy khác nhau. Chẳng hạn, giao lưu câu
lạc bộ Nghệ thuật tình thương " vì một trái tim không tật nguyền" tổ chức tại
trường THCS Thành Công. Qua buổi giao lưu này, mỗi em sẽ có những suy nghĩ
tốt đẹp hơn. Họ là những con người không may mắn trong cuộc sống nhưng
nghị lực, ý chí thật tuyệt vời. Từ đó, em có suy nghĩ gì về bản thân mình. Hay
những buổi truyền hình trực tiếp qua màn ảnh nhỏ đọng lại ấn tượng gì trong
em. Sự kiện Nick Vujicic đến Việt Nam được bao người xem nóng lòng chờ đợi
để chứng kiến tài năng nghệ thuật của anh. Một chàng trai nước ngoài cụt cả tay,
chân nhưng lại có sức hút kì lạ từ nghị lực phi thường của cuộc sống. Học sinh
nông thôn còn hạn chế trong việc cập nhật thông tin, những vấn đề nóng mang
tính thời sự ở lứa tuổi các em. Không được tham gia trực tiếp thì cầu nối phương
tiện đại chúng hết sức cần thiết. Chương trình đêm chung kết The voice kids
phát trên truyền hình VTV3 (7/9/2013) để lại ấn tượng khó phai mờ cho người
xem là Quán quân Nguyễn Quang Anh. Nhìn bạn biểu diễn như một ca sĩ nhí
chuyên nghiệp. Nhưng ít ai biết được đằng sau ánh hào quang ấy là những giọt
mồ hôi của sự vươn lên không mệt mỏi. Quang Anh có hoàn cảnh đặc biệt: em
sống với mẹ, hai mẹ con nương tựa vào nhau. Mới cách đây thời gian không lâu
bạn bị bệnh viêm màng não phải nằm viện. Mọi chân trời ước mơ tưởng như tất
cả đã xa vời với cậu bé bất hạnh này. Nhưng bằng nghị lực phi thường bạn đã
khẳng định mình nơi chân trời ước mơ mà bạn đã thực hiện được. Điều đó gợi
cho em những suy nghĩ gì trong cuộc sống…Giúp các em tiếp cận với những

11



bằng chứng sống sẽ sinh động và hiệu quả hơn rất nhiều khi các em viết văn
nghị luận.
3.3. Rèn luyện, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh:
Từ suy nghĩ đẹp dẫn đến hành động đẹp quả không sai. Những đề văn nghị
luận xã hội giúp các em nhìn nhận lại mình. Chẳng hạn đề bài sau:
Những dấu hiệu vô cảm
Thầy giáo kể chuyện về một nhóm học sinh lớp 7 trường Nguyễn Trãi
( Nghi Xuân-Hà Tĩnh) nhặt được số tiền rất lớn (2.400 USD) vội báo với công
an tìm cách trả lại người đánh mất và các em đã được nhà trường tuyên dương
khen thưởng…( Theo Vietbao.vn, tháng 3-2007). Cả lớp lắng nghe. Rồi ồ lên, xì
xào bàn tán…Một số bạn nói là “Điên!”…
Suy nghĩ của em về những phản ứng của lớp học.
Trong đề bài nghị luận xã hội dù vấn đề nêu ra là tốt hay chưa tốt thì đều có ý
nghĩa giáo dục với học sinh. Đưa ra chính kiến của mình chính là phát huy sự
chủ động, sáng tạo của học sinh. Mỗi đề văn là một thông điệp cuộc sống giúp
các em hoàn thiện mình, trở thành những công dân tốt cho xã hội. Điều đó thật ý
nghĩa biết bao.
4. Vận dụng linh hoạt đổi mới kiểm tra đánh giá
4.1. Ra đề văn theo hướng mở.
Văn nghị luận nói chung và văn nghị luận xã hội nói riêng đòi hỏi phải xác lập
suy nghĩ, đánh giá của người viết. Muốn đạt được điều này phải tạo cơ hội cho
học sinh được nêu lên suy nghĩ riêng của mình một cách xác đáng. Bởi có những
vấn đề các em tâm đắc nhưng cũng có những vấn đề các em chưa thật sự nhập
tâm. Vậy đề văn theo hướng mở sẽ giúp các em được lựa chọn vấn đề theo sở
trường riêng của mình. Chắc chắn bài văn sẽ có hiệu quả. Ví dụ: Đề bài: Một
câu danh ngôn mà em tâm đắc. Đề bài trên, học sinh có thể lựa chọn những câu
mà mình thích và hiểu sâu sắc, sẽ là một lợi thế cho các em phát huy trong bài
làm, khích thích được sự chủ động, sáng tạo. Có thể nói hiệu quả bài làm của
học sinh phụ thuộc vào sự đổi mới về phương pháp cũng như đổi mới kiển tra

