Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 12a1, 12a3 trường THPT quan sơn tiếp cận bài rừng xà nu (nguyễn trung thành) theo sơ đồ tư duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.06 KB, 19 trang )

Trường THPT Quan Sơn

TT
A
1
2
3
4
B
I
II
1
2
III
1.

1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
1.6
2
2.1
2.2
3
IV
C
I
1
2


II

GV: Lê Thị Luyến
MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang
MỞ ĐẦU
02
Lí do chọn đề tài.
02
Mục đích nghiên cứu.
03
Đối tượng nghiên cứu.
03
Phương pháp nghiên cứu.
03
NỘI DUNG SKKN
04
CƠ SỞ LÍ LUẬN
04
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHÊN CỨU.
04
Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
04
Nguyên nhân của thực trạng.
04
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
05
Khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt

05
động vẽ SĐTD trên lớp, những tiện ích và những hạn chế của
phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa.
Khái niệm SĐTD.
05
Cấu tạo.
05
Các bước thiết kế một sơ đồ tư duy.
06
Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp.
07
Những tiện ích của việc sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ
07
văn.
Những hạn chế của Phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa.
08
Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy
09
học.
Làm quen với SĐTD.
09
Các hình thức sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học.
11
Vận dụng SĐTD hệ thống kiến thức một tác phẩm văn học.
15
(Giáo án minh họa giờ dạy chuyển sang phần Phụ lục)
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.
15
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
16

Kết luận.
16
Tích cực.
16
Hạn chế.
16
Kiến nghị.
17
A. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.
Từ nhiều năm nay, việc dạy môn Ngữ văn được thực hiện theo phương
pháp truyền thống thiên về lí thuyết, thầy cô giáo soạn bài giảng, truyền thụ đến
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
1
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

học sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy, ghi nhớ và vận dụng vào bài
kiểm tra. Cứ như thế thành một nhu cầu khép kín. Phương pháp dạy học này có
những ưu điểm riêng không thể phủ nhận được. Tuy nhiên trong môi trường
giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ không ít nhược
điểm như: Học sinh học thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ không tự
nghiên cứu, tìm hiểu. Như thế hậu quả khó tránh khỏi là học sinh dần dần mất đi
năng lực tư duy, tự cảm thụ tác phẩm mà chỉ chấp nhận và sao chép lại cảm thụ
của thầy cô. Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng lại đặt vài câu hỏi chiếu lệ

sẽ không thể nắm bắt được hiệu quả tiếp thu cũng như quan điểm, thái độ của
học sinh. Cảm nhận văn học mang tính chủ quan của giáo viên không có sự phản
hồi từ học sinh sẽ trở thành khiên cưỡng, áp đặt. Giờ học văn vì không có sự
tương tác qua lại giữa thầy và trò nên dần trở nên buồn tẻ, nặng nề, không hứng
thú.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội môn Ngữ văn đã không
ngừng cải tiến chương trình, cải tiến phương pháp dạy học kèm theo đổi mới
kiểm tra, đánh giá nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng từ
giáo dục ở bậc tiểu học cho đến đào tạo đại học và sau đại học. Riêng ở phổ
thông, sự đổi mới thể hiện trên nhiều phương diện, rõ nhất là về chương trình,
sách giáo khoa và đặc biệt là phương pháp dạy học [07].
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là
thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy
học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng
kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm
tin, niềm vui hứng thú trong học tập [06].
Để đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương diện phương pháp, đáp
ứng tốt hơn Chuẩn kiến thức và kĩ năng quy định thì việc làm phong phú, sinh
động, khắc sâu đề tài…bằng một kỹ thuật mới đó là tổ chức các đơn vị kiến thức
trên hệ thống sơ đồ, ta vẫn gọi là sơ đồ tư duy, hay bản đồ tư duy. Nó không chỉ
giúp cho học sinh có sự hiểu biết sâu rộng, dễ tái hiện kiến thức Ngữ văn mà còn
góp phần chắp cánh cho những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn này.
Đồng thời, tạo hứng thú để học sinh tham gia học tập tích cực.
Từ mục đích đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin mạnh dạn
trao đổi kinh nghiệm của bản thân về việc áp dụng phương pháp dạy học theo
sơ đồ tư duy trong bài học “Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành” (tác phẩm
văn học ở chương trình Ngữ văn 12 – Tập 2).
2. Mục đích nghiên cứu.

