Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học lịch sử việt nam lớp 7 tại trường THCS nga an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.14 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
1.MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài ……………………………………….................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................. ............................. 2
1.5. Những điểm mới của sáng kiến .......................................................................3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN ................................................................................. 3
2.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 3
2.2. Thực trạng của vấn đề .....................................................................................4
2.3. Giải pháp thực hiện ....................................................................................... 5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến ..................................................................................15
2.4.1. Hiệu quả .................................................................................................... 15
2.4.2. Bài học kinh nghiệm ................................................................................. 16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ..............................................................................17
3.1. Kết luận ............................................................................... ..................... 17
3.2. Kiến nghị ................................................................................................... 17

1


1. MỞ ĐẦU
Môn Lịch sử là bộ môn có một vai trò vô cùng quan trọng. Bởi vì đây là bộ
môn giúp cho học sinh có thể hiểu biết về lịch sử của dân tộc và của thế giới. Qua
đó sẽ góp phần hoàn thiện và phát triển nhân cách của con người. Tuy nhiên do
đặc thù bộ môn đây là môn học nặng về lí thuyết, sự kiện, ngày tháng nên khi học
sinh học thường chán và khó nhớ. Trong những năm gần đây, do sự phát triển của
kinh tế thị trường nên học sinh thường thích chọn những môn khoa học tự nhiên
để thi đại học thì cơ hội việc làm sẽ thuận lợi hơn. Điều đó, dẫn tới một hệ quả là
thi tốt nghiệp, rồi đại học chất lượng môn lịch sử đang ở mức báo động.


Vậy giải pháp gì để học sinh có hứng thú với môn học này, có lẽ rằng một giải
pháp được nhiều thầy cô sử dụng đó là sử dụng các đồ dùng trực quan, bản đồ,
lược đồ trong các tiết dạy của mình. Những đồ dùng này khi sử dụng cũng có rất
nhiều hiệu quả nhưng khi tìm kiếm, di chuyển và in ấn có lẽ cũng có những điều
phải lưu tâm. tại sao chúng ta không thử kết hợp với công nghệ thông tin để tạo ra
những đồ dùng dạy học tự tạo vừa có thể tiết kiệm, vừa có thể lưu giữ và chỉnh
sữa mỗi khi cần và đặt biệt có thể chứa được một khối lượng kiến thức khổng lồ
mà giáo viên muốn truyền tải cho học sinh.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Trong dạy học lịch ở trường phổ thông, yêu cầu học sinh nắm vững các sự
kiện lịch sử là một vấn đề rất quan trọng. Ngoài việc nhớ thời gian diễn ra sự
kiện, hiểu được tính chất, diễn biến, kết quả và những việc làm của nhân vật, các
em còn phải nắm vững kiến thức về không gian xảy ra sự kiện lịch sử. Bởi vì
không một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra lại không gắn liền với một thời
gian, không gian nhất định. Không nắm được thời gian, không gian diễn ra sự
kiện lịch sử, học sinh sẽ “hiện đại hóa” lịch sử.
Đặc trưng cơ bản của việc dạy học lịch sử là học sinh không trực tiếp quan
sát đối tượng nhận thức, không thể trực quan sinh động các sự kiện hiện tượng
lịch sử. Vì vậy, tái tạo lại hình ảnh lịch sử là một yêu cầu quan trọng và rất cần
thiết trong dạy học bộ môn. Bởi lẽ, học sinh không tái hiện được hình ảnh diễn ra
sự kiện, hiện tượng cơ bản thì sự hiểu biết của các em về sự kiện, hiện tượng lịch
sử trở nên què quặt, thậm chí sai lệch thiếu chính xác. Khi đó, các em cũng không
có hứng thú học tập lịch sử.
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay, việc phát huy tính tích cực học
tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập bộ môn đang là mối quan tâm
hàng đầu. Riêng với bộ môn lịch sử, sử dụng đồ dùng trực quan đặc biệt là bản đồ
đã và đang có đóng góp không nhỏ vào việc phát huy tính tích cực, chủ động học
tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn.
Lịch sử Việt Nam lớp 7 là thời kì chứng kiến nhiều biến động lớn lao của
dân tộc với hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Tống, ba lần chống quân

xâm lược Mông – Nguyên…Các em phải tiếp xúc ngay bản đồ, lược đồ trong
những bài học đầu tiên của phần lịch sử Việt Nam lớp 7. Tuy nhiên, ở lớp 6, do
hạn chế của việc biên soạn sách giáo khoa, cũng như tài liệu, bản đồ, lược đồ nên
2


học sinh ít được làm quen với phương pháp khai thác và hiệu quả của việc sử
dụng bản đồ để khai thác diễn biến các cuộc kháng chiến, các cuộc tiến công, các
trận đánh…còn rất hạn chế. Cho nên lên đến lớp 7, học sinh sẽ không tránh khỏi
bỡ ngỡ, lúng túng khi tiếp cận với bản đồ, lược đồ. Mặt khác, nếu giáo viên không
có phương pháp khai thác phù hợp và hiệu quả sẽ làm giảm đi hứng thú học tập
bộ môn của học sinh, kéo theo đó chất lượng học tập của các em cũng suy giảm.
Mặt khác, để đảm bảo yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục,
người giáo viên phải là người luôn tự tìm tòi, sáng tạo, chủ động truyền tải kiến
thức theo hướng tích cực trên cơ sở “lấy học sinh làm trung tâm”,đổi mới các
phương pháp, cách thức tổ chức dạy học, trong đó có cả việc đổi mới sử dụng bản
đồ, lược đồ vào giảng dạy lịch sử.
Về phía học sinh, dường như lại không thích học môn lịch sử vì cho rằng
đó chỉ là môn phụ, không quan trọng, nội dung kiến thức quá Dài, khó nhớ, nhiều
sự kiện. Và cả ngoài xã hội cũng không xem trọng môn học này.
Chính vì lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Hình thành kĩ năng sử
dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học phần lịch sử Việt Nam lớp 7” nhằm tạo ra
môi trường tương tác đa dạng hấp dẫn giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh
với nhau đồng thời gây hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo ở
học sinh. Góp phần nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử trong nhà trường.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nhận thấy rõ tầm quan trọng của hệ thống bản đồ, lược đồ trong dạy học
lịch sử , bản thân tôi là một giáo viên bộ môn Lịch sử ở trường THCS, trực tiếp
giảng dạy chương trình Lịch sử lớp 7, tôi luôn suy nghĩ và xác định cho mình phải
làm thế nào để khai thác có hiệu quả hệ thống bản đồ, lược đồ theo hướng phát

huy tính tích cực của học sinh.
Trong khuôn khổ đề tài này, tôi xin đưa ra một số biện pháp khai thác, sử
dụng bản đồ, lược đồ trong dạy học Lịch sử lớp 7, nhằm nâng cao chất lượng
môn học, phát triển năng lực tư duy và hứng thú học lịch sử ở học sinh lớp 7.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: nội dung chương trình Lịch sử lớp 7, các bản đồ,
lược đồ liên quan đến nội dung đề tài.
- Phạm vi: Do điều kiện thời gian và cơ sở vật chất có giới hạn, ở đề tài này
tôi xin trình bày một số biện pháp khai thác bản đồ, lược đồ liern quan đến môn
lịch sử lớp 7 như một dẫn chứng sinh động cho kinh nghiệm sử dụng có hiệu quả
bản đồ, lược đồ của bản thân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện bài viết này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
- Nghiên cứu lý thuyết.
- Quan sát sự phạm.
3


- Thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp thống kê.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Bản thân đã áp dụng đề tài vào giảng dạy Môn Khoa học xã hội lớp 7 mô hình “Trường học mới” tại trường THCS Nga An, năm học 2016 – 2017.
- Hướng dẫn học sinh quy trình vẽ bản đồ, lược đồ lịch sử.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Căn cứ nghị quyết Trung ương IV khóa VII(1/1993), nghị quyết Trung
ương II khóa VIII(12/1996), được thể chế hóa trong luật giáo dục năm 2005, cụ
thể hóa trong các chỉ thị sổ 14(4/1999).
Luật giáo dục điều 28.2 đã ghi: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh”.
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vai trò quan trọng trong việc hình
thành thế giới quan, tình cảm, đạo đức, phát triển năng lực nhận thức và hành
động…cho học sinh.Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn
Lịch sử chưa thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì thế, việc đổi mới một cách toàn
diện về nội dung và phương pháp dạy học Lịch sử là rất cần thiết.
Thực tiễn đã khẳng định hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan
trong dạy học lịch sử do nhiều yếu tố quyết định: như chất lượng đồ dùng trực
quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử … Phương pháp sử dụng, kỹ năng, năng
lực sư phạm của giáo viên và đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Đồ dùng
trực quan, bản đồ, lược đồ được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của
nhiều giác quan sẽ kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức: “
Tai nghe – Mắt thấy.” Tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối
quan hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát huy ở học sinh năng lực chú ý,
quan sát, hứng thú đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại, nếu
không sử dụng đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán xử lý,
không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu, thậm chí hạn chế phát triển
năng lực tư duy trừu tượng của học sinh
Xuất phát từ mục tiêu đó, những năm gần đây bộ môn lịch sử ở trường phổ
thông đã có nhiều đổi mới trong các khâu cơ bản của quá trình dạy học: đổi mới
việc sử dụng SGK; đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá; đổi mới phương phương
pháp dạy dọc – trong đó bao gồm cả đổi mới việc sử dụng đồ dùng trực quan vào
dạy học lịch sử, nhất là việc sử sụng bản đồ, lược đồ để dạy môn lịch sử lớp 7.
Một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố, đổi thay của dân tộc. Từ đó nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh. Đồng thời nâng cao chất lượng
học tập bộ môn của học sinh. Cũng từ đó giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào
4



dân tộc, sự yêu thích, hứng thú học môn lịch sử và thay đổi cách nghĩ, cách nhìn
của nhiều người cho rằng dạy học lịch sử là “khô khan”, “cứng nhắc”, “thiếu sinh
động” và “không có hồn”
2.2. Thực trạng của vấn đề:
2.2.1. Thực trạng:
Thực tế, không phải bất kì một giáo viên nào cũng hiểu hết được tầm quan
trọng của việc sử dụng bản đồ , lược đồ vào giảng dạy lịch sử, và biết cách khai
thác bản đồ, lược đồ đúng phương pháp. Trong khi đó, một số giáo viên lại than
phiền rằng học sinh bây giờ “chán” học lịch sử, “học lệch”, phân biệt môn chính,
môn phụ…Phải chăng, có nhiều giáo viên đã biến bài lịch sử thành bài chính trị lý
luận khô khan, trống rống, cứng nhắc, làm cho học sinh căng thẳng, chán nản;
Hoặc trình bày bài giảng theo lối thông báo kiến thức, đơn điệu: như dạy bài
“Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075-1077)”- giáo viên khai thác
các nội dung: Nguyên nhân, Diễn biến, kết quả và ý nghĩa. (Phần dạy diễn biến
giáo viên không sử dụng lược đồ để tường thuật và cũng không hướng dẫn học
sinh tường thuật trên bản đồ, chỉ cho học sinh đọc lướt một hai lần, rồi ghi :
SGK).
Như vậy, tình trạng “dạy chay, học chay” vốn là một “thói quen” của nhiều
giáo viên dạy lịch sử, kể cả những giáo viên trẻ tuổi mới vào nghề cũng tỏ ra chay
lười trong việc chuẩn bị bản đồ, lược đồ trước khi lên lớp. Nếu có sử dụng thì
cũng làm cho qua loa, đại khái, chuẩn bị bản đồ lên lớp nhưng không sử dụng,
hoặc sử dụng thì rất chiếu lệ, không đúng phương pháp, nguyên tắc nên các sự
kiện, hiện tượng lịch sử được học sinh ghi nhớ một cách thụ động, máy móc. Nên
hiệu quả cũng không cao thậm chí, phản khoa học. Gây nên tình trạng chán nản,
khó hiểu, học sinh mất hứng thú học tập, dẫn đến chất lượng bộ môn bị giảm sút.
Trong khi đó, bộ môn lịch sử lớp 7 – phần lịch sử Việt Nam - một giai đoạn lịch
sử có nhiều sự kiện to lớn, với nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Việc
giúp học sinh nắm vững kiến thức nội dung bài học, hình thành những biểu tượng

cụ thể về lịch sử…vai trò của bản đồ, lược đồ là rất quan trọng.
Vậy nên, việc sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học Lịch sử nói chung, vào
dạy phần lịch sử lớp 7 nói riêng, được xem là một trong những công cụ đem lại
hiệu quả tích cực trong việc đổi mới việc dạy và học. Nhằm giúp người học hiểu
sâu, nhớ lâu các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó, nâng cao chất lượng hiệu quả
giờ học, sự hứng thú, niềm say mê học tập bộ môn Lịch sử.
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng:
- Do cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều yếu kém: phòng thiết bị, đồ
dùng quá chật chội, đồ dùng của các môn xếp chồng chéo lên nhau; Bản đồ, lược
đồ thì không đầy đủ, hoặc có một số bản đồ đã quá cũ rách, thậm chí bị thất thoát
do giáo viên sử dụng, bảo quản chưa thật tốt và cán bộ phòng thiết bị làm việc
chưa nhiệt tình. Hiện tại nhà trường chưa có cán bộ quản lý phòng đồ dùng thiết
bị. Nên việc phân loại sắp xếp đồ dùng thiết bị còn rất hạn chế.
5


