Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp phương pháp trực quan trong dạy và học môn mỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.48 KB, 15 trang )

A. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Mỹ thuật là một trong những môn học đặc thù, giữ vai trò quan trọng trong
giáo dục thẩm mỹ ở trường phổ thông hiện nay. Đó là môn học về cái đẹp, khơi dậy
tư duy sáng tạo trong tâm hồn của lứa tuổi thiếu nhi. Dạy nghệ thuật nói chung và
dạy mỹ thuật nói riêng, không phải là đưa ra một công thức cứng nhắc để làm, để
vẽ mà điều cốt lõi quan trọng là lối tư duy, tạo điều kiện cho sự phát triển trí tưởng
tượng, khả năng quan sát, sáng tạo của các em.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy: phần lớn học sinh rất ham thích học vẽ.
Nếu như chúng ta biết học vẽ, nếu chúng ta biết xây dựng cho các em có ý thức học
tập tốt, tạo ra không khí thoải mái “vui mà học - học mà vui” thì sẽ tạo được hiệu
quả tốt nhất.
Là giáo viên giảng dạy bộ môn Mỹ thuật, tôi tự nhận thấy: Học sinh khi bước
đầu học bộ môn thường cảm thấy rất khó khăn để tiếp thu kiến thức môn học, bài
vẽ đang còn chậm và chưa đạt yêu cầu, làm cho các em tỏ ra chán nản, không có
hứng thú vẽ vì nghĩ rằng: mình không có khả năng theo kịp các bạn vì không có
năng khiếu. Nhưng sau một thời gian học tập, tiếp thu kiến thức và thấy đã nắm
được những phần cốt lõi của bộ môn thì sẽ đam mê, ham thích môn học và đạt
được kết quả tích cực.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Là một giáo viên mĩ thuật, việc tìm hiểu đề tài này nhằm củng cố kiến thức
đầy đủ, phong phú về các phân môn trong bộ môn mỹ thuật THCS, phong phú về
kiến thức về thường thức mỹ thuật cũng như kĩ năng thực hành, cảm quan mỹ thuật
để tạo một tâm thế vững vàng khi đứng trên bục giảng. Bên cạnh đó, giáo viên còn
thông qua thực tế đối tượng giảng dạy nhằm nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo ra phương
pháp dạy học tích cực, có khoa học nhằm truyền đạt kiến thức và rèn luyện kĩ năng
sư phạm. Đồng thời tạo được chất lượng tốt cho học sinh. Từ đó, giáo viên có biện
pháp cụ thể để động viên, khuyến khích học sinh có tư duy mỹ thuật và kiến thức
bổ trợ tốt đồng thời khắc phục những hạn chế kiến thức ở một số học sinh.
- Học sinh có vốn kiến thức cơ bản về thường thức mĩ thuật, có kiến thức kĩ
năng cảm nhận thẩm mĩ, có kiến thức kĩ năng mĩ thuật và phương pháp học có


hiệu quả.
- Giúp học sinh thấy được tầm quan trọng của một số kiến thức mĩ thuật
trong trong cuộc sống và trong việc học tập.
- Kích thích và làm cơ sở cho sự “sáng tạo”,“sự hứng khởi, sôi nổi” và “tích
cực” của học sinh qua từng tiết học. Từ đó, tạo không khí “học mà chơi, chơi
mà học” gạt bỏ được áp lực học tập, tạo cảm giác cho học sinh thích thú trong
giờ học. Hình thành ý thức học tập chủ động và nghiên cứu vấn đề có hiệu quả.
- Giáo dục học sinh có ý thức trong việc bảo tồn và phát huy giá trị nghệ
thuật nói chung và mỹ thuật nói riêng của Việt Nam và thế giới. Thông qua đó,
học sinh hình thành cảm quan cái đẹp trong nghệ thuật cũng như trong cuộc
sống

1


- Đặc biệt, qua phương pháp này, giúp học sinh tiếp cận một phương pháp

học tập mới, tích cực, năng động và sáng tạo, kích thích tính tự học, tự nghiên
cứu của học sinh. Học sinh cũng có thể áp dụng phương pháp “Sơ đồ tư duy”
cho một số môn học khác có hiệu quả hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm.
- Kiến thức thường thức mỹ thuật Việt Nam và thế giới.
- Một số bài Vẽ theo mẫu, Vẽ trang trí và Vẽ tranh đề tài.
- Phương pháp dạy học tích cực kết họp truyền đạt truyền thống thông quasơ
đồ tư duy và trực quan hình ảnh.
- Kĩ năng trình bày vấn đề về cảm nhận giá trị thẩm mĩ.
- Ngôn ngữ tạo hình và màu sắc của các nội dung bài học thể hiện qua các giờ
học mỹ thuật.
- Rèn luyện ý thức thái độ và sự cảm nhận giá trị thẩm mỹ của học sinh thông

qua phân môn thường thức mỹ thuật.
- Các tiết học Thường thức mĩ thuật ở các lóp 6, 7, 8, 9 của học sinh trường
THCS Đông Yên. Có thể sử dụng đối với các phân môn: Vẽ trang trí, vẽ theo
mẫu, vẽ tranh đề tài trong nội dung lí thuyết.
- Học sinh các lóp 6, 7, 8, 9 trường THCS Đông Yên.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để tìm hiểu thành công đề tài với kết quả áp dụng được hiệu quả thì phương
pháp nghiên cứu góp một phần chủ yếu quan trọng. Đồng thời cần có sự kết họp
hài hòa giữa các phương pháp sau:
- Phương pháp “Sơ đồ tư duy”.
- Phương pháp trực quan, quan sát sư phạm, minh họa.
- Phương pháp điều tra, có phiếu điều tra.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp gợi trí tò mò cho học sinh.
- Phương pháp đặt vấn đề và giao nhiệm vụ.
- Phương pháp hoạt động nhóm.
Tùy theo nội dung từng bài học mà có sự kết hợp phương pháp dạy học phù
họp đế mang lại hiệu quả tốt cho quá trình dạy và học.

