SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO PHẦN ĐỌC - HIỂU VĂN
BẢN CỦA HỌC SINH TRONG KÌ THI THPT QUỐC
GIA - MÔN NGỮ VĂN.
Người thực hiện: Nguyễn thị Mỹ Hằng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn ): Ngữ Văn.
THANH HÓA NĂM 2017
MỤC LỤC
1
Tên mục
Trang
------------------------------------------------------------------------------------------------I. Mở đầu……………………………………………………………………3
1.1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………… 3
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………. 4
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………… 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………. 4
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm……………………………………... 4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm…………………………… 4
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…….. 7
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề…………………….. 8
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường…………………………….. 18
III. Kết luận, kiến nghị……………………………………………………. 19
3.1. Kết luận……………………………………………………………….. 19
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………… 19
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………20
I. Mở đầu:
2
1.1. Lí do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới kì thi THPT quốc gia, môn
Ngữ Văn đã có những thay đổi lớn trong nội dung và quy cách ra đề nhằm tiến
tới kiểm tra toàn diện các kĩ năng cần có của học sinh. Trong đó, một trong số
những kĩ năng đầu tiên, căn bản và thiết yếu nhất của học sinh THPT là kĩ năng
đọc - hiểu văn bản.
Tuy nhiên, qua thực tế dạy - học và kết quả của kì thi THPT Quốc gia
trong những năm đầu đổi mới ở phạm vi nhà trường nơi tôi công tác, tôi nhận
thấy phần kiến thức lẫn kĩ năng đọc hiểu của học sinh nhìn chung vẫn còn thiếu
và yếu. Các em còn gặp rất nhiều lúng túng trong cách trình bày, cách diễn đạt,
cách vận dụng kiến thức đã học vào từng dạng câu hỏi cụ thể. Cho dù học sinh
đã được học các kiến thức và kĩ năng về đọc hiểu văn bản từ cấp THCS và tiếp
tục được đề cập tới ở cấp THPT nhưng những kiến thức và kĩ năng đó còn rời
rạc, thiếu sự liên kết, từ đó dẫn đến việc học sinh không đủ những kĩ năng cần
thiết để vận dụng lí thuyết về đọc hiểu vào thực hành trên các văn bản cụ thể.
Như đã đề cập ở trên, SGK Ngữ Văn hiện hành của cả 3 khối ở cấp THPT
nhìn chung đã không còn đáp ứng kịp những yêu cầu đổi mới trong kiểm tra
đánh giá ở kì thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn, trong đó có những kĩ năng cần
thiết cho việc đọc hiểu văn bản. Cụ thể, SGK Ngữ Văn 10, 11, 12 hiện nay mới
chỉ có các kiến thức về thao tác lập luận, phong cách ngôn ngữ, các biện pháp tu
từ phục vụ cho phần đọc hiểu mà chưa có phần luyện tập cho học sinh kĩ năng
đọc hiểu trên các văn bản cụ thể.
Mặt khác, các câu hỏi được đưa ra ở phần đọc hiểu thường rất đa dạng,
không theo một khuôn mẫu cụ thể bởi nó còn tùy thuộc vào ngữ liệu mẫu được
đưa ra. Vì vậy, nếu giáo viên không chú trọng vào việc định hướng phương
pháp, kĩ năng cụ thể cho học sinh thì một điều chắc chắn là các em sẽ rất dễ
lúng túng hoặc hoàn toàn làm theo bản năng, nghĩ gì viết nấy, thậm chí không ăn
nhập gì với câu hỏi đưa ra. Kết quả là phần đọc hiểu này sẽ chiếm nhiều thời
gian trong dung lượng thời gian của toàn bài ( có thể đến 50 phút hoặc hơn,
trong khi các em có thể làm ở khoảng 30-35 phút nếu thuần thục kĩ năng và nắm
vững kiến thức cơ bản của phần này ) khiến bài Văn khó hoàn thành trong 120
phút, từ đó dẫn đến hiệu quả bài làm thường không cao.
Tất cả những vấn đề trên buộc những giáo viên của bộ môn Văn phải băn
khoăn, trăn trở, tự học, tự nghiên cứu cách thức nhằm hướng dẫn cho học sinh
cách làm phần đọc hiểu một cách khoa học nhất, đạt hiệu quả cao nhất.
Hơn nữa, tuy phần đọc hiểu chỉ có 3,0 điểm trong toàn bài thi nhưng đây
lại là phần đầu tiên của đề thi mà nếu làm tốt phần này, các em sẽ tự tin và có
tâm thế tốt hơn cho các phần bài làm tiếp theo.
Hiện nay, việc ôn thi cho đối tượng học sinh chuẩn bị bước vào kì thi
THPT Quốc gia môn Ngữ Văn chủ yếu chỉ dựa vào việc tự học, tự nghiên cứu
và kinh nghiệm của bản thân giáo viên là chủ yếu, cộng thêm việc trao đổi với
đồng nghiệp nhưng kết quả còn hạn chế; chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu
về cách làm phần đọc hiểu này.
3
Vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân đúc rút
được qua nhiều năm hướng dẫn học sinh ôn tập cho kì thi THPT Quốc gia.
Mong rằng những kinh nghiệm của tôi sẽ có điều kiện được triển khai sâu rộng
hơn để mang đến những kết quả cao hơn cho công tác dạy học của nhà trường
THPT, cũng là tạo cho học sinh sau khi tốt nghiệp THPT có thể tiếp cận được
với những văn bản ở mức độ khó hơn trong thực tiễn cuộc sống của chính các
em.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp học sinh đạt kết quả khả quan hơn trong kì thi THPT Quốc gia.
- Góp phần nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trong đời sống
thực tiễn vô cùng đa dạng chứ không chỉ ở phạm vi thi cử.
- Giúp cho bản thân có cơ hội tự học, tự bồi dưỡng kiến thức nhằm tháo gỡ một
số khó khăn, vướng mắc trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp cận với phần
đọc hiểu văn bản; từ đó nâng cao năng lực về chuyên môn nghiệp vụ, góp phần
từng bước nâng cao chất lượng dạy học của bản thân.
- Nhằm chia sẻ và trao đổi trong nhóm chuyên môn của nhà trường nơi tôi đang
công tác để các thành viên có cơ hội tích lũy thêm kiến thức nhằm phục vụ cho
công tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn được tốt hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu: Những kiến thức và kĩ năng làm phần đọc hiểu văn
bản trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được xây dựng trên cơ sở theo một số
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tìm hiểu phạm vi, mục đích
yêu cầu, hệ thống kiến thức của phần đọc hiểu trong kì thi THPT Quốc gia.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Trên cơ sở những
bài làm thực tế của học sinh để thống kê cách làm, số lượng bài đạt yêu cầu, số
lượng không đạt về kĩ năng và kiến thức,…
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Từ số liệu thống kê để biết được cần bổ
sung những kĩ năng gì cho HS, sữa chữa những lỗi sai cơ bản nào trong bài làm
của học sinh.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Khái niệm và mục đích đọc hiểu văn bản:
2.1.1.1. Khái niệm:
- Đọc là hoạt động dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ viết, dùng trí óc để
tư duy và lưu giữ những nội dung mà bản thân đã đọc, đồng thời sử dụng bộ
máy phát âm để phát ra âm thanh nhằm truyền đến với người nghe.