- Nhiều giáo viên khi lên lớp thường có tâm lý “ngại” sử dụng bản đồ, lược
đồ, vì mất rất nhiều thời gian chuẩn bị (tìm kiếm, chọn lọc bản đồ, nghiên cứu nội
dung bản đồ, nắm rõ yêu cầu nội dung bài học…). Vì vậy, nếu có sử dụng thì
cũng làm đối phó, chiếu lệ, cho thấy bản thân người giáo viên chưa hết mình
trong công tác giảng dạy vì học sinh thân yêu.
- Về phía gia đình học sinh: Nhiều gia đình chưa quan tâm hết mình đối
với việc học tập của con em mình, mải làm ăn kinh tế. Nên có gia đình cả bố và
mẹ đều đi làm xa nhà, gửi con cái cho ông bà chăm sóc, không kiểm soát chặt chẽ
được việc học tập của con em mình, không có thời gian trò chuyện, động viên con
cái học tập. Nhiều phụ huynh học sinh còn có tư tưởng “môn chính’, ‘môn phụ”
nên cũng làm ảnh hưởng tới tâm lý học tập của học sinh.
- Về phía học sinh: Đối tượng học sinh lớp 7, do độ tuổi còn nhỏ, ý thức
việc học của các em chưa được coi trọng, mục tiêu học tập chưa rõ ràng, lại thiếu
sự quan tâm của bố mẹ, nên nhiều em chưa nghiêm túc, chưa chịu khó học bài;

Nhiều em có tâm lý học lệch, hoặc chỉ cần học giỏi hai môn Văn, Toán là đủ…đã
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng bộ môn lịch sử.
2.2.3. Kết quả của thực trạng:
Qua điều tra khảo sát cho thấy việc dạy chay, học chay, khai thác kiến thức
không đúng phương pháp làm cho học sinh khó nắm bắt sự kiện lịch sử, dẫn tới
không hiểu bài, chất lượng bộ môn giảm, học sinh có tâm lý chán học môn Sử..
Điều đó được thể hiện rõ qua kết quả khảo sát cuối năm môn Lịch Sử lớp 7,
trường THCS Nga An năm học 2014 – 2015, khi giáo viên dạy lịch sử không sử
dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học, kết quả như sau:

Lớp
7A
7B
Tổng

Tổng
số
41
39
80

Giỏi
SL
4
2
6

%
9.8
5.1

7.5

Trung
bình
%
SL
%
26.8 15 36.6
17.9 15 38.5
22.5 30
37.5

Khá
SL
11
7
18

Yếu
SL
10
13
23

%
24.3
33.3
28.8

Kém

SL
1
2
3

%
2.4
5.1
3.8

Bảng 1: Kết quả khảo sát cuối năm học 2014-2015
2.3. Giải pháp thực hiện:
2.3.1. Nắm vững khái niệm:
Bản đồ lịch sử là một loại đồ dùng trực quan qui ước có thể giúp học sinh
xác định một cách cụ thể thời gian, không gian, nơi xảy ra các sự kiện, hiện tượng
và quá trình diễn tiến, vận động của sự kiện, hiện tượng.
Bản đồ không chỉ giúp học sinh tạo được những biểu tượng chân thực mà
còn giúp các em khắc sâu, nhớ lâu kiến thức. Việc sử dụng bản đồ thường xuyên
rèn luyện cho học sinh óc quan sát, kĩ năng đọc bản đồ và kĩ năng thực hành.
6


2.3.2. Đặc điểm của bản đồ lịch sử:
Bản đồ lịch sử là loại bản đồ đã được loại bỏ nhiều yếu tố của bản đồ địa lý
tự nhiên, chỉ đưa vào những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự kiện, hiện tượng
lịch sử: sông, núi…
Bản đồ lịch sử bao giờ cũng có đường phân định biên giới rõ ràng, phân
định các vùng miền liên quan đến sự kiện, có địa bàn phân bố dân cư, địa danh
xảy ra các sự kiện…
Bản đồ lịch sử bao giờ cũng có hệ thống các lí hiệu, ước hiệu thể hiện một

cách xác thực nhất những nội dung lịch sử. Những kí hiệu đó phải được đặt ở
bảng chú giải và rải rác trên bản đồ.
Ký hiệu, ước hiệu trong bản đồ lịch sử rất phong phú và mang tính tượng
trưng. Nổi bật trong các ký hiệu của bản đồ lịch sử là các loại mũi tên khác nhau,
chỉ hướng vận động mà chủ yếu là hướng tấn công hay rút lui của ta và địch có
màu sắc khác nhau.
Màu sắc của bản đồ cũng tuân thủ theo nguyên tắc chung: núi đồi màu
vàng, biển – đồng bằng màu xanh…
Đặc điểm màu sắc thể hiện: phía ta các mũi tên bao giờ cũng là màu đỏ
hoặc hồng; địch màu đen hoặc xám.
2.3.3. Các loại bản đồ lịch sử:
Bản đồ lịch sử gồm có hai loại chính: là bản đồ tổng hợp và bản đồ chuyên
đề, ở cấp THCS chủ yếu là loại bản đồ chyên đề.
Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một
nước hay nhiều có liên quan một thời kì lịch sử nhất định trong những điều kiện
tự nhiên nhất định: Bản đồ chiến tranh thế giới thứ nhất, Bản đồ chính trị thế giới
sau chiến tranh thế giới thứ hai…
Bản đồ chuyên đề: là loại bản đồ đi sâu tìm hiểu diễn biến của các chiến
dịch, các trận đánh trong một phạm vi không gian nhất định: Bản đồ chiến thắng
Rạch Gầm – Xoài Mút, Bản đồ chiến thắng Bạch Đằn năm 938…
2.3.4.Vai trò của bản đồ, lược đồ trong môn học lịch sử:
Việc sử dụng bản đồ, lược đồ là cần thiết không thể thiếu được trong điều
kiện hiện nay, đem lại nhiều kết quả về mặt giá dưỡng giáo dục và phát triển. Cựu
chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã từng nói: “Dạy Địa lý mà không có lược đồ thì
không dạy được, dứt khoát là không, dứt khoát là đừng dạy”. Đây là câu tổng kết
kinh nghiệm dạy học của các nhà sư phạm nổi tiếng thế giới. Còn đối với dạy học
lịch sử thì sao? Học tập lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong
quá khứ để hiểu về hiện tại và hướng tới tương lai. Việc tái tạo bằng cách nào
ngoài những phương tiện hiện có của người thầy thì lược đồ, bản đồ giáo khoa là
một bộ phận khăng khít không thể tách rời trong dạy học lịch sử, tạo biểu tượng