B. NỘI DUNG:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1. Sơ đồ tư duy là gì?

2


Trước tiên, chúng ta hiểu sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu
sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu ý tưởng. Ở giữa sơ đồ là ý tưởng trung
tâm, từ ý tưởng này phát triển ra các nhánh tượng trưng cho các ý chính (nhánh
chính). Các nhánh chính lại được phân thành những nhánh nhỏ để nghiên cứu ở

mức độ sâu hơn. Những nhánh nhỏ này lại tiếp tục được phân thành những nhánh
nhỏ hơn. Cứ như thế tạo nên sơ đồ tư duy.
Có thể nói sơ đồ tư duy là phương pháp được đưa ra để tận dụng khả năng ghi
nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để
phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy
tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tỉnh (ghi nhớ theo 1 trình tự nhất định
chẳng hạn như trình tự biến cố xuất hiện của 1 câu chuyện) thì não bộ còn có khả
năng tạo sự liên kết giữa các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai
khả năng này của bộ não.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng sơ đồ tư duy,
tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình vẽ, trong đó các đối tượng
liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách biểu diễn như vậy, các dữ liệu
được ghi nhớ và hấp thụ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều, sơ đồ tư duy biểu thị toàn bộ cấu
trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của
đối tượng, sự quan hệ hỗ tương giữa các khái niệm có liên quan và cách liên hệ
giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề lớn.
2. Phương pháp trực quan là gì?
Phương pháp Trực quan hay nói một cách khác là hình thức sử dụng trong quá
trình dạy học, có vai trò là công cụ để Giáo viên và học sinh tác động vào đối
tượng; có chức năng khơi dậy, dẫn truyền, tăng cường khả năng hoạt động của
các giác quan, góp phần tạo nên cảm giác cảm tính của đối tượng nhận thức nhằm
đạt được các mục đích dạy học cụ thể hay nói cách khác: Phương pháp Trực quan
là hình thức hay phương pháp dạy học đóng vai trò công cụ, được giáo viên hay
học sinh làm khâu trung gian tác động tới đối tượng dạy học.
Phương pháp Trực quan chính là phương tiện để nhận thức, chúng có chức
năng làm cho đối tượng nhận thức được bộc lộ một cách trực quan.
Phương pháp trực quan là nhóm phương pháp tổ chức dạy học sao cho học
sinh có thể sử dụng nhiều giác quan vào quá trình học tập. Phương pháp này sẽ
giúp học sinh hiểu sâu hơn, nhớ chính xác hơn và vận dụng kiến thức linh hoạt

hơn. Trong nhóm phương pháp trực quan đối với dạy học môn Mỹ thuật có thể sử
dụng một số phương pháp sau:
2.1. Phương pháp minh họa:
Phương pháp minh họa là phương pháp đưa ra những tư liệu trực quan bao
gồm như: tranh, ảnh, băng đĩa, máy chiếu...để minh họa cho nội dung mà giáo
viên cần trình bày. Ví dụ: Muốn học sinh hiểu được giá trị tác phẩm nghệ thuật,
đặc điểm của một trào lưu, trường phái nghệ thuật thì phải cho học sinh thấy được

3


tác phẩm dù chỉ là phiên bản. Muốn thực hiện được mục tiêu bài dạy cần phải có
phương tiện trực quan để minh hoạ cho nội dung bài giảng sau khi giáo viên đó
thuyết trình. Phương tiện trực quan bao gồm: Tranh, ảnh, băng, đĩa hình, máy
chiếu... Để minh hoạ đạt được kết quả tốt phương tiện trực quan để minh hoạ cần
đảm bảo một số yêu cầu sau:
+ Tư liệu minh họa phải sát với nội dung giáo viên truyền đạt.
+ Tư liệu minh hoạ cần đưa ra đúng lúc, hợp lý, vừa đủ và gắn bó với nội dung
bài giảng. Minh hoạ phải chọn lọc. Không nên đưa ra quá nhiều dẫn đến học sinh
không tập trung vào vấn đề trọng tâm của bài học. Những tác phẩm được chọn
lọc phải có đặc trưng tiêu biểu làm sáng tỏ nội dung cần truyền thụ. Minh họa
đẹp, phong phú, phương pháp trực quan hiện đại sẽ làm tăng thêm tính hấp dẫn
của tiết học và thuyết phục học sinh.
2.2 Tổ chức tham quan triển lãm, bảo tàng, các khu di tích văn hóa.
Là phương pháp tổ chức các buổi tham quan, ngoại khóa...Các bảo tàng, triển
lãm, khu di tích văn hóa là nguồn trực quan phong phú và đa dạng. Hoạt động này
sẽ giúp cho học sinh có thể hiểu sâu hơn những kiến thức được nghiên cứu trên
lớp. Đây là phương tiện trực quan sinh động nhất. Bởi vì học sinh được trực tiếp
nhìn, nghe, thưởng thức và cảm thụ thực sự trước những tác phẩm nghệ thuật
nguyên bản. Các hoạt động này gây hứng thú cho học sinh trong học tập, nghiên