- Hiểu là nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng được trình bày
trong văn bản cùng ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội
dung và có thể vận dụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi:
Nội dung nào đã được đề cập, đề cập đến như thế nào, có ý nghĩa ra sao ?
Như vậy, đọc - hiểu là đọc kết hợp với việc hình thành năng lực giải thích,
phân tích, khái quát, biện luận đúng- sai; nghĩa là đọc luôn kết hợp, đi liền
với năng lực tư duy và biểu đạt.
4
2.1.1.2.Mục đích: Đọc hiểu là phải nắm được:
- Phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, thao tác lập luận của văn bản.
- Hình thức cấu trúc của các đoạn văn trong văn bản và ý nghĩa của hình thức
cấu trúc ấy.
- Nội dung của văn bản.
- Ý đồ, mục đích viết văn bản.
- Ý nghĩa của những từ, cụm từ hình ảnh, các biện pháp tu từ,…được dùng
trong văn bản.
- Nêu thông điệp ( bài học rút ra ) từ văn bản và có lí giải hợp lí.
Với học sinh THPT, có kĩ năng tốt trong đọc hiểu văn bản đồng nghĩa với việc
có thể tiến tới biết phân tích, xử lí các văn bản ở mức độ khó hơn trong tương
lai.
2.1.2. Phạm vi và yêu cầu của phần đọc – hiểu:
2.1.2.1.Phạm vi của đọc hiểu văn bản: Bao gồm các loại văn bản sau:
- Văn bản văn học: chủ yếu là những văn bản nằm ngoài chương trình học của
học sinh THPT.
- Văn bản nhật dụng: là loại văn bản có nội dung gần gũi, bức thiết đối với
cuộc sống của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: giáo dục kĩ
năng sống; những vấn đề có liên quan đến tâm hồn, quan niệm sống, phẩm
chất, thế giới quan, nhân sinh quan của con người, những vẫn đề thuộc về ý
nghĩa, giá trị của cuộc sống ... Văn bản nhật dụng đa phần thuộc văn bản chính
luận và văn bản báo chí.
Nhìn chung, những văn bản được chọn cho học sinh tiếp cận là những văn
bản phù hợp với trình độ nhận thức và năng lực của học sinh; khơi gợi và đòi
hỏi các em phải nêu rõ chủ kiến của bản thân. Các câu hỏi phần đọc hiểu chủ
yếu là kiến thứ Tiếng Việt mà học sinh đã được học cộng thêm những kiến thức
xã hội cùng năng lực diễn đạt, lập luận của học sinh.
2.1.2.2. Yêu cầu của đọc hiểu văn bản: Để làm tốt phần đọc hiểu, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh:
- Phân loại các câu hỏi trong đề bài vào 4 dạng: Nhận biết, thông hiểu, vận
dụng thấp, vận dụng cao.
- Với mỗi dạng câu hỏi, cần tìm ra cách trả lời chính xác, ngắn gọn, rõ ràng, đủ ý
nhất.
- Diễn đạt nội dung cần trình bày một cách khoa học nhất.
2.1.3.Những kiến thức cần có để thực hiện việc đọc – hiểu văn bản:
Nhìn chung kiến thức về đọc hiểu khá phong phú, đa dạng. Trong phạm vi của
SKKN này, tôi chỉ xin nêu ra những kiến thức thiết yếu nhất cần có để tiến hành
việc đọc hiểu văn bản được dễ dàng.
2.1.3.1. Kiến thức về các phương thức biểu đạt: Gồm 6 phương thức biểu đạt
sau:
- Tự sự: Là phương thức trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến
sự việc kia, cuối cùng kết thúc thể hiện một ý nghĩa nào đó.
- Miêu tả: Là làm cho người đọc, người nghe, người xem có thể thấy sự vật,
hiện tượng, con người như đang hiện ra trước mắt.
5
- Biểu cảm: Là bộc lộ tình cảm, cảm xúc về thế giới xung quanh.
- Nghị luận: Là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải, trái, đúng sai
nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết.
- Thuyết minh: Là phương thức biểu đạt nhằm trình bày, giới thiệu những tri
thức về một sự vật, hiện tượng nào đó cho người đọc, người nghe.
- Hành chính – công vụ: Là văn bản điều hành xã hội, có chức năng xã hội.
Văn bản này qui định, ràng buộc mối quan hệ giữa các tổ chức nhà nước với
nhau, giữa các cá nhân với nhau trong khuôn khổ hiến pháp và các bộ luật văn
bản pháp lý dưới luật từ trung ương tới địa phương.
2.1.3.2. Kiến thức về phong cách chức năng ngôn ngữ: Gồm 6 phong cách
ngôn ngữ sau:
- Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt: Là phong cách mang những dấu hiệu đặc
trưng của ngôn ngữ dùng trong giao tiếp sinh hoạt hằng ngày.
Ngôn ngữ sinh hoạt gồm các dạng: chuyện trò, nhật kí, hồi ức cá nhân, thư từ;
mang tính khẩu ngữ, bình dị, suồng sã.
- Phong cách ngôn ngữ khoa học: Là phong cách được dùng trong giao tiếp
thuộc lĩnh vực khoa học ( khoa học chuyên sâu; khoa học giáo khoa; khoa học
phổ cập ).
- Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật: Là phong cách ngôn ngữ được dùng trong
các văn bản thuộc lĩnh vực văn chương (văn xuôi nghệ thuật, thơ, kich), không
chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
- Phong cách ngôn ngữ chính luận: Là ngôn ngữ được dùng trong những văn
bản thể hiện tư tưởng, lập trường, thái độ trong lĩnh vực chính trị, xã hội.
- Phong cách ngôn ngữ hành chính: Là phong cách được dùng trong giao tiếp
thuộc lĩnh vực hành chính, thể hiện rõ ở giấy tờ hành chính thông thường:Văn
bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh, hóa đơn, hợp đồng,…
- Phong cách ngôn ngữ báo chí :Là ngôn ngữ dùng trong lĩnh vực thông tin về
những vấn đề thời sự nhằm phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần
chúng, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
2.1.3.3. Kiến thức về các thao tác lập luận: Bao gồm 6 thao tác: giải thích,
chứng minh, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận.
- Giải thích: Là dùng lí lẽ để giảng giải cho người khác hiểu về một hiện tượng,
một vấn đề nào đó.
- Chứng minh: Là đưa những dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một lí lẽ, một
ý kiến nào đó nhằm thuyết phục người đọc ( người nghe ) tán đồng với ý kiến
của người viết ( người nói ).
- Phân tích: Là chia tách đối tượng thành các bộ phận, các phương diện khác
nhau để xem xét cặn kẽ mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của đối
tượng.
- So sánh: Là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một
sự vật để chỉ ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của
sự vật hoặc đối tượng. Có hai loại so sánh: so sánh tương đồng và so sánh tương
phản.
6
- Bác bỏ: Là chỉ ra sự sai trái, lệch lạc của một ý kiến, quan niệm nào đó, đồng
thời đưa ra nhận định đúng đắn của bản thân.
- Bình luận: Là bàn bạc đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng… đúng hay sai,
hay / dở; tốt / xấu, lợi / hại…; để nhận thức đối tượng, cách ứng xử phù hợp và
có phương châm hành động đúng.
2.1.3.4. Kiến thức về các biện pháp tu từ: Các biện pháp tu từ được phân loại
theo nhóm như sau:
- Điệp âm, điệp vần, điệp thanh; điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp.