Trong giờ văn học, giáo viên cần cung cấp kiến thức theo mục tiêu bài
dạy thông qua một số phương pháp, biện pháp, kĩ thuật cụ thể. Bên cạnh nhiệm
vụ đó, giáo viên còn phải khắc sâu, mở rộng, nâng cao kiến thức đã và đang học
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

2


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

cho học sinh nhằm đáp ứng từng mức độ nhận thức của học sinh, khêu gợi sự
hứng thú học tập, làm cho giờ học diễn ra sôi nổi hơn, học sinh ham học hơn,
không còn cảm thấy mệt mỏi, nặng nề khi đến tiết Ngữ văn. Từ đó giúp HS chủ
động chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng theo yêu cầu dạy học mới mà ngành đã đề ra.
Đó chính là mục đích để chúng tôi vận dụng sơ đồ tư duy nhằm hỗ trợ về
phương pháp giúp cho giáo viên có một cách tổ chức mới theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh và làm cho bài dạy nhẹ nhàng hơn mà hiệu quả đạt
được vẫn cao.
Mục đích nghiên cứu đề tài này là góp phần rèn luyện tính sáng tạo, tạo ra
động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh được tăng cường vận dụng
kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến
thức một cách máy móc. Đồng thời giúp các em tiếp cận tri thức một cách hiệu
quả nhất.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn.
- Áp dụng phương pháp dạy học theo sơ đồ tư duy trong bài “Rừng xà
nu” của Nguyễn Trung Thành nhằm giúp học sinh phát huy tính chủ động, sáng

tạo trong giờ đọc hiểu tác phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Các phương pháp lý thuyết: Đọc sách và tài liệu tham khảo có liên quan
đến đề tài, để khái quát vấn đề, làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực tiễn.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát theo dõi học sinh sinh hoạt
trong giờ học.
+ Phương pháp An két: Xây dựng một hệ thống câu hỏi ghi trên phiếu bài
tập, tìm hiểu mức độ nhận thức, biểu hiện, nguyên nhân của các em để có những
biện pháp khắc phục.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm những biện pháp
nhằm rèn luyện tính chủ động, sáng tạo cho học sinh trong thời gian giảng dạy
và so sánh kết quả thực nghiệm với thực trạng ban đầu chưa thực nghiệm, để
đánh giá kết quả thực nghiệm có thành công hay không.
+ Phương pháp trò truyện: Trong quá trình dạy học tôi thường xuyên trò
truyện gần gũi với học sinh, trong giờ học hay ngoài giờ học, nhằm tạo cho học
sinh tính tự tin, bạo dạn. Để thăm dò mức độ biểu hiện của học sinh, từ đó lập kế
hoạch hướng dẫn rèn luyện cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Từ lâu các nhà sư phạm tiền bối đã từng tâm đắc: tri thức của tuổi trẻ là
diện mạo của đất nước trong tương lai. Từ những năm 60 của thế kỉ trước đồng
chí Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn thầy giáo phải: “gõ vào trí thông minh” của
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
3
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.