cứu và sáng tạo thẩm mỹ. Hoạt động này có thể tổ chức thường xuyên, hoặc định
kỳ tuỳ theo tình hình thực tế của nhà trường. Hoạt động này có thể được tổ chức
dưới nhiều hình thức: nói chuyện ngoại khóa, xem băng đĩa, tham quan hội hè
truyền thống ở một số địa phương...
Phương pháp trực quan là phương pháp có hiệu quả đối với việc dạy học môn
Mỹ học. Để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học, biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo. Có thể nói theo cách khác là tích cực hóa quá trình
học tập của học sinh trong dạy và học môn Mỹ thuật cần sử dụng trực quan để
nêu và giải quyết vấn đề, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề để giúp học sinh
tư duy, tìm ra kiến thức mới tiềm ẩn trong các tác phẩm nghệ thuật.
Dụng cụ sử dụng cho phương pháp trực quan có thể hiểu là bao gồm: Giấy,
bút, màu, bảng, tranh ảnh,...; nó không chỉ bó hẹp ở hình, mẫu vẽ, tranh mẫu...mà
bao gồm cả âm điệu, giọng nói của người giáo viên, là cử chỉ và điệu bộ của
người giáo viên, là trình bày bảng, là vẽ minh họa của giáo viên...
Đối với đánh giá bài vẽ của học sinh, giúp học sinh củng cố và khắc sâu kiến
thức, chúng ta cần phải đánh giá ở ba cấp độ: tốt, trung bình, yếu, chỉ ra được cái
ưu cái nhược của từng bài, ở khâu này giáo viên thường để cho học sinh tự đánh
giá, nhưng theo tôi thì nó không hiệu quả lắm, bởi các em chưa đủ kiến thức cũng
như kinh nghiệm thẩm mỹ, việc đánh giá theo cảm tính cũng hay nhưng mất thời
gian và “a mơ tơ” trong nhận thức của các em, mà thời gian thì chúng ta lại không
có nhiều, vì vậy đây vẫn là một hoạt động cần nhiều thuyết trình của giáo viên.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐÊ:
Người ta cho rằng, thế kỉ XXI là thế kỉ của bộ não. Con người đứng trước kỉ

4


nguyên của trí tuệ, của sự sáng tạo với sức mạnh tiềm tàng của bộ não gần như vô
tận. Hai bán cầu đại não của con người có chức năng đặc trưng rất khác nhau.
Bán cầu não trái thiên về khả năng lôgíc khoa học như từ vựng, tư duy lôgíc, xử lí

dữ liệu, thứ tự, tuyến tính, khả năng phân tích, giải quyết tuần tự. Trong khi đó,
bán cầu não phải thiên về tiết tấu, tri giác không gian, tư duy tưởng tượng, mơ
mộng, màu sắc, ý thức chỉnh thể. Do vậy não phải thiên về các hoạt động nghệ
thuật, sáng tạo, tình cảm. Mặt khác, khi chất xám ở vỏ não phải hoạt động thì chất
xám ở vỏ não trái ở trạng thái tĩnh và suy tưởng. Cũng như vậy, khi chất xám ở vỏ
não trái hoạt động thì chất xám ở vỏ não phải lại thư giãn và tĩnh lặng.
- Con người luôn yêu cái đẹp, luôn muốn làm đẹp cho cuộc sống. Từ trong gia
đình đến ngoài xã hội, ở đâu cũng có sự sắp xếp, tô điểm của con người nhằm
làm cho mọi vật thêm đẹp, cuộc sống thêm vui tươi.
- Trong nhu cầu cao về thẩm mĩ đó, mỹ thuật đóng vai trò quan trọng với chức
năng thu hút và điều tiết cái gọi là “cảm thụ thẩm mĩ’ ở mỗi con người.
- Con người tạo ra cái đẹp nhưng đôi lúc không hiểu hết nó. Vậy, câu hỏi là:
Tại sao con người lại không hiểu được hết nó? Phải chăng kiến thức về cái đẹp
chưa thực sự đủ? Vậy thì phương pháp dạy và học này sẽ giúp ích rất nhiều cho
việc bổ trợ kiến thức nhanh và hiệu quả nhằm bù lấp vào chỗ thiếu ấy.
1. Thuân lơi
- Dạy học bằng sơ đồ tư duy và kết hợp trực quan hình ảnh là phương pháp
dạy học tích cực, kích thích được sự chủ động, tích cực làm việc theo cá nhân độc
lập suy nghĩ rồi tổng kết theo nhóm. Phát huy được khả năng sáng tạo tư duy và
tinh thần tập thể. Đây là cách làm việc khoa học, năng động, sáng tạo, phù hợp
với nhu cầu hiện đại hóa hiện nay.
- Sử dụng được nguồn tư liệu một các phong phú và hiệu quả.
- Qua đó, giúp học sinh tiếp cận tri thức, kiến thức nhanh và hiệu quả.
- Học sinh khắc sâu lượng kiến thức của bài học.
- Dạy học bằng cách sử dụng sơ đồ tư duy và kết hợp trực quan hình ảnh có
thể tích hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học. Mặt khác có thể khai thác CNTT tối đa và nguồn tư liệu phong phú, dễ trình
bày.
- Dạy học bằng cách sử dụng sơ đồ tư duy và kết hợp trực quan hình ảnh có
thể áp dụng cho tất cả các môn học khác. Cũng có thể sử dụng trong công tác