- So sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, tương phản, chơi chữ, nói giảm, nói tránh,
thậm xưng,…
- Liệt kê, chêm xen, câu hỏi tu từ, đảo ngữ, đối, im lặng, sử dụng từ Hán Việt, từ
thuần Nôm, từ láy, cách tạo âm hưởng và nhịp điệu cho câu…
2.1.3.5. Kiến thức về các hình thức cấu trúc của đọan văn: Diễn dịch, quy
nạp, song hành, móc xích, tổng – phân – hợp:
- Đoạn diễn dịch: là đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng
ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai ý, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề.
- Đoạn quy nạp: là đoạn văn đi từ ý cụ thể, chi tiết nhằm hướng tới ý khái quát
nằm ở cuối đoạn văn.
- Đoạn song hành: là đoạn văn mà mỗi câu trong đoạn nêu một khía cạnh của
chủ đề đoạn văn, các câu có vai trò ngang hàng với nhau. Đây là kiểu đoạn văn
không có câu chủ đề.
- Đoạn móc xích: là đoạn văn mà các ý được móc nối vào với nhau, thể hiện cụ
thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ đã có ở câu trước ở câu sau đó. Đoạn văn
này cũng không có câu chủ đề.
- Đoạn tổng-phân-hợp: là đoạn văn kết hợp giữa diễn dịch với quy nạp. Câu
mở đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển khai ý khái quát
đó. Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã tiến hành thống kê kết quả
phần đọc hiểu của hai bài kiểm tra : kiểm tra tại lớp, thi học kì II tập trung tại
trường - năm học 2015 – 2016 của học sinh các lớp tôi dạy. Qua khảo sát thực tế
bài làm của học sinh, tôi thấy thực trạng cụ thể của phần đọc hiểu trong bài làm
của học sinh như sau:
Kiểm tra
định kì tại
lớp - Bài
số 5
Thi học kì
II
Lớp
11A1
10B3
10B5
11A1
10B3
10B5
Số HS trả lời đúng / dạng câu hỏi
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng
Vận dụng
thấp
cao
22 / 42
15 / 42
13 / 42
12 / 42
20 / 41
14 / 41
12 / 41
10 / 41
17 / 43
11 / 43
10 / 43
9 / 43
30 / 42
18 / 42
16 / 42
15 / 42
27 /41
16 / 41
15 / 41
14 / 41
25 / 43
13 / 43
12 / 43
11 / 43
7
Như vậy, qua bảng thống kê có thể thấy những dạng câu hỏi thông hiểu,
vận dụng thấp, vận dụng cao của phần đọc hiểu là những dạng đề mà học sinh
có kết quả khá thấp ( Chưa đạt tới 50% so với yêu cầu ). Nhiều em trả lời sai
hoặc không biết cách trả lời các câu hỏi của các phần này chứng tỏ các em thiếu
cả kiến thức lẫn kĩ năng, cần phải được rèn luyện, bổ sung để đáp ứng yêu cầu
của bộ môn.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Để giải quyết những tồn tại ở trên, tôi đã đưa ra những giải pháp sau:
- Giải pháp 1: Hệ thống lại những kiến thức về đọc hiểu mà học sinh đã được
học ở THCS, đồng thời qua các bài dạy thuộc chương trình SGK, giáo viên cung
cấp, nhấn mạnh thêm kiến thức mới nhằm đáp ứng những yêu cầu của đề bài.
Ngoài ra, giáo viên cũng cần khuyến khích học sinh tự đọc, tự tìm hiểu kiến thức
qua các nguồn tài liệu đáng tin cậy khác.
Với mỗi đơn vị kiến thức, cần kết hợp với thực hành trên văn bản để khắc
sâu kiến thức và kĩ năng làm bài ở học sinh.Tuy nhiên, tùy theo từng đối tượng
học sinh mà việc cung cấp, hệ thống kiến thức sẽ có sự khác nhau. Chẳng hạn,
với học sinh lớp 10 thì chủ yếu là nhắc lại những kiến thức đã học ở cấp THCS,
kết hợp với các kiến thức về đọc hiểu được học trong SGK Ngữ Văn 10 để hình
thành nền tảng kiến thức vững chắc. Với học sinh lớp 11, có thể cung cấp kiến
thức ở mức độ nâng cao hơn. Đặc biệt, với học sinh lớp 12 chuẩn bị bước vào kì
thi THPT Quốc gia, cần tiến tới sự nhuần nhuyễn cả kiến thức lẫn kĩ năng đọc
hiểu để có thể làm tốt yêu cầu của đề.
- Giải pháp 2: Kết hợp các kiến thức về đọc hiểu đã học với nhau bằng cách
thực hành trên các đề bài cụ thể. Đây chính là sự xâu chuỗi, vận dụng các kiến
thức về đọc hiểu đã học.
Để làm tốt điều này, công việc đầu tiên là giáo viên cần tìm được những
ngữ liệu mẫu chuẩn xác, phù hợp với trình độ của học sinh để thiết kế đề bài;
tham khảo thêm những đề minh họa, đề tham khảo, đề thử nghiệm của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, đề của một số trường học có uy tín nhưng bản thân người dạy
phải nghiên cứu kĩ càng rồi mới hướng dẫn cho học sinh.
- Giải pháp 3: Sau khi đã có đề bài chuẩn xác, phù hợp với trình độ học sinh,
giáo viên cần hướng dẫn các em đọc kĩ ngữ liệu ở đề bài để có những cảm nhận
ban đầu về văn bản. Mục đích ở đây là tránh việc học sinh đọc lướt, đọc qua loa,
dẫn đến nhận thức về ngữ liệu cần tìm hiểu chưa đúng.Tuy nhiên, cần tránh việc
lãng phí nhiều thời gian chỉ để cho việc đọc bởi trong quá trình trả lời các câu
hỏi, học sinh sẽ phải đọc lại ngữ liệu.
- Giải pháp 4: Sau khi đã đọc kĩ ngữ liệu ở đề bài, giáo viên cần hướng dẫn cho
học sinh đọc và phân loại các câu hỏi ở đề bài theo 4 mức độ: nhận biết, thông
hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao.
Cụ thể, tôi đã hướng dẫn học sinh cách phân loại các câu hỏi theo 4 mức độ như
sau:
8
Nhận biết
- Phương thức biểu
đạt.
- Thao tác lập luận.
- Phong cách ngôn
ngữ.
- Các biện pháp tu
từ.
-Tìm từ ngữ, hình
ảnh, câu văn theo
yêu cầu đề bài.
Mức độ câu hỏi
Thông hiểu
Vận dụng thấp
- Các hình thức cấu
trúc của một đoạn
văn ( diễn dịch, quy
nạp, song hành,
móc xích, tổng –
phân – hợp )..
- Tìm câu chủ đề
của văn bản.
- Hiệu quả (tác
dụng) của biện pháp
tu từ trong văn bản.
- Giải nghĩa từ ngữ,
trong văn bản.
- Giải nghĩa câu văn
hoặc ý kiến trong
văn bản ( Dạng câu
hỏi: Anh / chị hiểu
như thế nào về câu
nói – ý kiến; Vì sao
tác giả cho rằng…).
Vận dụng
cao
Chỉ ra
thông điệp,
điều
tâm
đắc, bài học
và ý nghĩa,
tác
dụng
của bài học
đó được rút
ra từ văn
bản đã cho.