đánh giá của giáo viên.
4.2. Đáp án mở và những lời nhận xét khích lệ của giáo viên:
Ra đề văn nghị luận theo hướng mở thì đáp án cũng nên mở hướng chấm trong
bài làm của học sinh. Bởi các em có quyền bộc bạch những suy nghĩ của riêng
mình-điều này rất cần thiết trong văn nghị luận xã hội. Có những trường hợp

12


học sinh thẳng thắn nêu quan điểm cái tôi trong bài viết. Chẳng hạn trong đề viết
bài tập làm văn số 5 tôi đã ra đề văn sau:
“ Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn. Nhiều bạn vì mải chơi mà sao
nhãng học tập và còn phạm những sai lầm khác. Hãy nêu ý kiến của em về hiện
tượng đó? ”
Có những bài làm rất chân thành như bài làm của em Bùi Văn Hiếu học sinh
lớp 9A, em từng nghiện điện tử dẫn đến kết quả học tập rất kém. Đề văn như
một chất xúc tác để khơi dậy trong em ý thức tự làm chủ mình. Em có viết: “
Thật tuyệt vời biết bao sau những giờ học căng thẳng là mình được giảm stress
bằng những trò chơi điện tử thú vị…. Em hứa sẽ từ bỏ dần hiện tượng này.” Có
thể nói lời văn rất chân thành. Tôi đã phê vào lời phê trong bài kiểm tra của em
như sau: “ Lời văn chân thành. Có ý chí vươn lên. Em cần cố gắng hơn!”. Là
học sinh lớp 9 cũng rất cần được khen. Đó là sự khích lệ kịp thời đối với các em.
Có thể nói khâu chấm bài của giáo viên rất quan trọng, đọc để phát hiện ý, suy
nghĩ, tình cảm của cá nhân học sinh trong đó, ta phải biết trân trọng. Tuy nhiên,
cũng rất cần sự linh hoạt của giáo viên khi bài làm của học sinh có những suy
nghĩ táo bạo, chưa phù hợp với chuẩn mực xã hội thì thầy cô là người nhẹ nhàng
uốn nắn để trò có những suy nghĩ đẹp hơn.
Giáo viên cần có sự vận dụng phù hợp, linh hoạt những biện pháp trên
trong các tiết học chính khoá hay dạy tự chọn, đại trà để đạt được hiệu quả như
mong muốn.


IV. HIỆU QUẢ
Sau một thời gian áp dụng “ Một vài kinh nghiệm trong việc dạy kiểu bài
nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 9” tại Trường THCS Thành
Công, tôi thấy bước đầu đã thu được kết quả khả quan.
Đầu học kì II năm học 2014- 2015 khi chưa áp dụng:
Khối 9
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình
Yếu (%)
(%)
44 học sinh
2 (4,5)
7 (15,9)
15 (34,1)
20 (45,5)
Đầu học kì II năm học 2015- 2016 sau khi áp dụng:
Khối 9
Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình (%)
Yếu (%)
46 học sinh
8 (17.4)
14 (30.4)
19 (41.3)
3 (6.9)
13



Qua thực tế cho thấy giáo viên đã vận dụng sáng tạo một số phương pháp
đổi mới dạy học đã có hiệu quả tiến bộ rõ rệt. Từ đó thúc đẩy chất lượng các tiết
học về văn nghị luận xã hội, tạo sự hứng thú cho người học. Chất lượng bài làm
của học sinh cũng được nâng lên.
Có thể nói, văn nghị luận xã hội là cầu nối giữa giáo viên với học sinh mà
sợi dây là tình cảm chân thành, thân thiện giữa cô và trò.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc đổi mới phương pháp dạy học đang được các thầy cô áp dụng rộng
rãi trong bất kì môn học, bài học nào. Đích cuối cùng của quá trình dạy học là
sản phẩm học sinh. Các em học được gì? Làm được gì? Dạy học luôn là cả một
quá trình sáng tạo đòi hỏi sự đổi mới, tìm tòi để bài học hiệu quả nhất. Đó chính
là cái tâm rất cần thiết ở sự say nghề của mỗi người thầy sẽ đem lại cho các em
những bài học bổ ích không chỉ qua sách vở mà còn trong cuộc sống xã hội.
2. Kiến nghị
Trong công tác dạy học, giáo viên rất cần thiết có những sáng kiến hay,
mang lại hiệu quả thiết thực. Rất mong phòng giáo dục triển khai, mở rộng
những chuyên đề viết sáng kiến kinh nghiệm có hiệu quả. Đồng thời dạy thử
14


nghiệm một số tiết học có ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm thành công để giáo
viên có thể tham khảo, học tập.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã đúc rút được qua
quá trình giảng dạy tại trường THCS Thành Công. Chắc chắn sẽ còn có những
vấn đề để đồng nghiệp góp ý. Rất mong sự đóng góp quý báu ấy để sáng kiến
kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thạch Thành, ngày 10 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Tác giả

Mai Thị Hồng

15



×