quản lí, công tác chuyên môn...
- Minh hoạ đẹp, phong phú, phương pháp trực quan sinh động sẽ làm tăng
thêm tính hấp dẫn của tiết học và thuyết phục học sinh, nó có tác động quan trọng
đến việc cảm nhận tác phẩm, hình thành nên nhận thức thẩm mỹ của các em.
- Nhà trường quan tâm đầu tư công nghệ thông tin cho dạy học. Vì thế góp
phần thuận tiện cho việc dạy và học của giáo viên, học sinh. Học sinh lúc nào
cũng có đủ đồ dùng, không bị quên ở nhà.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trên còn có những khó khăn sau:

5


- Nhà trường chưa có phòng học chức năng dành riêng cho bộ môn nên giáo
viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức, thu hút, tạo hứng thú cho học
sinh học tập. Bên cạnh đó trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học còn thiếu
thốn quá nhiều, chủ yếu là các tranh đã có ở SGK, các tranh minh họa chưa thực
sự tốt về bố cục, hình mảng, màu sắc...
- Từ khi bộ môn được đưa vào giảng dạy, nhà trường chưa tạo điều kiện cho
học sinh tham quan thực tế để các em có thêm kiến thức, thêm vốn hiểu biết để
làm bài tốt hơn.
- Những bức tranh đẹp của học sinh chưa có phòng trưng bày để khuyến khích
khả năng sáng tác tranh của học sinh, đồng thời còn để tạo điều kiện cho học sinh
học tập kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau học tốt hơn.
- Bên cạnh đó còn một số học sinh tỏ thái độ thờ ơ với môn học vì thực tế đời
sống dân trí còn nghèo, hầu hết là con em thuần nông nên điều kiện để phụ huynh
tập trung đầu tư cho học tập của các em còn hạn chế, điều đó ảnh hưởng không
nhỏ đến tinh thần học tập của các em.
3. Biện pháp thực hiện:
Trong bài Đặc trưng của nghệ thuật hội hoạ, phương pháp sử dụng sơ đồ tư

duy kết hợp phương pháp trực quan được sử dụng tùy theo phân môn và có sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp trực quan: máy chiếu (CNTT), đồ dùng dạy
học... với bảng viết.
Với các hoạt động được thiết kế cho phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy kết
hợp phương pháp trực quan được coi như nội dung bài học cần tìm hiểu. Giáo
viên không thuyết trình như cách dạy truyền thống, học sinh chủ động làm việc,
tiếp cận tìm hiểu nội dung, kiến thức mới với sơ đồ tư duy dưới sự hướng dẫn của
giáo viên. Trên cơ sở đó, dạy Mỹ thuật sẽ được tích cực hóa. Khi tự mình tìm ra
kiến thức mới, học sinh dễ hứng thú, say mê, nắm bài chắc hơn vì đó là sự ghi
nhớ chủ động.
Cách tổ chức giờ dạy Mỹ thuật là ứng dụng của phương pháp nêu và giải
quyết vấn đề. Trong đó trực quan là một phần nội dung bài giảng. Tuy nhiên
không có phương pháp nào là tuyệt đối, cần được kết hợp với nhiều phương pháp
như thuyết trình, vấn đáp để đạt được mục đích đưa học sinh cùng tham gia vào
hoạt động dạy- học, bộc lộ năng lực cá nhân. Như vậy quá trình dạy học mới
được tích cực hóa. Giáo viên có thể nhận thức được trình độ của học sinh ngay
trong giờ học. Từ đó có kế hoạch và phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng.
Một trong những phương pháp hay sử dụng nhất trong giảng dạy mỹ thuật đó
là phương pháp trực quan, có thể nói bước đầu tiên để người giáo viên giúp học
sinh tiếp cận với mỹ thuật đó là các hình ảnh trực quan, thông qua nó chúng ta tổ
chức tiết học một cách hợp lý nhất để học sinh tiến hành các thao tác tư duy bao
gồm: Với các hoạt động thiết kế, sử dụng phương pháp minh hoạ, phương pháp tổ
chức tham quan và phương pháp hướng dẫn học sinh làm giáo cụ trực quan được
áp dụng trong quá trình dạy học môn Mỹ thuật, tôi nhận thấy học sinh nắm bài tốt
hơn, say mê hơn. Giờ Thường thức mỹ thuật không còn khô khan và trừu tượng

6


nữa. Từ đó học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về các môn lý thuyết.