- Giải pháp 5: Sau khi phân loại xong, với mỗi mức độ câu hỏi, giáo viên sẽ
hướng dẫn cách thức trả lời phù hợp, cụ thể như sau:
+ Với dạng câu hỏi nhận biết, học sinh cần nắm rõ yêu cầu, phạm vi câu hỏi
( xác định phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt, thao tác lập luận hay
tìm một từ ngữ, hình ảnh trong văn bản ). Sau đó, đọc lại văn bản, chú ý tới
phần văn bản có liên quan đến câu hỏi. Xem xét cả phần chú thích ở cuối ngữ
liệu ở đề bài ( nhan đề, tên tác giả, nguồn trích dẫn ) để xác định đúng phong
cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt của văn bản. Tìm hiểu mục đích viết văn
bản, cách triển khai, lập luận, thái độ của tác giả với nội dung được đề cập để
xác định đúng thao tác lập luận của văn bản.
Ở dạng câu hỏi này, cần trả lời mạch lạc, ngắn gọn, có lời dẫn; không cần lí
giải nếu đề bài không yêu cầu.
+ Với dạng câu hỏi thông hiểu, nếu câu hỏi có hai ý thì mỗi ý nên trình bày
bằng một gạch đầu dòng theo trình tự, vì có trả lời được ý 1 thì mới trả lời được
ý 2. Cách trả lời cũng cần mạch lạc, ngắn gọn, dễ hiểu, tối kị việc diễn đạt dài
dòng, vòng vo.
+ Với dạng câu hỏi vận dụng thấp ( Anh / chị hiểu như thế nào về từ ngữ,
câu nói, ý kiến…? Vì sao tác giả cho rằng …? ), cần đọc kĩ và gạch dưới phần
văn bản ở đề bài có liên quan đến câu hỏi, căn cứ vào ý nghĩa của văn bản để
tìm câu trả lời. Trong quá trình suy nghĩ, có thể gạch đầu dòng các ý cần trả lời
ra giấy nháp, sau đó mới viết vào bài. Câu trả lời phải đúng hướng, tránh hỏi
một đằng, trả lời một nẻo.
+ Với dạng câu hỏi vận dụng cao, học sinh phải tư duy ở mức độ cao hơn,
phải lật đi lật lại vấn đề để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Ví dụ, với dạng câu hỏi :
“Thông điệp nào trong văn bản trên có ý nghĩa nhất đối với anh / chị ?”, cần
trình bày 2 ý:
9
Ý 1: Thông điệp của văn bản có ý nghĩa nhất: Là bất cứ ý nghĩa nào đó toát lên
từ toàn bộ văn bản, chứ không phải là việc trích một câu nào đó trong văn bản
rồi gọi đó là thông điệp như nhiều học sinh đã từng làm. Thông điệp – điều tâm
đắc đó được học sinh rút ra từ văn bản và diễn đạt nó bằng cách hiểu của chính
mình.
Ý 2: Lí giải vì sao thông điệp đó lại có ý nghĩa với bản thân: Ở góc độ này, nên
lấy những yếu tố ngoài văn bản, là thực tiễn hoặc kinh nghiệm sống, những hiểu
biết của bản thân học sinh để lí giải, vì có như vậy, học sinh mới bộc lộ được
chủ kiến của bản thân. Sự lí giải có thể không giống nhau ở mỗi học sinh song
cần đúng đắn, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Khi học sinh đã quen với các dạng câu hỏi trong đề và cách trả lời, bước
phân loại dạng câu hỏi cũng chỉ nên lướt qua để có thời gian chú trọng vào nội
dung cần đạt trong câu trả lời. Mặt khác, các câu hỏi của phần đọc hiểu bao giờ
cũng có sự xâu chuỗi, câu sau tiếp nối câu trước theo tư duy logic. Vì vậy, giáo
viên cần lưu ý học sinh nên làm theo trình tự câu hỏi được đưa ra.
Sau đây là một số đề bài cụ thể kèm theo cách thức triển khai tôi đã rút ra
được qua thực tiễn giảng dạy của bản thân. Trong mỗi đề bài không chỉ có sự
khác nhau về ngữ liệu ( dạng văn bản ) mà còn có sự khác nhau về dạng câu
hỏi, phạm vi kiến thức. Với mỗi dạng câu hỏi cụ thể, tôi xin nêu ra cách thức trả
lời cụ thể như sau:
Đề 1:
Đọc đoạn trích dưới đây và thực hiện các yêu cầu:
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơi!...
Ta lớn lên khao khát những chân trời
Những mảnh đất chân mình chưa bén được
Những biển khơi chứa mặt trời đỏ rực
Những ngàn sao trôi miết giữa màu xanh
(Trích Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, NXB Văn nghệ giải phóng,
1974, tr.35-36)
10
Câu 1. Những từ ngữ, hình ảnh nào trong đoạn trích được lấy từ chất liệu văn
học dân gian?
Câu 2. Anh/chị hiểu như thế nào về nội dung câu thơ: “Đất đai cỗi cằn thì
người sẽ nở hoa”?
Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp điệp từ được sử dụng trong bốn câu thơ cuối
đoạn trích.
Câu 4. Điều anh/chị tâm đắc nhất trong đoạn trích trên là gì?
Văn bản được đưa ra trong đề bài này là văn bản nghệ thuật ( một đoạn thơ ),
mang những nét đặc trưng riêng so với dạng văn bản nhật dụng.
Với đề bài này, tôi hướng dẫn học sinh thực hiện các bước như sau:
- Bước 1: Đọc kĩ ngữ liệu ở đề bài đưa ra, chú ý nguồn trích dẫn văn bản.
- Bước 2: Phân loại các dạng câu hỏi ở đề bài:
+ Câu 1: Dạng nhận biết.
+ Câu 2: Dạng vận dụng thấp.
+ Câu 3: Dạng thông hiểu.
+ Câu 4: Dạng vận dụng cao.
- Bước 3: Học sinh vận dụng các kiến thức và kĩ năng đã học để đưa ra cách
trả lời chính xác, phù hợp nhất, cụ thể:
+ Câu 1: Đọc kĩ văn bản, học sinh sẽ dễ dàng tìm được trong văn bản những
từ ngữ, hình ảnh được lấy từ chât liệu văn học dân gian: cô Tấm về làm hoàng
hậu, cây khế chua có đại bàng đến đậu, chim ăn - trả ngon ngọt, người trồng
cây dựng cửa.
+ Câu 2: Gồm hai bước:
. Đọc kĩ câu thơ ở đề bài để thấy được câu thơ có hai vế, vậy ta sẽ giải thích
từng vế: Đất đai cỗi cằn tượng trưng cho thiên nhiên khắc nghiệt mà con người
phải đối mặt; người nở hoa là tượng trưng cho thành quả mà con người đạt tới
sau rất nhiều thử thách.
. Chỉ ra được mối quan hệ giữa hai vế câu: quan hệ tương phản. Từ đó thấy
được ý nghĩa cả câu thơ: Tuy điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nhưng không cản
trở được những thành công của con người; ngược lại đó lại là thử thách đề con
người khẳng định mình trong cuộc sống.
+ Câu 3: Học sinh cần xác định được 2 ý trọng tâm:
. Biện pháp điệp từ được sử dụng trong bốn câu thơ cuối đoạn trích: từ những
được điệp lại 4 lần trong 4 câu thơ ( những chân trời, những mảnh đất, những
biển khơi, những ngàn sao ).