Trường THPT Quan Sơn


GV: Lê Thị Luyến

học sinh, giáo dục là đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng tạo.
Sự thông minh sáng tạo phải xuất phát từ những hiểu biết rộng lớn, nó tạo cho
nền tảng tư duy được vững vàng hơn. Phải hiểu rộng, biết nhiều mới có thể
chuyên sâu, mới “làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học
vấn”. Muốn được như vậy, thì ngay hôm nay, thầy cô giáo phải tích cực, chủ
động vận dụng những thành tựu dạy học tiên tiến của loài người vào giảng dạy
cho học sinh, trong đó sơ đồ tư duy là một cách dạy học mới dựa trên cơ sở sơ
đồ hóa kiến thức mà từ trước đến nay chúng ta vẫn vận dụng để phân tầng kiến
thức, hệ thống chuỗi sự kiện hoặc thiết lập biểu bảng ôn tập tổng kết….
Mặt khác, nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy tính hiệu quả của việc
hình dung tri thức thông qua một sơ đồ hình nhánh, mỗi nhánh mang một thông
tin ngắn gọn được phát triển từ một vấn đề lớn đặt ở trung tâm... Một sơ đồ tư
duy cho phép ta thỏa sức vạch ra các ý tưởng, suy nghĩ đầy đủ trước khi đưa ra
một quyết định. Nếu cần xây dựng một kế hoạch làm việc, phân tích một vấn
đề…thì sơ đồ tư duy mang đến những giá trị lớn hơn nhiều so với việc bạn đặt
bút viết từ đầu đến cuối.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
- Thực tế trong nhà trường hiện nay nhiều giáo viên đã tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin, những tìm tòi trong công tác soạn giảng và tiếp cận lượng
lớn tư liệu dạy học. Tuy vậy về phương diện phương pháp và kĩ thuật vẫn còn
nhiều hạn chế nhất là cách thức giúp học sinh hiểu vấn đề nhanh, nhớ kiến thức
lâu và tái hiện nhanh khi cần thiết vận dụng.
- Trong một số tiết học, dù vẫn cố gắng thực hiện theo chủ trương giảm tải
nhưng cách tổ chức các đơn vị kiến thức vẫn còn rườm rà, kiểu như phải ghi
chép thành câu, đoạn hoàn chỉnh, có khi phải nhiều câu dài dòng, trong khi đó
chỉ cần một sơ đồ là học sinh có thể hiểu vấn đề thông suốt.
- Tình trạng học sinh học vẹt để đối phó trong kiểm tra đánh giá hiện nay

một phần do các em hiểu vấn đề chưa tường tận hoặc bị ràng buộc bởi “hành
lang ngôn ngữ diễn đạt” mà giáo viên đã sử dụng, các em không tự tin khi dùng
kho từ vựng của mình để diễn đạt, do không sử dụng nên nó cũng dễ mai một và
ngày một ít sắc bén hơn. Đặc biệt với môn Ngữ văn thì đây là một hạn chế lớn,
khi nói, viết được xem là yêu cầu quan trọng của học sinh.
- Những khó khăn trên nhất thiết phải có hướng khắc phục, trước tiên ta
hãy từng bước vận dụng hình thức tổ chức kiến thức theo lối sơ đồ tư duy để hỗ
trợ khi cần cho từng tiết dạy và có thể kiểm tra để thấy hiệu quả nhận thức của
học sinh.
2. Nguyên nhân của thực trạng.
- Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở địa phương nhiều năm qua: giáo viên
chưa thật sự quan tâm trong việc hình hóa kiến thức bài học. Trước đây, các tiết
ôn tập chương một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và cả lớp
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

4


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không
phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó
chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét.
- Giáo viên trình bày kiến thức chính xác phong phú, sinh động nhờ sự hỗ
trợ nhiều về yếu tố trực quan do công nghệ thông tin mang lại nhưng vẫn chưa
đưa sơ đồ tư duy vào sử dụng đại trà để học sinh học tập hiệu quả hơn. Nhiều
phương pháp kích thích sự chủ động sáng tạo ở học sinh chưa được phát huy tối