Dẫn chứng trình tự các biện pháp và các bước tiến hành trong một tiết dạy như
sau:
Hoạt động 1: Giáo viên đặt vấn đề vào bài mới
- Cho học sinh xem một số tư liệu, hình ảnh liên quan đến nội dung bài học
mới. Đồng thời viết đề bài lên bảng.
- Trước khi cho xem các tư liệu, hình ảnh, Giáo viên nêu rõ yêu cầu để hướng
sự quan sát của học sinh vào trọng tâm bài. Đây chính là cách nêu vấn đề có tình
huống xây dựng bài toán nhận thức, cung cấp cho học sinh các hình ảnh về bài
học. Trong đó hàm chứa mâu thuẫn giữa kinh nghiệm, sự hiểu biết của học sinh
về tác phẩm đó với khả năng tìm hiểu để giải quyết vấn đề đã nêu ra.
Hoạt động 2: Tiến trình nội dung bài học
- Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành sơ đồ tư duy theo nhóm trong vòng 5
phút hoạt động trên cơ sở các yêu cầu của Giáo viên đặt ra trong phần dặn dò của
bài học trước, khuyến khích học sinh biểu diễn sơ đồ tư duy logic, phong phú về
màu sắc và hình dáng, tạo sự hứng khởi cho học sinh.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, tìm hiểu về đặc điểm nội dung với
hệ thống yêu cầu của giáo viên theo cá nhân học sinh.
- Học sinh quan sát, cảm nhận hiểu biết thông qua những vấn đề gợi mở của
giáo viên như: tranh, ảnh, mẫu vật...
Hoạt động 3: Tiến trình nội dung bài học
- Giáo viên tổ chức học sinh thảo luận theo nhóm.
- Giáo viên gợi ý học sinh trình bày và tìm hiểu nội dung bài học bằng việc trả
lời các câu hỏi gợi mở mà giáo viên đã hệ thống từ trước.
- Sau mỗi nội dung, giáo viên sử dụng phương pháp trực quan để diễn giải vấn đề
rõ hơn. Đồng thời trình tự từng nội dung để hoàn thành sơ đồ tư duy cơ bản trên bảng.
- Tổ chức cho các tự đặt câu hỏi tranh luận, học sinh nhận xét của nhóm mình
và phản hồi ý kiến của nhóm bạn, tìm ra đáp án cho vấn đề cần giải quyết.
- Giáo viên nhận xét, tuyên dương những sơ đồ tư duy tốt và những nhóm
trình bày tốt nội dung bài học.
Hoạt động 4: Củng cố - Dặn dò

- Giáo viên đánh giá giờ học, nhận xét ưu điểm, hạn chế của từng học sinh
trong các hoạt động để rút kinh nghiệm cho các giờ học sau.
- Giáo viên tổng kết ý kiến của học sinh đưa ra nhận định và kiến thức đúng
của vấn đề.
- Giáo viên giải quyết các câu hỏi tranh luận của học sinh nếu chưa giải quyết
trong quá trình tranh luận của học sinh.
- Dặn dò học sinh học bài cũ. Tìm hiểu nội dung bài mới. Hướng dẫn làm và
chuẩn bị giáo cụ cho tiết học hôm sau.
4. Hiệu quả của phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp phương pháp trực quan trong
dạy Mĩ thuật:

Kết quả học kì II năm học 2014 -2015

7


Lớp
6A
6B

Tổng số
34
%
34
%

Khả năng
nhận biết
34
100%

34
100%

Khả năng
thông hiểu
22
64,7%
21
61,8%

Khả năng
tư duy
9
26,5%
13
38,2%

Sản phẩm của học sinh sau tiết học 31 – Bài: Một số công trình tiêu biểu của Mĩ thuật Ai Cập,
Hy Lạp, La Mã thời kỳ cổ đại::

8


V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Phạm vi nghiên cứu:
a) Phân môn vẽ trang trí, vẽ theo mẫu, vẽ tranh đề tài:

9



- Áp dụng trong hoạt động: tích hợp lí thuyết trong các phần hướng dẫn cách

vẽ.
Chúng ta cần giúp các em căn bản lại những màu gốc (màu cơ bản), màu nhị
hợp hay các màu bổ túc. Qua đó hướng dẫn các em hiểu rõ sự phong phú, hài hoà
của màu sắc khi sử dụng vào bài vẽ. Đồng thời giúp các em hiểu rõ sự hài hoà của
màu sắc trong trang trí nói chung và trong trang trí ứng dụng nói riêng. Bên cạnh
đó, chúng ta cần đi sâu vào các bài trang trí ứng dụng, qua các bài trang trí ứng
dụng trong chương trình, các em sẽ hiểu rõ hơn về cách trang trí ứng dụng phải
như thế nào, màu sắc trong các bài trang trí ứng dụng phải phù họp với thời gian,
không gian và thích hợp với đối tượng cần trang trí. Ví dụ như trong trang trí đĩa
tròn, màu sắc trong trang trí đĩa đựng thức ăn cần nhẹ nhàng, hài hoà. Còn màu
sắc trong trang trí đĩa treo tường cần sử dụng màu phong phú phóng khoáng hơn.
Hay màu sắc khi “kẻ chữ trang trí” cần rõ ràng, sử dụng một đến hai màu chứ
không nhất thiết phải sử dụng nhiều màu, tránh loè loẹt trong bài kẻ chữ dẫn đến
chưa phù hợp với yêu cầu bài trang trí.
Để các em cảm thụ được màu sắc theo nội dung cần đạt, giáo viên phải lồng
ghép các kiến thức màu sắc cũ ở lớp sáu vào chương trình bài giảng. Đồng thời,
sưu tầm và giới thiệu cho các em các bài vẽ trang trí ứng dụng, những đồ vật
trang trí ứng dụng thực tế đẹp mắt. Qua đó, giúp các em biết phân tích quan hệ
các màu sắc đặt cạnh nhau, quan hệ giữa các mảng chính, mảng phụ của bài vẽ...
nhằm tạo tiền đề về khả năng hoà sắc, khả năng sử dụng gam màu chủ đạo trong
một bài trang trí sau này.
b) Đối với phân môn thường thức mỹ thật:
Sơ đồ tư duy là công cụ hỗ trợ, bổ trợ kiến thức quan trọng trong việc tiếp
nhận những thông tin về tác giả, tác phẩm hay giá trị nghệ thuật. Sơ đồ tư duy hệ
thống hóa kiến thức một cách khoa học giúp cho học sinh nắm kiến thức một
cách ngắn gọn và logic.
Hình thành tư tưởng, thái độ yêu quí trân trọng giá thù trị nghệ thuật của nhân
loại ngay bây giờ là vấn đề cần thiết. Nói cách khác theo tôi: dạy cho học sinh