về không gian, thời gian. Hoàn cảnh địa lý diễn ra các sự kiện lịch mà không có
lược đồ, bản đồ thì học sinh không thể tiếp thu một cách có khoa học và niềm tin
cụ thể. Lược đồ trong SGK được chọn lọc và trình bày những tri thức hết sức cơ
7


bản, là một lượng thông tin đáng kể được phản ánh thông qua ngôn ngữ kí hiệu,
giúp học sinh hình dung một cách có cơ sở khoa học làm cho việc phản ánh thực
tế lịch sử diễn ra sinh động và đầy đủ giúp cho việc nhận thức lịch sử dễ dàng
hơn. Chính vì vậy, môn học lịch sử trong nhà trường luôn gắn bó với lược đồ, bản
đồ.
Lược đồ, bản đồ là một nguồn tư liệu lịch sử quan trọng giúp cho thầy và
trò có khả năng nhìn bao quát các sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Giúp học sinh
mở rộng kiến thức, cho phép các em có cách hình thành mối quan hệ nhân quả,
phát triển óc tư duy lô gich, hình thành thế giới quan duy vật, xây dựng tinh thần
yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
2.3.5. Các giải pháp cụ thể:
2.3.5.1 Nắm vững nội dung kiến thức bài học:
Đây là một yêu cầu quan trọng của người giáo viên dạy học bộ môn Lịch
sử, trong đó có phần lịch sử Việt Nam lớp 7. Đây là một giai đoạn lịch sử quan
trọng của dân tộc, có nhiều sự kiện trọng đại, những biến cố lớn lao của dân tộc.
Nếu không nắm vững nội dung kiến thức bộ môn, kiến thức từng bài học, giáo
viên rất dễ “hiện đại hóa” lịch sử hoặc xa vào dạy Lịch sử Đảng, hoặc kể chuyện
lan man, hoặc trình bày bài giảng theo lối thông báo kiến thức… Từ đó, không thể
khai thác một cách triệt để những tác dụng to lớn của bản đồ, lược đồ vào dạy các
cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta trong giai đoạn lịch sử này, biểu tượng về
các vị anh hùng gắn liền với những thắng lợi đó sẽ bị mờ nhạt. Ví dụ: khi dạy
“Bài 25: Phong trào Tây Sơn”, thực chất là giáo viên phải nhấn mạnh, khẳng định
công lao to lớn của 3 người anh em họ Nguyễn, nhất là người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ (Quang Trung) với các chiến công: lật đổ các tập đoàn phong kiến

Nguyễn, Trịnh, Lê và đánh tan quân xâm lược Xiêm, Thanh (giáo viên đều phải
sử dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học, mới làm cho giờ học trở nên sinh động,
kiến thức có hệ thống. Từ đó, giúp học sinh hiểu sâu và nhớ lâu nội dung kiến
thức bài học).
2.3.5.2. Sưu tầm, chọn lọc bản đồ, lược đồ:
Các loại bản đồ, lược đồ có liên quan đến nội dung kiến thức bài học đều
được in vào phần kênh hình trong SGK. Giáo viên muốn tường thuật một cuộc
kháng chiến thì không thể cầm cuốn SGK nhỏ trên tay để tường thuật được. Làm
như vậy rất phản khoa học, học sinh rất khó quan sát và khó tiếp thu, thậm chí
gây nên tâm lý chán nản và bức xúc. Vậy nên, chúng ta phải sử dụng bản đồ cỡ
lớn đủ để học sinh cả lớp có thể quan sát và dễ nắm bắt. Có nhiều cách để giáo
viên tìm kiếm bản đồ, lược đồ.
2.3.5.3. Tìm bản đồ có sẵn trong phòng thiết bị của nhà trường:
Trong vài năm qua, các nhà trường đã đã được trang bị rất nhiều đồ dùng,
thiết bị dạy học do Công ty cổ phần bản đồ và tranh ảnh giáo dục cung cấp. Trước
khi lên lớp, giáo viên chỉ cần đăng kí mượn bản đồ có liên quan đến nội dung kiến
thức bài học, cán bộ thiết bị sẽ tìm kiếm và chuẩn bị trước để giáo viên chủ động
8


lên lớp. Đây là một công việc quan trọng hàng đầu, và thường xuyên không thể
thiếu của người giáo viên dạy lịch sử, trong đó có bộ môn lịch sử lớp 7 - phần lịch
sử Việt Nam.
2.3.5.4. Vẽ bản đồ:
Tuy nhiên, không phải bất kì một bản đồ, lược đồ, đồ dùng dạy học nào
cũng đều có đủ trong phòng thiết bị. Ở một số trường học, cơ sở vật chất, thiết bị
còn yếu kém, thiếu thốn, có nhiều đồ dùng dạy học đã bị mất hoặc bị hư hỏng. Để
đảm bảo việc dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động học tập của
học sinh, giáo viên không thể dạy chay đối với những bài học yêu cầu phải có bản
đồ, lược đồ. Vậy nên, vẽ bản đồ cũng là một trong những yêu cầu quan trọng của

người giáo viên dạy học lịch sử, nhất là phần lịch sử Việt Nam lớp 7. Đối với
những giáo viên có năng khiếu, chúng ta có thể tự vẽ; hoặc giao cho 1 học sinh –
nhóm học sinh vẽ theo yêu cầu và hướng dẫn của giáo viên. Nhưng nhiều người
không có khả năng này thì chúng ta phải thuê người vẽ. Dù thực hiện dưới hình
thức nào, yêu cầu vẽ phải chính xác, rõ ràng, màu sắc, đường nét phải phù hợp…
Ví dụ: Khi vẽ lược đồ chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, phải tuân thủ yêu cầu:
Hướng tiến quân của ta là các mũi tên màu xanh, của quân địch là màu đen, hoặc
nâu, nước sông màu xanh nhạt, hướng rút chạy của quân giặc là màu đen đứt,…
2.3.5.5. Tìm kiếm trên mạng:
Hiện nay, do sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nhiều giáo viên thường
khai thác kiến thức, tìm kiếm bản đồ, lược đồ bằng cách truy cập vào Internet.
Việc tìm kiếm trên mạng cũng là một công việc khá hữu ích đối với giáo viên,
vừa nâng cao trình độ tin học vừa mang lại nhiều kiến thức phong phú cho người
giáo viên. Đặc biệt là có nhiều bản đồ, lược đồ liên quan đến nội dung kiến thức
bài học. Giáo viên có thể in ra giấy, hoặc sử dụng trực tiếp trên máy chiếu. Việc
sử dụng bản đồ, lược đồ trên máy chiếu có nhiều tác dụng nhất định: giảm bớt sự
cồng kềnh cho giáo viên khi phải “ôm” một số lượng nhiều bản đồ khi lên lớp,
nhiều bản đồ, lược đồ rất sống động vì được cài đặt hệ thống đèn phát sáng,…Vì
vậy, đây cũng là một trong những phương pháp dạy học gây nhiều hứng thú cho
học sinh.
2.3.5.6. Quy trình khai thác lược đồ, bản đồ trong dạy học lịch sử:
Để khai thác đúng phương pháp đồ dùng trực quan nói chung, bản đồ, lược
đồ lịch sử nói riêng, nhằm phục vụ cho các cuộc kháng chiến, các cuộc khởi nghĩa
trong bộ môn lịch sử lớp 7, người giáo viên cần tuân thủ và đảm bảo những
nguyên tắc sau:
Xác định thời điểm treo bản đồ, lược đồ:
Thời điếm treo bản đồ cũng là một yếu tố hết sức quan trọng trong kỹ năng
sử dụng bản đồ. Để gây sự chú ý, bất ngờ của học sinh, giáo viên phải xác định
thời gian treo bản đồ một cách phù hợp.
Ví dụ: Khai thác mục 3: Chiến thắng Bạch Đằng 4/1288- trong bài 14: “Ba

lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên (thế kỉ XVIII)”: Thời
9


điểm treo lược đồ thích hợp nhất là lúc nhận thấy thời cơ tiêu diệt quân Nguyên
đã đến và Vua Trần cùng với Trần Quốc Tuấn quyết định mở cuộc phản công và
tiến hành việc bố trí mai phục ở sông Bạch Đằng – Giáo viên treo lược đồ. Sau đó
thì đặt câu hỏi: Vì sao Trần Quốc Tuấn lại chọn sông Bạch Đằng để mai phục?
Giáo viên treo lược đồ yêu cầu học sinh dựa vào lược đồ để trả lời.
Xác định vị trí treo bản đồ, lược đồ:
Vị trí treo lược đồ cũng rất quan trọng, để học sinh trong cả lớp đều có thể
quan sát một cách rõ ràng. Ngoài ra, giáo viên nên cố định bản đồ bằng nam
châm. ( thông thường bản đồ thường được treo ở góc bên trái của bảng. Hết phần
khai thác giáo viên phải cuốn cất kịp thời).
Tư thế của giáo viên khi đứng chỉ bản đồ:
Có nhiều giáo viên không chú ý đến tư thế đứng của mình, khi tường thuật
bản đồ đã làm che khuất bản đồ. Vậy nên, để học sinh có thể quan sát hết bản đồ
và theo dõi phần tường thuật của giáo viên , yêu cầu người giáo viên phải đứng
nghiêng chếch so với bản đồ (có thể nghiêng chếch về bên phải hoặc bên trái)
Dụng cụ chỉ bản đồ:
Nhiều giáo viên đã coi nhẹ việc này, nên đã cầm thước kẻ để chỉ bản đồ,
lược đồ. Làm như vậy sẽ không đẹp mắt, phản cảm và thậm chí không hiệu quả vì
khi chúng ta cầm thước kẻ quá to thì việc khoanh vùng hoặc chỉ điểm sẽ không
chính xác.Vì vậy, giáo viên không nên dùng thước kẻ mà nên dùng que chỉ, bút
chỉ bản đồ, hoặc có thể dùng bút la de, giáo viên vừa đi lại vừa giảng giải ở nhiều
vị trí khác nhau, vừa tạo cảm giác thân thiện, gần gũi với học sinh.
Kĩ thuật đọc bản đồ:
- Giới thiệu tên của bản đồ và bảng chú giải
- Cách chỉ các điểm, các vùng, các dòng sông theo các hướng phải theo
đúng nguyên tắc: Chỉ các điểm thì chỉ đúng điểm diễn ra sự kiện, chỉ các vùng

phải khoanh rõ giới hạn của vùng xảy ra sự kiện, chỉ các dòng sông phải chỉ từ
thượng nguồn xuống hạ nguồn…
- Chỉ hướng vận động của các mũi tên phải theo diễn tiến và nội dung của
sự kiện.
- Khai thác nội dung trên bản đồ phải phải phù hợp với nội dung trong SGK
để đảm bảo tính hệ thống và lô gich của sự kiện.
- Giáo viên không nên thuyết trình một chiều duy nhất mà phải kết hợp với
việc trao đổi, đàm thoại của học sinh để tăng tính tích cực chủ động nhận thức của
học sinh. Như xen kẽ một vài câu hỏi gợi mở hoặc khai thác nội dung trong SGK,
hoặc yêu cầu học sinh trình bày một phần diễn biến của sự kiện hoặc nêu một số
địa danh…
Ví dụ: Khi khai thác nội dung mục 2: Chiến thắng Rạch gầm – Xoài
Mút(1785) trong “Bài 25: Phong trào Tây Sơn”. Trước khi hướng dẫn học sinh
tường thuật diễn biến, giáo viên nên đặt câu hỏi: Vì sao Nguyễn Huệ lại chọn
khúc sông từ Rạch Gầm đến Xoài Mút để làm trận quyết chiến với quân giặc?
10


Trận địa được bố trí như thế nào?... Hoặc khi giáo viên đang tường thuật diễn biến
ở đoạn: “Nguyễn Huệ dùng mưu nhử quân địch vào trận địa mai phục, thủy binh,
bộ binh của ta đồng loạt tấn công…Giáo viên có thể đặt câu hỏi: Bị tấn công bất
ngờ, mãnh liệt, thuyền chiến quân Xiêm như thế nào?...
- Để sử dụng bản đồ, giáo viên không chỉ nắm được những nguyên tắc cơ
bản mà quan trọng hơn nữa là phải nắm vững nội dung chứa đựng trong bản đồ để
cung cấp thêm nguồn kiến thức cho học sinh một cách xúc tích, gợi nhiều hình
ảnh hấp dẫn…
2.3.5.7. Bảo quản bản đồ, lược đồ:
Việc bảo quản bản đồ, lược đồ cũng là một trong những nội dung quan
trọng của quá trình hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh. Khi chúng ta
làm tốt việc làm này cũng góp phần giáo dục học sinh ý thức tốt về giá trị của bản