đa vì thiếu thao tác sơ đồ hóa hoặc sử dụng với mật độ thấp.
- Chưa đổi mới cách ghi chép nội dung kiến thức bài học, theo kiểu kích
thích tư duy mà chủ yếu là quan tâm đến độ chuẩn của nội dung ghi. Do vậy, dù
ở lớp học sinh tích cực chủ động để phát hiện hiểu kiến thức nhưng khi học bài
cũ ở nhà thì rất thụ động.
- Để có kết quả học tập tốt, ở một số bộ môn học sinh phải học vẹt vì
phải nhớ kiến thức để trả lời câu hỏi mà theo các em, nội dung ghi của giáo viên
là chuẩn, là cách diễn đạt tốt nhất. Chính điều này dẫn đến hiện tượng học sinh
học thuộc để trả lời, đó cũng là nguyên nhân học vẹt ở học sinh.
- Một phần rất quan trọng, để trả lời câu hỏi: Tại sao lập sơ đồ để dạy học
là chuyện rất cũ mà trước đây giáo viên ít mạnh dạn vận dụng? Có lẽ một phần
do giáo viên ngại ghi chép theo kiểu vắn tắt, chẳng ngay hàng thẳng lối, thoát
khỏi quy cũ đề mục, mặc dù giáo viên nào cũng có thể hình dung được kiến thức
có thể thiết lập trên một sơ đồ. Phải chăng trước đây ta đã có sơ đồ nhưng ta
chưa thật sự đổi mới tư duy.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
1. Khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động
vẽ sơ đồ tư duy trên lớp, những tiện ích và hạn chế của phương pháp dạy
học theo sơ đồ hóa.
Để sử dụng một cách có hiệu qủa SĐTD trong quá trình dạy học, trước
hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó:
1.1. Khái niệm Sơ đồ tư duy (SĐTD).
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử
dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại
bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Sơ đồ tư duy
có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây”
ở giữa sơ đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các
nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ
được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm
thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến

thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh
tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng [01].
1.2. Cấu tạo.
- Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ
đề.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

5


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính
làm rõ chủ đề.
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ
mỗi ý chính.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một
mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung,
một đơn vị kiến thức nào đó [01].

Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy
1.3. Các bước thiết kế một SĐTD [01]:
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên
phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ
hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được).

Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ
chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính,
đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để
làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển
khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các
ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
*Lưu ý:
- Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các
nhánh con.
- Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu
hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
- Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

6


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

- Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ
đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
- Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên
dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
- Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần
thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.

- Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
- Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ,
viết, tô màu...
- Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
- Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
1.4. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp [02]:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua
gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện
SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài
giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn
bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học
sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
1.5. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ
Văn:
- Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả.
Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn
thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa
có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết
bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến
thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển
được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ
nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng
kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc
sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay

kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn luyện cho các em có
thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ
gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy [09].
- SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu
và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

7


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

mình. Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy
động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi
cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi
đó là “sản phẩm kiến thức hội họa” do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy
được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một
cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các
nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi,
hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội
dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
- Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên
tưởng (các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các
khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến

thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa
kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15
phút.
- Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung.
Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng
cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần
mềm Sơ đồ tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật
chất như Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử
dụng phần mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT.
Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
- Tăng sự hứng thú trong học tập.
- Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
- Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
- Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
- Ghi nhớ tốt hơn.
- Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
1.6. Những hạn chế của Phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa:
- Một số nội dung, định nghĩa, khái niệm khi sơ đồ hóa không truyền tải
hết nội dung khoa học của vấn đề.
- Sơ đồ hóa chưa phải là sự nhận thức đầy đủ về lý luận mà chỉ mới là
công cụ để xây dựng lý luận. Phải có sự kết hợp với các phương pháp khác để
mở rộng kiến thức, liên hệ với thực tiễn, gắn với các vấn đề đặt ra trong cuộc
sống.
- Nếu lạm dụng sơ đồ hóa sẽ gây ra tình trạng học sinh bị loạn trong kiến
thức, mất phương hướng trong việc tiếp thu kiến thức bài giảng.
- Với những giáo viên chưa sử dụng thành thạo máy tính và các phần
mềm hỗ trợ thì việc sơ đồ hóa nội dung kiến thức trên máy tính là tương đối khó
khăn.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp

cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

8


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy
học:
2.1. Làm quen với SĐTD:
* Đối với giáo viên: Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ có liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần
nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và
phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về
SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó
trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập
vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu
kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục).
Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công dụng của SĐTD, sử dụng thành
thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó
vào quá trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ
thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).
* Đối với học sinh: Người xưa có câu “Chưa học bò, chớ lo học chạy”.
Quả đúng như vậy. Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả
SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen
với một số sơ đồ tư duy có sẵn, để chí ít các em có cái nhìn khái quát về nó (tiếp
xúc nó, hiểu nó, rồi “bắt chước” vẽ nó). Đây là bước chuẩn bị hết sức quan
trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách

rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm
vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy
không thành công do các em mãi loay hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì,
vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các em chưa hình dung được SĐTD của bài
học trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ.
Vì vậy, theo tôi chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen”
với SĐTD, theo cách sau đây:
* Để tiết kiệm thời gian, lại khỏi phải làm cái công việc giới thiệu, hướng
dẫn cách vẽ SĐTD trở đi, trở lại hết lớp này đến lớp khác, giáo viên nên tham
mưu cho Ban Giám hiệu nhà trường, hoặc Chuyên môn nhà trường, chọn thời
gian thuận lợi ngay từ đầu năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với
Sơ đồ tư duy” (Tùy theo tình hình cụ thể của từng đơn vị trường mà có thể tổ
chức theo khối lớp giáo viên trực tiếp dạy, khối học sáng - chiều hoặc toàn
trường) để giới thiệu, cho các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các
em (Lưu ý rằng đây cũng là một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em
tiếp cận với một phương pháp, kĩ thuật dạy học mới). Để buổi ngoại khóa thành
công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các
dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ,
phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

9


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến


lịch, trên bảng phụ... Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo
các bước sau [02]:
Bước 1: “Làm quen”.
Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên
chọn vẽ SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo
dõi, tiếp thu tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa
kiến thức, học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu
cấu trúc SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng
dẫn cách vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD).
Bước 2: “Đọc hiểu”.
Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát.
Sau đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức)
được vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ
năng thuyết trình).
Bước 3: “Tập vẽ”.
- Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn
hình (hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Từ (Xét về cấu tạo)...
Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.
- Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp
1, cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)
* Lưu ý:
+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ
nhớ, dễ vẽ.
+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá
nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng
những cụm từ ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”
Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ

chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý
cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật
mạng lưới các ý trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
* Lưu ý:
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu
sắc, đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
+ Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ,
không quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”
- Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại
(Sơ đồ không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ
vẽ không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe
loẹt,... )
- Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

10


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

- Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
+ Như trên đã trình bày, SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn
trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các
em. Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác,
giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ
kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường

nét, màu sắc.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có
thể hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi
trong đó. Đây là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập
SĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài
trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì
mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những
giúp các em nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng
lực tư duy (Tư duy lô-gic, tư duy hệ thống...) rất tốt.
+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc
ôn tập, hệ thống kiến thức.
Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ lưỡng các bước trên cho các em,
tôi nghĩ rằng chắc chắn các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra
trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có ứng dụng SĐTD.
2.2. Các hình thức sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học.
* Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra.
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ
đối với rất nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các
đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn
khoăn khi nghe đề nghị dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay
kiểm tra một tiết. Sau đây là một vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng đồng nghiệp:
- Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ
đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD
thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết
hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định
hình được cách vẽ SĐTD theo yêu cầu.
Lưu ý:
Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động

cá nhân trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn
kiến thức đồng thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy cho các
em. Hết thời gian quy định, giáo viên chọn sơ đồ của một vài em (có thể vẽ xong
trước, có thể cần lấy điểm,...), chấm, nhận xét và ghi điểm cho các em; biểu
dương, khen ngợi những em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm tạo không khí học
tập sôi nổi. Đây là việc làm rất cần thiết của chúng ta.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

11


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Giáo viên chỉ cần dựa vào SĐTD chấm và ghi nhận điểm cho học sinh mà
không cần phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn dạng đề khá đơn giản,
nên những gì cần trả lời, các em đã thể hiện trong SĐTD, hơn nữa thời gian
kiểm tra bài cũ có hạn.
- Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy
(15 phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy
lô-gic, tư duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát
triển năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý
rằng kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ SĐTD chỉ là một hình thức
kiểm tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý
thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống,
xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng SĐTD. Ví dụ: lập SĐTD về
Từ loại (xét về cấu tạo, xét về ngữ pháp), về các Phương châm hội thoại, về Trau