. Tác dụng của biện pháp điệp từ ở trên: Điệp từ những gắn liền với một loạt các
danh từ là chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước nhằm biểu đạt khát vọng, mơ ước
muốn khám phá thế giới vô tận của con người Việt Nam; ẩn chứa niềm tin vào
những thế hệ con người Việt Nam không chỉ biết ước mơ, khao khát mà con biết
biến những mơ ước đó trở thành hiện thực.
+ Câu 4: Gồm 2 yêu cầu:
11
. Yêu cầu 1: Học sinh biết cách chọn ra được điều tâm đắc nhât ( là điều mang
lại ấn tượng nhất cho người đọc ). Ở đây, ngữ liệu đã cho là văn bản nghệ thuật
nên điều tâm đắc có thể thuộc một trong hai phương diện nội dung và nghệ
thuật của văn bản tùy theo lựa chọn của từng học sinh. Tuy nhiên, giáo viên cần
định hướng cho học sinh cách lựa chọn điều tâm đắc phù hợp bằng cách nêu chỉ
một yếu tố tâm đắc về nội dung hoặc nghệ thuật.
Ở câu hỏi này, từ nội dung của đoạn thơ là khắc họa hình tượng Đất Nước
bắt nguồn từ truyền thống văn hóa xa xưa của dân tộc, kéo dài tới ngày nay, tới
cả mai sau với những mơ ước cao đẹp, nhân văn; có thể tìm thấy thông điệp của
văn bản là: Cần biết nối tiếp và giữ gìn truyền thống văn hóa, truyền thống yêu
nước và tình yêu quê hương đắt nước của các thế hệ con người Việt Nam.
Tương tự, với chất liệu dân gian đậm đà, phép điệp từ được sử dụng trong
đoạn thơ, học sinh có thể tìm thấy điều tâm đắc về nghệ thuật của đoạn thơ như :
một câu thơ, hình ảnh thơ đậm đà chất dân gian hoặc hiệu quả của điệp từ ở
bốn câu thơ cuối.
. Yêu cầu 2: Học sinh lí giải được vì sao điều vừa nêu trên lại là điều tâm đắc
nhất với bản thân. Cách lí giải nên ngắn gọn, phù hợp.
Với thông điệp thuộc nội dung của văn bản như đã trình bày ở trên, cần lí
giải bằng thực tiễn cuộc sống: Đây là truyền thống đạo lí ngàn đời của dân tộc
Việt Nam mà mỗi con người Việt Nam cần biết trân trọng, gìn giữ.
Với thông điệp thuộc nghệ thuật của văn bản như đã trình bày ở trên, cần lí
giải bằng kiến thức của bản thân học sinh: Câu thơ ( từ ngữ, điệp ngữ hoặc hình
ảnh thơ ) đã mang lại hiệu quả như thế nào cho đoạn thơ ( phần hiệu quả biểu
đạt phải nêu cụ thể, không viết chung chung ).
Đề 2:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
Thế giới của chúng ta có muôn vàn điều thú vị để khám phá. Cho dù bạn
đang ở độ tuổi nào, bạn cũng nên phá vỡ các giới hạn của nhận thức và luyện
cho mình kĩ năng quan sát bằng cách ra khỏi nhà, ra ngoài thiên nhiên và chú ý
tới mọi điều xung quanh. Hãy đặt cho bản thân những câu hỏi như: “Tại sao…?
Tại sao không…?” và thử tự tìm các câu trả lời hay sự trợ giúp của những
người quen biết. Đừng bao giờ tự cao tự đại nói rằng: “Tôi đã biết hết rồi,
anh/chị sẽ không chỉ cho tôi được điều gì mới đâu!”. Vì chỉ khi chúng ta nhận
thức được rằng vẫn còn nhiều điều có thể học, chúng ta mới có thể bổ sung
được nhiều kiến thức mới.
Hãy nghe nhạc cổ điển, đến thăm các viện bảo tàng và các phòng trưng
bày nghệ thuật, hãy đọc sách về nhiều chủ đề khác nhau, hãy có những sở
thích như khiêu vũ, chơi đàn, hội họa hay tập luyện một bộ môn thể thao. Dù
bạn chọn cho mình bộ môn nào đi nữa, bạn cũng nên theo học đến cùng và tìm
hiểu không ngừng nghỉ cho đến khi đạt được kiến thức sâu sắc về lĩnh vực đó
mới thôi. Đừng chỉ “chạm đến một lần rồi bỏ xó”. Hãy quyết tâm rèn luyện và
củng cố trí tò mò để nó trở thành một phần trong cá tính của bạn. Biết đâu,
trong một lần tò mò hay thắc mắc như vậy, bạn sẽ tìm ra được niềm đam mê cho
12
bản thân. Có khát vọng khám phá và tìm tòi là một trong những động lực giúp
bạn tiếp cận với thế giới và vươn ra biển lớn.
(Trích Tìm kiếm niềm đam mê, theo Hộ chiếu xanh đi quanh thế giới,
Nhà xuất bản Thế giới, 2017, tr17-18)
Câu 1. Ở mỗi đoạn văn trên đây, tác giả đã sử dụng cách trình bày nào trong
các cách sau:diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích, song hành?
Câu 2. Theo tác giả, chúng ta sẽ có được lợi ích gì khi “nhận thức được rằng
vẫn còn nhiều điều có thể học”?
Câu 3. Tại sao tác giả cho rằng “Biết đâu, trong một lần tò mò hay thắc mắc
như vậy, bạn sẽ tìm ra được niềm đam mê cho bản thân”?
Câu 4. Theo anh/chị, cần làm thế nào để niềm đam mê khám phá những điều kì
diệu “trở thành một phần trong cá tính”?
Văn bản ở đề thứ 2 này thuộc dạng văn bản nhật dụng, đề cập đến một vấn
đề thuộc tư tưởng, đạo lí mà giới trẻ quan tâm – một quan niệm sống, nhân sinh
quan lành mạnh: hãy hành động để tìm kiếm niềm đam mê cho chính mình. Đây
là dạng văn bản thiết thực, phù hợp với nhận thức của học sinh, nhất là với học
sinh lớp 12 khi đang đứng trước ngưỡng cửa tương lai.
Tương tự như đề số 1, ở đề bài này, tôi đã hướng dẫn học sinh thực
hiện các bước như sau:
- Bước 1: Đọc kĩ ngữ liệu ở đề bài đưa ra, chú ý nguồn trích dẫn văn bản.
- Bước 2: Phân loại các dạng câu hỏi ở đề bài:
+ Câu 1: Dạng thông hiểu.
+ Câu 2: Dạng nhận biết.
+ Câu 3: Dạng vận dụng thấp.
+ Câu 4: Dạng vận dụng cao.
- Bước 3: Học sinh vận dụng các kiến thức và kĩ năng đã học để đưa ra cách
trả lời chính xác, phù hợp nhất, cụ thể:
+ Câu 1: Đọc lại văn bản, tìm xem ở mỗi đoạn văn có câu chủ đề hay
không? Nếu có thì câu chủ đề nằm ở vị trí đầu hay cuối đoạn ?
Trả lời những câu hỏi trên, học sinh sẽ thấy được ở cả hai đoạn văn, câu chủ đề
đều nằm ở cuối mỗi đoạn. Vì vậy, có thể dễ dàng trả lời: cả hai đoạn văn đều
trình bày theo cách quy nạp.