đồ, lược đồ và đồ dùng dạy học nói chung cho việc dạy và học; Đồng thời giáo
dục ý thức bảo vệ cơ sở vật chất, thiết bị của nhà trường ở mỗi học sinh. Rất
nhiều giáo viên coi nhẹ việc làm này, khi sử dụng xong đã không cuốn, cất vào
phòng thiết bị cẩn thận, mà dựng vào đâu đó, như phòng bảo về, văn phòng…Đây
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thiếu, mất bản đồ, lược đồ
trong phòng thiết bị của nhà trường.
2.3.5.8. Hướng dẫn học sinh quy trình vẽ bản đồ, lược đồ lịch sử:
Ngoài việc hướng dẫn học sinh khai thác đúng phương pháp và hiệu quả
của bản đồ, lược đồ trong giờ học lịch sử, thì giáo viên cũng cần hướng dẫn học
sinh cách vẽ bản đồ, lược đồ. Đây là một trong những phương pháp quan trọng
giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về bản đồ, lược đồ. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu
quả của việc khai thác và sử dụng bản đồ, lược đồ trong giờ học lịch sử nói
chung, phần lịch sử Việt Nam lớp 7 nói riêng. Ngoài ra, việc vẽ bản đồ, lược đồ
còn có tác dụng khắc phục được tình trạng thiếu đồ dùng trực quan, thiếu bản đồ,
lược đồ khi dạy học lịch sử. Mặt khác, còn góp phần nâng cao tính tự giác, tinh
thần lao động sáng tạo, sự tỉ mỉ, kiên nhẫn, chịu khó ở học sinh.
Các bước vẽ bản đồ, lược đồ:
Bước 1: Can bản đồ trên hình ảnh cần vẽ và can phóng to theo tỉ lệ phóng to theo
cỡ giấy yêu cầu.
Bước 2: Dùng bút chì xác định các vị trí địa danh thường là hình chấm tròn, điền
tên các địa danh.
Bước 3: Phác họa các đường ranh giới như biên giới, khu vực, sông, núi, ao hồ,
các mũi tên(đây là yêu cầu phức tạp đối với người vẽ, tuy nhiên cần sử dụng
phương pháp phác mảng - như môn Mĩ thuật hướng dẫn)
Bước 4: Kiểm tra các dữ liệu cần thể hiện trên đó.
Bước 5: Hoàn chỉnh và tô màu.
Bước 6: Lập bảng chú giải và ghi tên bản đồ, hoặc lược dồ.
Sau đây tôi xin trình bày một giáo án thực nghiệm:
Tiết 51 - Bài 25:
11



PHONG TRÀO TÂY SƠN (tiếp theo)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
- Từ giữa thế kỉ XVIII, chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong ngày càng suy yếu,
mục nát. Nông dân và các tầng lớp bị trị sục sôi oán giận. Khởi nghĩa Tây Sơn
bùng nổ trong bối cảnh đó.
- Nắm được những thành tựu to lớn của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn qua diễn biến
của phong trào.
2. Tư tưởng:
Bồi dưỡng ý thức căm ghét bọn bóc lột, ý thức về truyền thống đấu tranh
chống cường quyền của nông dân thời phong kiến.
Lòng yêu nước, tự cường dân tộc, căm thù bọn ngoại xâm và những kẻ chia
cắt đất nước.
3. Kĩ năng:
Dựa theo lược đồ trong SGK, xác định những địa danh đã diễn ra các chiến
thắng của nghĩa quân Tây Sơn (1771 - 1789)(đối chiếu với vị trí địa danh hiện
nay).
Kĩ năng quan sát và nhận xét về các sự kiện lịch sử đã diễn ra qua các lược
đồ trong SGK.
II. THIẾT BỊ, TÀI LIỆU:
1. Lược đồ Tây sơn khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến và chống
quân xâm lược nước ngoài.
2. Lược đồ chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút.
III. TIẾN TRÌNH DẠY - HỌC:
1. Ổn định:
2. Bài cũ:
3. Giới thiệu và dạy bài mới:
Sau khi dựng cờ khởi nghĩa, nghĩa quân Tây Sơn đã nhận được sự ủng hộ

của mọi tầng lớp nhân dân, lần lượt lật đổ các tập đoàn phong kiến Nguyễn,
Trịnh, Lê và đánh tan các cuộc xâm lược của quân Xiêm, Thanh. Cụ thể, các em
sẽ được tìm hiểu trong tiết 51 - Bài 25: Phong trào Tây Sơn
Hoạt động của giáo viên – học sinh

Hoạt động 1:
? Mùa thu năm 1773, nghĩa quân Tây
Sơn đã thu được thắng lợi ntn?
GV: (HS trả lời đúng). GV treo lược
đồ “Tây Sơn khởi nghĩa chống các thế

Nội dung ghi bảng
II. TÂY SƠN LẬT ĐỔ CHÍNH
QUYỀN HỌ NGUYỄN VÀ ĐÁNH
TAN QUÂN XÂM LƯỢC XIÊM:
1.Lật đổ chính quyền họ Nguyễn:

12


lực phong kiến và chống quân xâm
lược nước ngoài” vào góc trái của bảng
đen; GV đứng chếch về một bên, dùng
que chỉ giới thiệu tên lược đồ và bảng
chú giải, sau đó yêu cầu HS nhắc lại
nội dung bạn vừa trả lời, (HS vừa nhắc
lại GV vừa kết hợp với chỉ trên lược
đồ):
- Tháng 9 năm 1773, hạ phủ thành Quy
Nhơn.

- Chỉ trong vòng một năm (17731774), nghĩa quân Tây Sơn đã kiểm
soát một vùng rộng lớn từ Quảng Nam
ở phía bắc đến Bình Thuận ở phía nam.
=> Như vậy, nhờ có lược đồ HS mới có
thể trực tiếp quan sát được vị trí, phạm
vi kiểm soát của nghĩa quân một cách
trực quan, dễ hiểu và dễ nhớ.
? Biết tin Tây Sơn nổi dậy, chúa Trịnh
ở Đàng Ngoài đã có hành động gì?
HS trả lời, GV chỉ trên lược đồ.
?Nghĩa quân Tây Sơn ở vào tình thế
ntn? HS trả lời - GV chỉ trên lược đồ.
? Tại sao, Nguyễn Nhạc phải hòa với
quân Trịnh?
? Từ năm 1776-1783, nghĩa quân Tây
Sơn mấy lần đánh vào Gia Định? Kết
quả? HS trả lời - GV chỉ trên lược đồ. - Từ năm 1776-1783, nghĩa quân Tây
Sơn đã bốn lần đánh vào Gia Định.
- Trong lần tiến quân năm 1777, Tây
Sơn bắt được chúa Nguyễn, chỉ còn
Nguyễn Ánh chạy thoát. Chính quyền
họ Nguyễn ở Đàng Trong bị lật đổ.
Hoạt động 2:
2. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài
? Sau nhiều lần thất bại, Nguyễn Ánh Mút (1785):
đã làm gì? (Cầu cứu vua Xiêm)
* Nguyên nhân:
? Âm mưu và hành động của quân
Xiêm khi vào nước ta?
HS trả lời