dồi vốn từ, về Nghĩa của từ, Các cách phát triển từ vựng, ...trong phân môn
Tiếng Việt; lập SĐTD về hệ thống luận điểm, luận cứ trong một văn bản nghị
luận, về dàn ý của một kiểu văn bản nào đó...trong phân môn Tập làm văn; hay
lập SĐTD để khái quát, sơ đồ hóa kiến thức về một tác giả, tác phẩm nào đó, về
quá trình phát triển tính cách, tâm trạng...của một nhân vật trong tác phẩm
truyện hay mạch cảm xúc, trình tự kết cấu của một bài thơ...đối với phân môn
Văn học. Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm
từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần
kiểm tra trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác
yêu cầu đề và có thể vẽ đúng SĐTD theo yêu cầu.
* Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Lâu nay, việc sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy
học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc
sử dụng SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá,
chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến
thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Qua
trao đổi với anh chị em giáo viên trong tổ chuyên môn, trong trường, ở những
buổi sinh hoạt chuyên môn, hầu hết anh chị em đều có chung quan niệm xem
SĐTD là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết
dạy mà thôi. Ai cũng cho rằng không thể dùng SĐTD thay cho phần ghi bảng
của giáo viên được. Thực ra thì ta vẫn có thể thực hiện kết hợp chúng trong quá
trình dạy học bài mới. Qua một quá trình thử nghiệm chúng trong một số tiết
dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn có thể làm được. Không
những thế, việc kết hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với
việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được
rất nhiều thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói
quen ghi chép bằng SĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp phần rèn
luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho các em, nhất là những bài học nhằm giới thiệu, cung
cấp kiến thức.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp

cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

12


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Ví dụ:
Khi dạy bài “Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống”, sau khi giới
thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “NGHỊ LUẬN SỰ VIỆC, HIỆN
TƯỢNG ĐỜI SỐNG” lên bảng, rồi bắt đầu tiết học với mục Tìm hiểu bài. Giáo
viên vẽ nhánh chính thứ nhất, ghi tiêu đề “I. TÌM HIỂU BÀI”. Sau đó, cho học
sinh đọc văn bản “Bệnh lề mề” – SGK, giáo viên đưa ra các câu hỏi dẫn dắt các
em lần lượt tìm hiểu: vấn đề nghị luận của bài viết, biểu hiện, nguyên nhân, tác
hại, hướng khắc phục. Sau khi tìm hiểu xong văn bản, giáo viên chuyển sang
bước hai: hình thành kiến thức. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ hai, ghi tiêu đề “II.
BÀI HỌC”. Rồi dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt, phát triển các nhánh con: khái
niệm, yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức...tương tự như ở bước trên.
Cuối cùng là bước thứ ba “Luyện tập”, cách làm như trên. Kết thúc tiết dạy, ta
có SĐTD trên bảng đen như sau:

Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng SĐTD kết hợp trong việc dạy
học bài mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh
ghi. Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng
bước phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa
học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện
trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự
khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách

liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức
của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo
trên bảng đen (hoặc trên màn hình). SĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em
“bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

13


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó, chúng ta có thể dùng nó
như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi chép.
Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho
phép chứ không nên lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy.
Mặt khác, việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng
phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên
đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp (tìm hiểu bài, bài học, luyện tập), các ý
chính trong mỗi đơn vị kiến thức của bài học để học sinh thuận tiện trong việc
theo dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học
sinh quan sát SĐTD và thuyết trình - “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức
của bài học.
* Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học,
mỗi phần của bài học:
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi
bài học, giáo viên cho học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ SĐTD để củng cố, hệ
thống phần kiến thức đó, hoặc toàn bộ kiến thức của bài học.

Ví dụ:
Sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong văn bản “Bàn về đọc
sách”, giáo viên cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức của bài học. Dưới
đây là SĐTD củng cố, hệ thống kiến thức bài “Bàn về đọc sách":

* Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức:
Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để ôn tập và
hệ thống kiến thức đã học cho các em.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

14


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Tóm lại, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy trở thành một công
cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Việc sử dụng
SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực
và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng.
Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em không chỉ về trí
tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã
học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình
bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua
sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động
nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên
đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học.