THCS hình thành được thái độ biết trân trọng giá trị nghệ thuật, hình thành kĩ
năng thẩm mỹ là nhiệm vụ cần thiết và yêu cầu quan trọng hơn giáo dục để các
em hình thành những kĩ năng thực hành cao siêu về mỹ thuật.
Sơ đồ tư duy còn hình thành cho học sinh kĩ năng vận dụng màu sắc hình vẽ,
bố cục... Sự hứng thú của học sinh sẽ được kích thích thông qua việc thực hành
đó.
Bên cạnh đó, phương pháp trực quan bằng hình ảnh miêu tả, bổ trợ nội dung
sẽ giúp cho học sinh nắm kỹ hơn nội dung bài học, từ đó mang lại hiệu quả hơn
cho tiết học.
Ví dụ: Khi nói đến giá trị nghệ thuật của tác phẩm “Ấn tượng mặt trời mọc”:
Tác phẩm ấn tượng mặt trời mọc là đặc trưng và đại diện cho phong cách nghệ
thuật của trường phái hội họa ấn tượng. Nét vẽ phóng khoáng, bằng những nét
mạnh mẽ không trau chuốt. Sự lấp lánh của buổi bình minh mờ ảo qua từng nét

10


vẽ chấm phá xa gần tạo nên sự lung linh muôn sắc của buổi bình minh thơ mộng.
Nếu chỉ nghe như vậy, học sinh không thể hình dung hết được giá trị nghệ thuật
của tác phẩm được. Đến đây, phương pháp trực quan làm được điều đó bằng việc
cho học sinh xem trực tiếp bức tranh.

Học sinh sẽ quan sát một bức tranh với nội dung, đường nét và màu sắc rõ
ràng kết với hoạt động tư duy và tổng hợp theo nhóm sẽ giúp cho các em hiểu vấn
đề nhanh và hiệu quả hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của giáo viên và cách học
của học sinh. Giáo viên không chỉ chú ý đến phương pháp truyền đạt mà còn phải
tạo dựng cho học sinh phương pháp tiếp nhận, để cuối cùng là kiến thức đến với
học sinh một cách dễ dàng, nhanh và sâu sắc hơn. Như định hướng đổi mới

phương pháp dạy học: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh.
Qua quá trình giảng dạy tôi đã áp dụng các phương pháp dạy học nêu trên vào
giảng dạy ở phân môn thường thức mỹ thuật và các tiết nội dung tích hợp vào
thực hành, và đã phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, đem lại hiệu
quả cao.
Bên cạnh đó, đây là phương pháp dạy học mới, việc tiếp cận với phương pháp
này học sinh cũng như giáo viên phải có thời gian làm quen. Mặt khác, vấn đề
điều kiện khó khăn vất vả cũng như thiếu thốn về kinh tế và thông tin của HS
trường THCS Đông Yên đã phần nào ảnh hưởng đến kết quả khi áp dụng đề tài

11


này.
1. Ý nghĩa của SKKN đối với công việc giảng dạy, giáo dục và những nhận định
chung về việc áp dụng và khả năng phát triển SKKN
1.1.Tính tối ưu của sơ đồ tư duy:
Sơ đồ tư duy giúp HS học được phương pháp học hiệu quả: Việc rèn luyện
phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn
học kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau
quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng
kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc
nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng
tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy trong dạy học HS sẽ học
được phương pháp học, tăng tính độc lập tư duy và phát triển tư duy.