- Năm 1784, 5 vạn quân Xiêm kéo vào
GV bổ sung, kết luận
xâm lược nước ta
- Giặc hung bạo, độc ác, cướp của,
13


giết người…
? Trước tình hình đó, Nguyễn Huệ đã => Nhân dân ta rất căm thù, tìm cách
làm gì?
chống trả.
(Tháng 1.1785 kéo quân vào Gia Định,
đóng đại bản doanh ở Mĩ Tho, chọn
khúc sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài
Mút ( Châu Thành -Tiền Giang) làm
trận quyết chiến với giặc).
? Vì sao Nguyễn Huệ lại chọn khúc
sông này?
( HS trả lời: Đoạn sông từ Rạch Gầm
đến Xoài Mút dài khoảng 6 km, rộng
hơn 1 km, có chỗ gần 2 km. Hai bên bờ
sông cây cối rậm rạp, giữa dòng có cù
lao Thới Sơn. Địa hình thuận lợi cho
việc đặt phục binh).
Như vậy, sau khi HS trả lời đúng,
GV treo lược đồ chiến thắng Rạch
Gầm – Xoài Mút lên góc bên trái của
bảng đen, giới thiệu tên lược đồ và
bảng chú giải. GV yêu cầu một HS
khác trả lời lại nội dung và kết hợp

với việc chỉ lược đố của GV (Làm
như vậy HS rất dễ hình dung ra lý do
Nguyễn Huệ chọn khúc sông Tiền từ
Rạch Gầm đến Xoài Mút. Sử dụng
xong GV thu lại ngay, tránh gây mất
tập trung của HS ).
- GV yêu cầu HS đọc phần diễn biến.
- HS đọc xong, GV yêu cầu các em chú
ý lên bảng.
(GV treo lại lược đồ chiến thắng
Rạch Gầm – Xoài Mút lên góc bảng
– GV đứng nghiêng chếch so với lược
đồ; dùng que chỉ giới thiệu lại tên
lược đồ; bảng chú giải; rồi tường
thuật lại diễn biến. Vừa tường thuật
GV vừa hỏi để thu hút sự chú ý của
HS, cụ thể như sau):
- Bố trí xong trận địa, mờ sáng ngày * Diễn biến:
19/1/1785, Nguyễn Huệ dùng mưu nhử
14


quân địch vào trận địa mai phục. Thủy
binh ta từ Rạch Gầm, Xoài Mút và cù
lao Thới Sơn đồng loạt xông thẳng vào
đội hình đang xuôi theo dòng nước.
GV hỏi: Bị tấn công bất ngờ và mãnh
liệt quân Xiêm ntn?
HS trả lời (GV kết hợp với việc chỉ
lược đồ):

- Bị tấn công bất ngờ và mãnh liệt,
chiến thuyền quân Xiêm bị đánh tan
tác hoặc bị đốt cháy. Binh lính Xiêm bị
tiêu diệt gần hết, chỉ còn vài nghìn tên
sống sót theo đường bộ chạy về nước.
Nguyễn Ánh thoát chết sang Xiêm lưu
vong.
GV yêu cầu một học sinh khá lên
tường thuật lại.
? Nêu kết quả trận Rạch Gầm – Xoài
mút?
? Hãy rút ra ý nghĩa chiến thắng trận
Rạch Gầm – Xoài Mút?
Gv bổ sung, kết luận

* Kết quả: Trận Rạch Gầm – Xoài
mút thắng lợi vẻ vang
* Ý nghĩa:
- Là một trong những trận thủy chiến
lớn nhất và lừng lẫy nhất trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc
- Đập tan âm mưu xâm lược của bọn
phong kiến Xiêm, bảo vệ nền độc lập
dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ.

IV. CỦNG CỐ BÀI:
? Em hãy tường thuật trên lược đồ chiến thắng trận Rạch Gầm – Xoài Mút?
V. BÀI TẬP:
GV hướng dẫn học sinh làm bài tập .


2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
2.4.1. Hiệu quả:
15


Sau một thời gian áp dụng sáng kiến, năm học 2015-2016 chất lượng học
tập của học sinh, cũng như kĩ năng tường thuật bản đồ, lược đồ của học sinh khối
7 đã được nâng lên rõ rệt. Học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức và có biểu tượng
chính xác về sự kiện, hiện tượng lịch sử. Hầu hết các em đều hứng thú, yêu thích
học môn Lịch Sử.
a. Kết quả năm học 2015-2016 cụ thể như sau:

Lớp
7A
7B
Tổng

Tổng
số
40
38
78

Giỏi
SL
14
4
18

%

35.0
10.5
23.1

Khá
SL
15
12
27

%
37.5
31.6
34.6

Trung
bình
SL
%
11 27.5
19 50.0
30 38.5

Yếu
SL
0
3
3

%

0
7.9
3.8

Kém
SL
0
0
0

%
0
0
0

Bảng 2: Kết qủa năm học 2015-2016
b. Kết quả học kì I năm học 2016-2017 - Theo mô hình “Trường học mới”
cụ thể như sau:
Có nội dung chưa
Tổng Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Lớp
hoàn thành
số
SL
%
SL
%
SL
%

7A
40
25
62.5
14
35.0
01
2.5
7B
41
20
48.8
19
46.3
02
4.9
Tổng
78
45
55.6
33
43.2
03
3.7
Bảng 3: Kết qủa học kì I năm học 2016-2017
c. Kết quả mũi nhọn năm học 2016-2017:
- Có 5/5 HS đạt giải cấp huyện, trong đó: 1 em đạt giải nhất , 2 em đạt giải
nhì, 2 em đạt giải 3
- 01 HS đạt giải cấp Tỉnh.
Đối chiếu bảng 1 với bảng 2 và 3, cho thấy việc áp dụng sáng kiến vào

giảng dạy, kết quả năm học 2015-2016, 2016 -2017 có sự thay đổi rõ rệt: số lượng
học sinh khá, giỏi tăng nhanh (năm học 2014- 2015, có 6 học sinh giỏi chiếm
7,5%, 18 học sinh khá chiếm 22.5%; đến năm học 2015-2016 là 18 học sinh giỏi
chiếm 23,1%, 27 học sinh khá chiếm 34,6%); Số học sinh kém từ 03 em - chiếm
3.8% xuống % học sinh kém, học sinh yếu từ 23 em - chiếm 28.8% xuống còn 03
em chiếm 3.8%. Học kì I – năm 2016-2017, có 45 em “hoàn thành tốt”, 33 em
“hoàn thành”, 03 em “có nội dung chưa hoàn thành”. Điều đó chứng tỏ việc sử
dụng bản đồ, lược đồ vào dạy học lịch sử là yêu cầu rất quan trọng, không thể
thiếu đối với người giáo viên dạy Lịch sử. Chất lượng bộ môn được nâng cao rõ
16