+ Câu 2: Với dạng câu hỏi mang tính nhận biết này, chỉ cần tìm trong ngữ
liệu xem câu trích dẫn ở đề bài nằm ở vị trí nào, sau đó đọc kĩ, học sinh sẽ tìm
được câu trả lời. Ở đây, câu trích dẫn thuộc câu chủ đề của đoạn văn thứ nhất:
“Vì chỉ khi chúng ta nhận thức được rằng vẫn còn nhiều điều có thể học, chúng
ta mới có thể bổ sung được nhiều kiến thức mới ”.Vậy câu trả lời đơn giản sẽ là:
Theo tác giả, khi “nhận thức được rằng vẫn còn nhiều điều có thể học”, chúng
ta sẽ có lợi ích: bổ sung được nhiều kiến thức mới.
13
+ Câu 3: Với dạng câu hỏi Tại sao tác giả cho rằng, cần suy nghĩ, lật đi lật
lại vấn đề để tìm ra câu trả lời phù hợp. Ở đây, ta cần định hướng cho học sinh
đặt ra những câu hỏi để trả lời:
. Tò mò hay thắc mắc sẽ mang lại cho ta điều gì ? Đó là giúp ta khám phá và
tìm hiểu cuộc sống, thế giới muôn màu muôn vẻ xung quanh, từ đó mà ta lĩnh
hội được nhiều kiến thức mới.
. Vì sao trong một lần tò mò hay thắc mắc như vậy, ta sẽ tìm ra được niềm
đam mê cho bản thân ? Bởi vì sự tò mò, thắc mắc sẽ là động lực giúp ta theo
đuổi mong muốn của bản thân, từ đó mà ta có được niềm đam mê tìm hiểu,
khám phá những kiến thức vô tận của cuộc sống này.
+ Câu 4: Thuộc dạng câu hỏi vận dụng cao, bởi vậy, học sinh cần huy động
kiến thức cùng những hiểu biết, kinh nghiệm sống của chính bản thân để đưa ra
câu trả lời. Cần hiểu rõ câu hỏi: Nêu những giải pháp để niềm đam mê khám phá
những điều kì diệu “trở thành một phần trong cá tính” ( nghĩa là khiến niềm
đam mê trở thành một phẩm chất của chính chúng ta ). Từ đó, học sinh có thể
nêu: Mỗi chúng ta cần phải không ngừng học hỏi nhằm tìm kiếm những kiến
thức mới; không ngại dấn thân vào khó khăn gian khổ để tích lũy kinh nghiệm
sống; theo đuổi đến cùng những đam mê tích cực của bản thân,...
Đề 3:
Đọc văn bản dưới đây và thực hiện các yêu cầu:
Nền văn hoá truyền thống Việt Nam thấm đẫm tinh thần nhân văn trước
hết vì nó luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, luôn coi con người là sự kết tinh
những gì tinh tuý nhất của tạo hoá. Rất nhiều câu tục ngữ của ông cha ta đã thể
hiện tư tưởng này, như “người ta là hoa của đất”, “người sống đống vàng”,
“một mặt người bằng mười mặt của”…
Nhưng thật đáng lo vì nền tảng đạo đức xã hội hiện nay đang có những
dấu hiệu suy thoái nghiêm trọng, sự lệch lạc về lối sống trong vòng quay của
những giá trị ảo đã biến một bộ phận không nhỏ những người trẻ trở thành nô
lệ của sự tung hô, chú ý trên mạng xã hội. Không ít trong số đó đã gục ngã
trước uy lực thần thánh của nút “like”.
Ngày 21.9, cộng đồng mạng xã hội vô cùng sửng sốt với clip một nam
thanh niên tẩm xăng tự thiêu rồi nhảy xuống dòng kênh Tân Hóa - TP.HCM khi
đã “gom” đủ 40.000 cú click vào nút “like” trên Facebook. Ít hôm sau dư luận
lại nhận thêm cú sốc từ hành động châm lửa… đốt trường của một nữ sinh lớp 8
tại Khánh Hòa cũng chỉ vì đã đủ “like” ủng hộ trên Facebook.
Cũng chỉ vì trào lưu “Việt Nam nói là làm” đã biến tướng thành những
hành động quái đản, thật đáng thương và cũng đáng trách những bạn trẻ cuồng
quay với hai từ “nổi tiếng” đầy tai tiếng.
Nếu trách chủ nhân của những status câu “like” kia một thì đáng lên án sự
vô tâm của hàng trăm nghìn người dùng mạng xã hội với cái tâm lạnh hơn
băng. Họ không biết hay cố tình không biết rằng một cú click của mình là đóng
14
góp thêm những tràng pháo tay cho lối sống bệnh hoạn, vô tình đưa khổ chủ
đến dần với bờ vực hiểm nguy.
(Uy lực thần thánh của nút like hay lối sống bệnh hoạn - Trương Khắc Trà,
Báo Thanh niên, 14-10-2016)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 2. Anh/chị hiểu thế nào về câu nói của tác giả: “con người là sự kết tinh
những gì tinh tuý nhất của tạo hoá”?
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao tác giả viết: Cũng chỉ vì trào lưu “Việt Nam nói là
làm” đã biến tướng thành những hành động quái đản, thật đáng thương và cũng
đáng trách những bạn trẻ cuồng quay với hai từ “nổi tiếng” đầy tai tiếng.
Câu 4. Thông điệp nào của văn bản trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị?
Văn bản ở đề thứ 3 này cũng thuộc loại văn bản nhật dụng nhưng lại đề
cập đến một hiện tượng đời sống mang tính cấp thiết, nóng hổi hiện nay: lối
sống ảo, sự suy thoái, lệch lạc về lối sống; đòi hỏi học sinh phải bộc lộ suy
nghĩ, chủ kiến của bản thân.
Ở đề bài này, tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện các bước sau:
- Bước 1: Đọc kĩ ngữ liệu ở đề bài đưa ra để có ấn tượng ban đầu về văn bản,
chú ý phần xuất xứ của văn bản.
- Bước 2: Phân loại các dạng câu hỏi ở đề bài:
+ Câu 1: Dạng nhận biết
+ Câu 2: Dạng vận dụng thấp.
+ Câu 3: Dạng vận dụng thấp.
+ Câu 4: Dạng vận dụng cao.
- Bước 3: Học sinh vận dụng các kiến thức và kĩ năng đã học để đưa ra cách
trả lời chính xác, phù hợp nhất, cụ thể :
+ Câu 1: Đọc lại văn bản để năm được nội dung ý nghĩa, cách lập luận, triển
khai của văn bản. Thông thường, tất cả các văn bản mang tính phân tích, bình
luận một vấn đề nào đó thì thao tác nghị luận chính là bình luận. Học sinh cũng
cần hiểu là một văn bản có thể sử dụng nhiều phương thức biểu đạt nhưng chỉ có
một thao tác là chính. Vì vậy, chỉ nêu thao tác chủ đạo đó, tránh nêu từ hai thao
tác lập luận trở lên.
+ Câu 2: Thực chất là câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích ý nghĩa của câu
nói ( ý kiến ) của tác giả trong văn bản: “Con người là sự kết tinh những gì
tinh tuý nhất của tạo hoá”. Trước tiên, cần giải thích các từ : kết tinh ( hội tụ),
tinh tuý ( những điều tốt đẹp, cao quý nhất ). Vậy cả câu nói có thể hiểu là:Câu
nói đã đề cao vai trò của con người trong đời sống xã hội.Con người là nơi hội
tụ tất cả những gì tốt đẹp nhất, quý giá nhất.