Sơ đồ tư duy - giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho
thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy
nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc sử dụng sơ đồ tư duy giúp HS
học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS tự vẽ sơ đồ
tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS, phát triển năng khiếu hội
họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,...), đường nét
(đậm, nhạt, thẳng, cong...), các em tự “sáng tác”, thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày
kiến thức của từng HS và sơ đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân
trọng “tác phẩm” của mình.
Trong dạy học, Sơ đồ tư duy góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Giáo viên có
thể sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình soạn giảng, bố cục nội dung bài dạy; vẽ sơ đồ
hoá kiến thức thông qua việc liên kết các mắt xích kiến thức cho từng bài, từng
chương, từng phần kiến thức; hệ thống nội dung ôn tập để học sinh có cái nhìn tổng
quát về kiến thức đã học, từ đó dễ dàng ôn tập và khắc sâu kiến thức hơn; cấu trúc ra
đề kiểm tra bằng cách đưa ra các ma trận nhằm phân bố lượng kiến thức, mức độ kiến
thức cần kiểm tra cho hợp lí; phân tích cách giải các bài tập định tính cũng như định
lượng, đưa ra những kiến thức chính cần giải bài tập cũng như các kiến thức liên quan,
từ đó đưa ra các bước giải trình tự và cách trình bày rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Học
sinh có thể sử dụng Sơ đồ tư duy để học tập tích cực, chủ động và sáng tạo hơn; có
thời khoá biếu và thời gian biểu học tập cụ thể, rõ ràng; từ đó tìm ra phương pháp học
phù hợp cho bản thân để việc học trở nên đơn giản, nhớ lâu, ngày càng yêu thích môn
học và kết quả học tập tốt hơn.
1.2. Dạy học bằng phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy và kết hợp phương pháp
trực quan là phương pháp dạy học tích cực và mang lại hiệu quả:
Trong quá trình dạy - học bản thân tôi nhận thấy sự cần thiết của phương pháp dạy
học tích cực là tối ưu cho sự tiếp thu của Học sinh. Bên cạnh đó, trực quan hình ảnh sẽ
góp phần rất lớn cho “dung lượng nhớ” và “tính tích cực” của Học sinh. Bởi vậy, dạy
học theo phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp trực quan hình ảnh sẽ kích thích
cho bộ não và giúp cho Học sinh dễ ghi nhớ và việc học đạt hiệu quả tích cực hơn.


12


Khổng Tử đề cao tính tích cực, tư duy độc lập của người học: khi yêu cầu học trò
kết hợp với suy nghĩ. Khổng Tử đề cao tính tích cực của người học và ngược lại. Theo
ông: học mà không suy nghĩ thì sai lầm và ngược lại chỉ suy nghĩ mà không học thì
nguy hiểm. Khổng Tử đòi hỏi người học phải nêu cao tính độc lập tư duy.
Phương pháp dạy học có sử dụng sơ đồ tư duy là phương pháp tương tác sư phạm,
nói cách khác là: Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ kích thích tính tự học và tìm tòi, nghiên cứu
của Học sinh trước khi đến lớp. Trong tiết học Giáo viên đúc kết kiến thức và nâng
cao kiến thức liên quan bài học. Muốn tiết học có hiệu quả thì cả hai bao gồm GV và
HS nghiên cứu trước bài học. Điều này sẽ thúc đẩy ý thức học tập của HS.
Sơ đồ tư duy sẽ là công cụ hệ thống kiến thức và biểu diễn kiến thức, nội dung
hiệu quả tối ưu. Giúp người dạy và người học hệ thống hóa kiến thức kĩ năng và khoa
học.
1.3. Phương pháp Trực quan là công cụ minh chứng và là công cụ diễn giải vấn
đề rõ hơn, giúp người học và người dạy dễ dàng tiếp cận thông tin. Hay nói một
cách khác: Phương pháp Trực quan là yếu tố biện luận, giải thích, làm rõ vấn đề
mà nội dung của sơ đồ tư duy đưa ra:
Thông qua trực quan hình ảnh, người dạy dễ giải thích vấn đề hơn, nhờ vậy vấn đề
sẽ được truyền đạt nhanh và có hiệu quả.
Thông qua trực quan hình ảnh người học dễ dàng tiếp thu, dễ hiểu vấn đề hơn: Ví
dụ: Một vấn đề nếu chỉ thuyết trình bằng ngôn ngữ thì người nghe tiếp thu ít hiệu quả
hơn so với người nghe khi vấn đề đó được thuyết trình một cách sinh động bằng việc
đi kèm hình ảnh minh họa.
Ví dụ khác: Một đứa trẻ khi nghe từ: Cá sấu. Để hiểu được ngay thì hơi khó.
Nhưng nếu chúng ta cho đứa trẻ đó xem hình ảnh một con cá sấu thì nó sẽ hiểu được
ngay và nó sẽ hiểu rõ về hình dáng, màu sắc, chân, mõm...
1.4. Cái đẹp trong mĩ thuật và giá trị thẩm mĩ về cái đẹp là yếu tố trong bài học
thường thức mĩ thuật là hình thành thái độ thẩm mĩ, kĩ năng cảm nhận thẩm mĩ.

Nói đến cái đẹp đây là một phạm trù cơ bản , trung tâm của mỹ học, phản ánh giá
trị thẩm mỹ tích cực của các sự vật, hiện tượng thuộc hiện thực và tác phẩm nghệ
thuật được xem là hài hoà thẩm mỹ, hoàn thiện thẩm mỹ, đem lại cho con người sự
yêu thích thẩm mỹ trong sáng, tươi vui, kích thích khả năng tự nhận thức và sáng tạo
của con người vì những mục tiêu nhân văn.
Cái đẹp phản ánh bản chất, mối liên hệ có tính quy luật của các thuộc tính, các yếu
tố cấu trúc bên trong, phản ánh các biểu hiện, biểu cảm cụ thể - cảm tính, bề ngoài của
các sự vật, hiện tượng thuộc hiện thực. Trong phạm trù cái đẹp cũng thể hiện mặt chủ
quan của con người nhận thức cơ sở khách quan nói trên. Cái đẹp phản ánh mối quan
hệ của chủ thể thẩm mỹ đối với khách thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ nằm trong
hiện thực.
Một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo cũng được xem là cái đẹp- tác phẩm nghệ thuật
đẹp là tác phẩm có vẻ đẹp hoàn thiện.
Nghiên cứu những bài tập ở lớp, ở nhà. Từ đó so sánh đối chiếu với lí luận thực
tiến để rút ra kết luận và đề ra hướng khắc phục khoa học, hiệu quả.