Sử dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ
ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn
vào Sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được
nội dung bài học.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy
mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ
thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực
khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới
PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS.
3. Vận dụng SĐTD hệ thống kiến thức một tác phẩm văn học. (Vì
dung lương của một SKKN không được phép quá dài nên tôi xin được phép
chuyển Giáo án minh họa xuống phần Phụ lục)
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
Trong học kỳ II, năm học 2016 – 2017, tôi đã áp dụng giải pháp trên ở hai
lớp 12A1, 12A3 để không ngừng góp phần rèn luyện, khơi gợi khả năng sáng
tạo ở các em học sinh. Thực tế qua các giờ dạy tôi thấy đã kích thích được học
sinh khả năng học tập sáng tạo, tích cực, chủ động, say mê tìm hiểu kiến thức
mới một cách có hiệu quả. Giờ học sôi nổi, hấp dẫn và có hiệu quả hơn.
Kết quả

Trước thực nghiệm
Sau thực nghiệm
Số lượng HS
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Giỏi
04/ 61
6,0
10/ 61

16,0
Khá
24/ 61
40,0
34/ 61
57,0
Trung bình
25/ 61
41,0
13/ 61
21,0
Yếu
08/ 61
13,0
04/ 61
6,0
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy sau thực nghiệm chất lượng học tập
của học sinh được nâng lên rõ rệt. Cụ thể số học sinh giỏi tăng, học sinh trung
bình, yếu giảm đáng kể. Điều đó cho thấy đề tài bước đầu mang tính khả thi.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

15


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

I. KẾT LUẬN.
1. Tích cực
Sử dụng SĐTD sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm tòi xây
dựng kiến thức mới cho nhiều phân môn môn Ngữ văn. Nhờ sự liên kết các nét
vẽ cùng với màu sắc thích hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, SĐTD
giúp bộ não liên tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong
cuộc sống… để phát triển, mở rộng ý tưởng. Sau khi HS tự thiết lập SĐTD kết
hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của GV dẫn đến kiến thức của
bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học Ngữ văn ở lớp cho thấy,
sử dụng SĐTD trong dạy học kiến thức Ngữ văn giúp HS học tập một cách chủ
động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào
hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức kết hợp với hội họa” là niềm vui sáng
tạo hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh
HS khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn
phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì
trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để
chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ,
chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Gần đây, nhiều GV đã áp dụng thành công dạy học với việc thiết kế
SĐTD. Vận dụng SĐTD bước đầu tạo một không khí sôi nổi, hào hứng của cả
thầy và trò trong dạy học là một trong những nội dung quan trọng đóng góp vào
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ
GD&ĐT đang đẩy mạnh triển khai.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy
mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ
thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực
khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới
PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THPT nói chung và môn Ngữ văn nói
riêng.

2. Hạn chế.
Với đặc trưng riêng của môn Ngữ văn là một môn học mang tính công cụ,
điều quan trọng cần phải quan tâm là kĩ năng diễn đạt. Hiểu rành rọt là cơ sở để
nói tốt, viết tốt. Tuy nhiên, như vậy chưa hẳn đã đem lại hiệu quả cuối cùng, mà
cần tập cho học sinh kĩ năng thực hành viết với những yêu cầu của nó. Rõ ràng,
khi tạo lập một văn bản hành chính hoặc bày tỏ tư tưởng, quan điểm trước một
vấn đề xã hội hay văn học, học sinh không thể trình bày cho người đọc một sơ
đồ biểu diễn những ý với nhiều màu sắc hay hình ảnh được. Vậy là việc “diễn”
những từ ngữ ngắn gọn ra thành những khái niệm, câu hay đoạn văn hoàn chỉnh
là một thử thách đối với học sinh. Vì vậy, giáo viên chỉ vận dụng SĐTD như là
một phương pháp bộ phận và sẽ hỗ trợ khi thấy cần thiết, không nên lạm dụng.
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