+ Câu 3: Với dạng câu hỏi Vì sao tác giả viết ( Tại sao tác giả cho rằng),
học sinh cần xác định được hai vế trong ý kiến của tác giả và giải thích rõ từng
vế:
15
. Trào lưu “Việt Nam nói là làm” đã biến tướng thành những hành động
quái đản: Tác giả muốn cảnh báo một trào lưu hết sức nguy hiểm đã và đang
diễn ra trong cuộc sống hôm nay: trào lưu “Việt Nam nói là làm”đã biến tướng
theo hướng xấu ( quái đản ).
. Thật đáng thương và cũng đáng trách những bạn trẻ cuồng quay với hai từ
“nổi tiếng” đầy tai tiếng: Một bộ phận giới trẻ không nhận thức được hậu quả
của trào lưu, muốn được nổi tiếng ảo nên có những hành động đầy tai tiếng, bị
xã hội phê phán, lên án.
+ Câu 4: Thông điệp có ý nghĩa nhất của văn bản trên.
Tương tự như cách làm của các đề 1 và 2 ở trên, học sinh cần trình bày được 2
ý:
Ý 1: Nêu rõ thông điệp ( xuất phát từ toàn bộ ý nghĩa văn bản ), chẳng hạn:
Không nên sống ảo; tuổi trẻ phải biết sống thật, nói đúng và làm đúng…
Ý 2: Lí giải vì sao đó là thông điệp bản thân tâm đắc nhất ?
Với vấn đề thuộc một hiện tượng đời sống này, cần lí giải bằng tác hại của lối
sống ảo cũng như sự tích cực của việc sống thực, sống đúng với cuộc sống vốn
có của mình, biết đối mặt với hiện thực, từ đó mà phấn đấu vươn lên.
Đề 4:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Mỗi người, dù ít hay nhiều, dù nặng hay nhẹ, đều đã từng phạm lỗi, làm
sai trong đời, đó là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, thái độ của con người đối
với lỗi lầm hoàn toàn khác nhau. Có một số người dám dũng cảm thừa nhận
mình làm sai, dám gánh vác trách nhiệm, như cậu học trò ở Hải Phòng, vô tình
làm vỡ gương ôtô mà không có chủ xe ở đó, đã để lại bức thư xin lỗi và số điện
thoại với mong muốn được đền bù. Cũng có những người trốn tránh lỗi lầm, rũ
bỏ trách nhiệm. Kì thực, nhận lỗi, gánh vác trách nhiệm là nghĩa vụ mà mỗi
người đều nên làm, bất cứ ai, nếu không muốn phá hỏng danh dự của mình.
Đây là phẩm đức tối thiểu mà mỗi người nên chuẩn bị cho mình.
Nhận lỗi, gánh vác trách nhiệm cần dũng khí. Dũng khí này bắt nguồn từ
cảm giác chính nghĩa của con người – lòng tự trọng của nhân loại. Lòng tự
trọng là tất cả những thứ cơ bản nhất của lương thiện vầ nhân từ. Nó khiến con
người có hành vi đúng đắn, tư tưởng cao thượng, tín ngưỡng chân chính, cuộc
sống tốt đẹp. Chúng ta nên “gieo” nhận lỗi lầm, gánh vác trách nhiệm vào cõi
lòng, để chúng trở thành một kiểu ý thức mãnh liệt trong não chúng ta.
(Nguồn Internet)
Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích.
Câu 2: Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng thao tác lập luận chính nào?
Câu 3: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong câu “Chúng ta
nên “gieo” nhận lỗi lầm, gánh vác trách nhiệm vào cõi lòng, để chúng trở
thành một kiểu ý thức mãnh liệt trong não chúng ta”?
Câu 4. Thông điệp nào của văn bản trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị?
16
Đây cũng là dạng văn bản nhật dụng, đề cập đến một tấm gương của tuổi trẻ
trong đời sống: dám nhận lỗi, gánh vác trách nhiệm ; nhằm khuyến khích học
sinh bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến của bản thân về tấm gương đó.Tuy nhiên, dạng
câu hỏi ở đề bài này có những điểm khác so với các đề bài ở trên.
Ở đề bài này, tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện các bước sau:
- Bước 1: Đọc kĩ ngữ liệu ở đề bài đưa ra, chú ý phần xuất xứ, nguồn trích dẫn
văn bản.
- Bước 2: Phân loại các dạng câu hỏi ở đề bài:
+ Câu 1: Dạng nhận biết
+ Câu 2: Dạng nhận biết.
+ Câu 3: Dạng vận dụng thấp.
+ Câu 4: Dạng vận dụng cao.
- Bước 3: Học sinh vận dụng các kiến thức và kĩ năng đã học để đưa ra cách
trả lời chính xác, phù hợp nhất, cụ thể :
+ Câu 1: Đọc lại văn bản và suy đoán, lập luận. Thông thường, phần chú
thích ở cuối sẽ cho ta biết phong cách chức năng của văn bản. Ở đây, văn bản
được trích từ nguồn In- ter –net nhằm thông tin kèm chủ kiến về một sự kiện
mang tính xã hội. Vì vậy văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ báo chí. Đương
nhiên, có những văn bản là sự kết hợp của hai phong cách ngôn ngữ nhưng học
sinh chỉ cần xác định được một trong hai phong cách đó đã được coi là đúng.
+ Câu 2: Học sinh cần đọc kĩ văn bản để thấy được bên cạnh việc trình bày
nội dung ca ngợi hành động của chàng trai, tác giả còn tỏ thái độ đồng tình,
mong muốn nhiều người noi theo tấm gương đó. Từ suy luận đó, có thể thấy
thao tác lập luận chính được sử dụng ở đây là thao tác bình luận.
+ Câu 3: Với dạng câu hỏi: Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu
từ trong câu, cần trả lời rõ ràng 2 ý:
. Biện pháp tu từ: Ẩn dụ: “gieo” nhận lỗi lầm, gánh vác trách nhiệm vào cõi
lòng.”
. Tác dụng: Nhấn mạnh tinh thần nhận lỗi lầm, gánh vác trách nhiệm ở mỗi
người. Tinh thần này cần tự giác, chủ động ăn sâu vào ý thức như là bản chất,
tính cách của mỗi con người.
Lưu ý: Phần tác dụng ( hiệu quả ) của biện pháp tu từ không được viết chung
chung mà thực tế một số học sinh thường bộc lộ trong bài làm ( chẳng hạn như :
Làm cho câu văn, câu thơ hay hơn, hấp dẫn hơn,…) mà phải xuất phát từ chính
việc hiểu rõ ý nghĩa của văn bản, ý nghĩa của việc sử dụng biện pháp tu từ đó
( nhằm nhấn manh, bộc lộ điều gì, thái đọ gì, nội dụng gì,…? ).
+ Câu 4: Thông điệp có ý nghĩa nhất của văn bản trên: Học sinh cần trình
bày được 2 ý:
Ý 1: Nêu rõ thông điệp: Căn cứ vào nội dung ý nghĩa văn bản, có thể tìm
được các thông điệp như:
. Thông điệp 1: Nhận lỗi, gánh vác trách nhiệm là phẩm đức tối thiểu mà mỗi
người nên chuẩn bị cho mình.