13


Ở chương trình mỹ thuật THCS thì việc rèn luyện ý thức thẩm mĩ là vấn đề cốt yếu
hơn là rèn luyện kỹ năng vẽ hay tô màu...Cái quan trọng là hình thành ở học sinh
lượng kiến thức mĩ thuật và kỹ năng cảm nhận mĩ thuật, thái độ thẩm mĩ về cái đẹp.
“Cái đẹp” ở lứa tuổi học sinh trung học không phải là cái gì cao siêu, uyên bác như
các tác phẩm hội họa, nghệ thuật của các họa sĩ hay các nhà điêu khắc bởi hình vẽ,
màu sắc hay trừu tượng mà “Cái đẹp” ở học sinh trung học là cái đẹp đơn giản bởi cái
đẹp ở bởi sự gần gũi, thân thiện và trong sáng và tâm hồn cảm nhận của các em. Bởi
vậy, Giáo dục các em là giáo dục ý thức về cái đẹp, hình thành kĩ năng thẩm mĩ, giáo
dục về thái độ tôn trọng những thành quả lao động.
Cái đẹp nghệ thuật là một hình thức cao của cái đẹp thuộc sáng tạo thực tiễn - tinh
thần của con người, trong đó tác phẩm nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật đạt tới sự

hài hoà thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ. Một tác phẩm nghệ thuật đẹp gồm ba yếu tố
cơ bản tạo thành: Phản ánh chân thực, sáng tạo cuộc sống con người, xã hội trong tính
toàn vẹn, đa diện, cụ thể sinh động của chúng.
Có sự hài hoà và hoàn thiện thẩm mỹ về nội dung, về hình thức; Sự chân thành,
nồng nhiệt của tình cảm nhân đạo, sự tỉnh táo, triệt để của ý thức xã hội tiên tiến được
nghệ sĩ gửi gắm vào tác phẩm nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật. Một tác phẩm
nghệ thuật đẹp là một người bạn - người thầy nâng đỡ và hướng dẫn công chúng đi tới
chất người, có tính nhân văn, nhân đạo đích thực.
Giáo dục mĩ thuật cho học sinh THCS là giáo dục ý thức, cảm nhận hay kỹ năng
thẩm mĩ, kiến thức mĩ thuật là trọng tâm bên cạnh hình thành kĩ năng thực hành.
2. Kiến nghị:
Mỹ thuật là bộ môn rất quan trọng: Mỹ thuật hình thành kĩ năng thẩm mỹ, hình
thành thái độ về cái đẹp, yêu cái đẹp, trân trọng giá trị của cái đẹp và sáng tạo cái đẹp
cho cuộc sống. Dạy học mỹ thuật là dạy cho học sinh về những điều ấy, đó chính là
vấn đề cơ bản của việc hình thành “ý thức cơ bản” của con người.
BGH nhà trường, Phòng, Sở GD tổ chức các buổi tập huấn về chuyên môn, sinh
hoạt trao đổi chuyên môn, “sân chơi”.. .dành cho giáo viên mỹ thuật.
- BGH nhà trường, Phòng, Sở cần quan tâm và đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất,
thiết bị dạy học trực quan đối với môn học mĩ thuật như: Phòng học bộ môn, giá vẽ
cho HS, mẫu vật, tranh ảnh cho phân môn thường thức mĩ thuật...
Bố trí học sinh sử dụng phòng tin học buổi/tuần/lớp nhằm giúp các em tra cứu tài
liệu học tập.
Tổ chức định kỳ các cuộc thi mĩ thuật theo chủ đề do nhà trường, Phòng, Sở đặt ra.
Đây là phương pháp dạy học mới và tình trạng học sinh thực tại vẫn có lối học thụ
động, chưa sáng tạo, tự tìm tòi, nghiên cứu nên khó thực hiện. Trong quá trình thực
hiện rất mong các đồng nghiệp góp ý.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 3 năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

14


III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Văn Thuỳ - Bài giảng mĩ thuật- Phương pháp giảng dạy mĩ thuật. Nhà xuất bản
Giáo dục 2006.
Nguyễn Quân - Phan Cẩm Thượng, Mĩ thuật của người Việt, 1989.
Trần Đình Châu, Sử dụng Sơ đồ tư duy - một biện pháp hiệu quả hỗ trợ HS học tập
môn toán, Tạp chí Giáo dục, kì 2, tháng 9-2009.
1. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy; Sơ đồ tư duy-công cụ hiệu quả hỗ trợ dạy
học và công tác quản lý nhà trường, Báo Giáo dục&Thời đại số 147.

15



×