16


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

II. Kiến nghị.
Tôi có kiến nghị với các cấp lãnh đạo nhà trường nên có thêm nhiều sách,
nhiều tài liệu tham khảo vào thư viện nhà trường. Và cần phải có phòng đọc
sách để học sinh có điều kiện học tập tốt hơn. Có kế hoạch phân phối thời gian
học phụ đạo, học bồi dưỡng cho học sinh một cách hợp lý để chất lượng học tập
của học sinh ngày một được nâng cao hơn.
- Hằng năm, Nhà trường phải chọn những sáng kiến kinh nghiệm hay đề
tài khoa học có chất lượng để triển khai cụ thể, vừa đem lại giá trị hiệu dụng vừa
phát huy những kinh nghiệm hoặc kết quả học tập mà giáo viên đã tâm huyết đã

miệt mài tìm tòi xây dựng. Tạo điều kiện để những đồng nghiệp học tập lẫn
nhau, góp ý cho nhau.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 05 tháng 05 năm
2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lê Thị Luyến

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

17


Trường THPT Quan Sơn
TT
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]

[8]
[9]

GV: Lê Thị Luyến

Tên sách và tác giả
Banr đồ tư duy – Hướng dẫn sử dụng bản
đồ tư duy. (Tony Buzan)
Lập bản đồ tư duy. (Tony Buzan)

NXB
Nxb Từ điển Bách
Khoa (04/2007)
NXB Lao động (Tái
bản 31/12/2016)
Tăng cường trí nhớ và khả năng tập trung.
NXB
Tổng
hợp
(Tony Buzan)
Tp.HCM. ( 08/2014)
Nền tảng và ứng dụng của Bản đồ tư duy.
NXB
Tổng
hợp
(Tony Buzan)
Tp.HCM. ( 03/2014)
SGK Ngữ văn lớp 12 (Tập 2)
Nxb Giáo dục Việt
Nam (01/2011).

Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục NXB Giáo Dục (2007)
THPT môn Ngữ văn. (Nguyễn Hải Châu)
Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường.
ĐHSP Huế (2002)
Rèn luyện tư duy sáng tạo trong giảng dạy NXB Giáo Dục (200)
văn chương. (Nguyễn Trọng Hoàn)
Nguồn Internet.

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

18


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Họ và tên tác giả: Lê Thị Luyến.
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Quan Sơn.
TT

1
2

3


4

5

6

7

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Hướng dẫn cách hành văn trong
văn nghị luận cho học sinh Sở GD&ĐT
Trường THPT Quan Sơn.
Hướng dẫn cách làm bài văn tự
sự cho học sinh lớp 10A1, 10A3, Sở GD&ĐT
10A4 Trường THPT Quan Sơn.
Một vài kĩ năng, bí quyết giúp
học sinh lớp 11A3, 11A4 và 12A2
Sở GD&ĐT
trường THPT Quan Sơn làm tốt
bài văn nghị luận xã hội.
Cách tiếp cận linh hoạt, sáng tạo
để dạy bài nghị luận về hiện Sở GD&ĐT
tượng đời sống.

Hướng dẫn cách tiếp cận phần
văn học nước ngoài theo thể loại
Sở GD&ĐT
cho học sinh lớp 10A1 và 10A5
trường THPT Quan Sơn.
Hướng dẫn cách làm bài tập dạng
Đọc – hiểu cho học sinh lớp
Sở GD&ĐT
12A1, 12A2 Trường THPT Quan
Sơn.
Hướng dẫn học sinh lớp 11A1,
11A3, 11A4 trường THPT Quan
Sở GD&ĐT
Sơn tiếp cận bài “Chí Phèo” theo
hướng tích hợp liên môn.
--------------------------------------

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2004 - 2005


C

2008 - 2009

C

2009 - 2010

C

2010 - 2011

C

2012 - 2013

C

2014 - 2015

C

2015 - 2016

Đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 12A1, 12A3 Trường THPT Quan Sơn tiếp
cận bài “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) theo sơ đồ tư duy.

19




×