17
. Thông điệp 2: Nhận lỗi, gánh vác trách nhiệm cần dũng khí và lòng tự trọng
ở mỗi người. Tuy nhiên, học sinh phải biết chọn một thông điệp bản thân cho là
có ý nghĩa nhất.
. Ý 2: Lí giải vì sao đó là thông điệp bản thân tâm đắc nhất ?
Tương tự như đề 3 ( văn bản đề cập đến một hiện tượng đời sống ), ở thông điệp
1,có thể lí giải bằng ý nghĩa tích cực của việc biết nhận lỗi khi sai lầm, biết gánh
vác trách nhiệm; cũng như tác hại của việc trốn tránh, không dám đối mặt với
những sai lầm, không dám gánh vác trách nhiệm ở mỗi người để thấy được điều
đúng đắn của thông điệp được nêu ra. Ở thông điệp 2 có thể lập luận: Dũng khí
và lòng tự trọng có vai trò gì trong việc nhận lỗi và gánh vác trách nhiệm;
ngược lại, không có dũng khí và lòng tự trọng, con người có thể dám nhận lỗi,
dám gánh vác trách nhiệm hay không ?
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo dục, với
bản thân và nhà trường:
- Đối với việc chất lượng giảng dạy: Sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã góp
phần nâng cao rõ rệt kết quả bài thi của học sinh, giúp các em tự tin hơn trong
việc làm bài thi. Qua khảo sát thực tế bài làm của học sinh phần đọc hiểu, năm
học 2016 – 2017 của các lớp tôi giảng dạy được tiếp nối từ năm học trước, tôi
đã thu được kết quả như sau:
Số HS trả lời đúng / dạng câu hỏi
Kiểm tra
Lớp
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng
Vận dụng
định kì tại
thấp
cao
lớp - Bài
12 A1
39 / 42
38 / 42
36/ 42
35 / 42
số 3
11B3
38 / 41
36 / 41
30 / 41
28 / 41
11B5
36 / 43
30/ 43
29 / 43
25 / 43
Thi học kì
12 A1
40 / 42
39 / 42
38 / 42
36 / 42
II
11B3
39 /41
38 / 41
35 / 41
34 / 41
11B5
38 / 43
32 / 43
31 / 43
29 / 43
Như vậy, so với kết quả thống kê được của năm học trước, kết quả này đã
phản ánh sự tiến bộ rõ rệt của học sinh trong phần đọc hiểu; kết quả chung là
khá khả quan. Tính trung bình, từ 60 đến 70% học sinh các lớp tôi dạy đạt yêu
cầu phần đọc hiểu với mức điểm 2,0 đến 2,5 / 3,0 điểm phần đọc hiểu ; 20 đến
25 % học sinh đạt điểm tuyệt đối 3,0; chỉ có khoảng 10% học sinh có mức điểm
từ 1,0 đến 1,5 điểm.
- Đối với bản thân: Sáng kiến này đã giúp tôi nâng cao kiến thức và năng lực sư
phạm của chính minh, có được sự say mê hơn trong giảng dạy và truyền được
cảm hứng học tập cho học sinh.
- Đối với nhà trường: Trong sinh hoạt chuyên môn, nhóm chuyên môn chúng
tôi đã trao đổi với nhau kiến thức cũng như kinh nghiệm phần đọc hiểu này, áp
dụng vào thực tế giảng dạy của từng giáo viên nhằm từng bước nâng cao hiệu
quả dạy và học môn Ngữ Văn. Sáng kiến của tôi nêu ra được mọi người ủng hộ,
góp ý và vận dụng khá thành công, từ đó cũng góp phần nâng cao kết quả của kì
18
thi tốt nghiệp THPT trong phạm vi nhà trường nơi tôi đang công tác. Cụ thể là
điểm trung bình của bài thi tốt nghiệp môn Ngữ Văn của học sinh khối 12 đã
được nâng lên so với năm trước từ 1,0 đến 1,5 điểm, là một kết quả đáng mừng
cần được phát huy hơn nữa.
III. Kết luận, kiến nghị:
3.1. Kết luận:
- Việc nâng cao kiến thức và kĩ năng đọc hiểu cho học sinh là vô cùng cần thiết,
không chỉ cho việc học tập, thi cử mà còn áp dụng vào thực tiễn cuộc sống của
chính học sinh. Công việc này đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ và giải pháp hợp lí của
giáo viên trong việc hướng dẫn cho học sinh tiếp nhận kiến thức lẫn kĩ năng
thực hành trên những văn bản cụ thể. Vì vậy, vai trò của giáo viên là rất quan
trọng.
- Những giải pháp trong SKKN mà tôi đã nêu ra ở trên chắc chắn sẽ còn nhiều
thiếu sót cần phải bổ sung nhưng trong thực tế, sáng kiến đó của tôi đã giúp
chính bản thân tôi vững vàng hơn trong công việc giảng dạy và thu được hiệu
quả rõ ràng. Sáng kiến này của tôi cũng được chia sẻ với đồng nghiệp và nhận
được sự đồng tình cũng như những góp ý để tôi có thể hoàn thiện hơn cho đề tài
nghiên cứu của bản thân. Tôi tin rằng, nếu được sự góp ý, bổ sung nhiều hơn
nữa, SKKN của tôi sẽ góp phần nâng cao nghiệp vụ sư phạm cũng như kết quả
của việc dạy học cho nhiều giáo viên Ngữ Văn của các trường THPT hiện nay.
3.2. Kiến nghị:
- Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phần đọc hiểu trong bài thi tốt
nghiệp THPT Quốc gia môn Ngữ Văn của tôi chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót.
Mong rằng SKKN của tôi sẽ nhận được sự góp ý từ các đồng nghiệp và những
người có chuyên môn nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của SKKN, từ đó có
thể triển khai, ứng dụng SKKN này vào thực tiễn ở mức độ sâu rộng hơn.
- Trong phạm vi nhỏ hẹp của một SKKN, bản thân tôi mong rằng việc đổi mới
SGK sắp tới sẽ gắn liền với thực tiễn cuộc sống hơn, sẽ có những phần hướng
dẫn cụ thể để học sinh cũng như giáo viên bớt những khó khăn trong việc dạy
học, đồng thời có thể tiếp cận hơn nữa với sự đổi mới cần thiết của bộ môn Ngữ
Văn.
- Qua đây, tôi cũng mong rằng đội ngũ giáo viên chúng tôi sẽ có được nhiều tài
liệu thiết thực hơn nữa cho bộ môn Ngữ Văn nói riêng để chúng tôi có những
định hướng tốt hơn trong việc giảng dạy, để chất lượng dạy và học bộ môn ngày
càng được nâng cao.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của
mình viết,không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Nguyễn thị Mỹ Hằng
19
Tài liệu tham khảo
1. SGK Ngữ văn 10, tập 1, tập 2, Ban cơ bản, NXB Giáo dục.
2. SGK Ngữ văn 11, tập 1, tập 2, Ban cơ bản, NXB Giáo dục.
3. SGK Ngữ văn 12, tập 1, tập 2, Ban cơ bản, NXB Giáo dục.
4. Đề thi thử nghiệm – Kì thi THPT Quốc gia năm 2017 - Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
5. Đề tham khảo – Kì thi THPT Quốc gia năm 2017 - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
6. 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt – Đinh Trọng Lạc – Nhà xuất
bản Giáo dục 1999.
20