rệt, nhất là bộ môn Lịch sử 7 - phần lịch sử Việt Nam. . Đồng thời, mang lại sự
hứng thú và lòng say mê học lịch sử của các em.
2.4.2. Bài học kinh nghiệm:
Từ kết quả nêu trên, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sử dụng bản đồ lịch
sử để đạt được hiệu quả như sau:
- Trước khi lên lớp, cần soạn bài chu đáo, nắm rõ mục tiêu, kiến thức nội
dung bài học.
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học trước khi lên lớp. Đối với những mục
cần sử dụng bản đồ, lược đồ cần xác định thời điểm thích hợp để treo bản đồ, lược
đồ. Tuyệt đối không treo lược đồ, bản đồ tùy tiện như: treo khi không sử dụng,
hoặc sử dụng xong không cuốn cất, sẽ làm phân tán sự chú ý của học sinh.
- Bản đồ thường được dùng để tường thuật diễn biến, bên cạnh đó chúng ta
cũng có thể dùng khi kiểm tra bài cũ, các tiết làm bài tập…
- Khi tường thuật, giáo viên cần sử dụng những từ ngữ giàu hình ảnh để
miêu tả, nhận xét, nêu cảm xúc…Điều đó, không chỉ tạo cho học sinh biểu tượng
sâu sắc về sự kiện mà còn giúp cho các em phát triển ngôn ngữ.
- Dù dạy học theo cách truyền thống hay hiện đại thì việc sử dụng bản đồ,
lược đồ vào dạy lịch sử vẫn luôn cần thiết và không thể thiếu đối với giáo viên và

học sinh. Trong năm học 2016- 2017, trường THCS Nga An là trường duy nhất
trong huyện đang thí điểm mô hình “Trường học mới”, bản thân cũng đã mạnh
dạn áp dụng đề tài vào giảng dạy môn Khoa học xã hội lớp 7. Kết quả, cho thấy
các em học sinh cũng rất hào hứng, tích cực và chủ động trong việc tiếp thu kiến
thức thông qua hệ thống bản đồ, lược đồ mà giáo viên cung cấp cùng với việc
khai thác tài liệu “Hướng dẫn học” của học sinh.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận :
17


Việc sử dụng và khai thác bản đồ, lược đồ là một khâu không thể thiếu
trong dạy học lịch sử nhất là ở các bài có kênh hình trong SGK. Hầu hết, các kênh
hình này đều chứa đựng lượng thông tin lịch sử cơ bản, yêu cầu giáo viên hướng
dẫn học sinh khai thác thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở cho học sinh dựa vào
kênh chữ để trả lời. Từ đó, giáo viên tổng kết cho học sinh ghi nhớ. Lược đồ, bản
đồ là một loại đồ dùng trực quan quy ước buộc giáo viên lên lớp phải nắm được
yêu cầu sử dụng và tuân theo trình tự khai thác nhất định, tránh thực hiện qua loa,
đại khái, chiếu lệ, làm mất thời gian, giảm tác dụng của kênh hình. Việc sử dụng
và khai thác bản đồ, lược đồ vào dạy học lịch sử một cách nghiêm túc và nhuần
nhuyễn là một trong những phương pháp đặc thù đặc trưng của bộ môn Lịch sử.
Vậy nên, việc áp dụng đề tài vào giảng dạy lịch sử tại trường THCS Nga An,
trong vài năm học qua đã chứng minh tính đúng đắn, thiết thực, sự cần thiết và
hiệu quả của đề tài mà bản thân đã áp dụng.
3.2. Kiến nghị:
Từ những điều nói trên, tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
- Phòng Giáo dục và Đào tạo Nga Sơn, nên tổ chức thường xuyên các buổi
chuyên đề, ngoại khóa, thao giảng cụm chuyên môn để trao đổi kinh nghiệm về
việc sử dụng đồ dùng dạy học, nhất là bản đồ, lược đồ vào dạy học lịch sử nói

chung, bộ môn lịch sử lớp 7 - phần lịch sử Việt Nam nói riêng.
- Nhà trường nên thường xuyên mua bổ sung những bản đồ, lược đồ đã hư
hỏng, hoặc bị mất. Cán bộ quản lý thiết bị nên tích cực hơn trong việc chuẩn bị đồ
dùng dạy học cho giáo viên khi lên lớp.
- Về phía giáo viên khi lên lớp phải sử dụng bản đồ, lược đồ; những bản đồ,
lược đồ đã hư hỏng hoặc bị mất cần vẽ lại và làm mới, nhất thiết không dạy chay,
học chay, hoặc dùng bản đồ, lược đồ đã hư hỏng, nhàu nát.
- Trong khi sử dụng bản đồ, lược đồ phải tuân thủ các nguyên tắc.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Phượng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
18


1. SGK Lịch sử lớp 7, SGV Lịch sử lớp 7, Tài liệu hướng dẫn học - Môn
KHXH lớp 7
2. Luật Giáo dục năm 2005.
3. Phương pháp luận sử học - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Từ điển Thuật ngữ Lịch sử phổ thông - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Phương pháp dạy học Lịch sử - NXB Giáo dục.


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI
ĐỒNG KHOA HỌC CẤP HUYỆN, CẤP TỈNH XẾP LOẠI
19


Họ vá tên: Nguyễn Thị Phượng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS Nga An –Nga Sơn Thanh Hóa
TT

Tên đề tài
1. Hoạt động ngoại khóa trong
giờ dạy môn Lịch sử ở
trường THCS
2. Hoạt động ngoại khóa trong
giờ dạy môn Lịch sử ở
trường THCS
3. Đổi mới kiểm tra, đánh giá
góp phần thúc đẩy đổi mới
phương pháp dạy học lịch
sử ở trường THCS.
4. Chức năng giáo dục của bộ
môn Lịch sử ở trường
THCS
5. Hình thành kĩ năng, phương
pháp sử dụng bản đồ, lược
đồ vào dạy phần Lịch sử
Việt Nam lớp 7.
6. Sử dụng kiến thức liên môn
vào giảng dạy nhằm nâng

cao chất lượng môn Lịch sử
lớp 9 ở trường THCS
7. Sử dụng kiến thức liên môn
vào giảng dạy nhằm nâng
cao chất lượng môn Lịch sử
lớp 9 ở trường THCS
8. Hình thành kĩ năng, phương
pháp sử dụng bản đồ, lược
đồ vào dạy phần Lịch sử
Việt Nam lớp 7.

Cấp đánh
giá
Huyện

Kết quả
xếp loại
A

Năm học

Tỉnh

C

2006-2007

Huyện

C


2008-2009

Huyện

C

2009-2010

Huyện

C

2012-2013

Huyện

B

2013-2014

Huyện

A

2014-2015

Huyện

B


2015-2016

2006-2007

20



×