Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Khai thác và sử dụng bài tập có nội dung thực tế trong dạy học phần khúc xạ ánh sáng chương trình vật lý 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.45 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT 4 THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP CÓ NỘI DUNG THỰC
TẾ TRONG DẠY HỌC PHẦN KHÚC XẠ ÁNH SÁNG Ở
CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÝ 11

Người thực hiện: Trịnh Văn Toàn
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Vật lý

THANH HOÁ NĂM 2017
1


MỤC LỤC
Trang
MỞ

1.
ĐẦU...........................................................................................................2
1.1.

do
chọn
đề
tài...........................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................3


1.3.
Đối
tượng
cứu...................................................................................3

nghiên

1.4.
Phương
pháp
cứu.............................................................................3

nghiên

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.............................................3
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM........................................4
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm...................................................4
2.1.1. Khái niệm về bài tập có nội dung thực tế trong môn Vật lý.................4
2.1.2.
Phân
loại
bài
tập
tế.......................................................4



nội

dung


thực

2.1.3. Các hình thức thể hiện bài tập có nội dung thực tế................................4
2.1.4. Định hướng
tế................................5

trả

lời

các

bài

tập



nội

dung

thực

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.................7
2.2.1. Thực trạng về vấn đề vận dụng kiến thức vật lý vào thực tế đời sống
của
học
sinh

trung
học
phổ
thông
hiện
nay
......................................................7
2.2.2. Thực trạng về vấn đề sử dụng bài tập có nội dung thực tế trong dạy
học vật lí ở các trường trung học phổ thông hiện
nay......................................8
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề....................................................................................................................8
2.3.1. Các giải pháp để tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vật lý vào
đời sống ................................................................................................................8
2.3.2. Xây dựng một số bài tập thực tế phần khúc xạ ánh sáng....................10
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản
thân,
đồng
nghiệp

nhà
trường..............................................................18
3.
KẾT
LUẬN,
NGHỊ.............................................................................19

KIẾN


2


3.1.
luận........................................................................................................19

Kết

3.2.
nghị......................................................................................................19

Kiến

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, việc đổi mới giáo dục diễn ra rất sôi động trên
thế giới và ở nước ta. Để đáp ứng tốt sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới đồng bộ cả mục đích, nội dung,
phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học.
Xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là nhằm mục đích phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, trong đó giáo viên đóng vai trò là
người tổ chức, điều khiển sự học tập của học sinh. Còn học sinh tự tìm tòi, tìm
kiếm kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có thể nói, trong cách dạy học
hiện nay các phương pháp dạy học tích cực đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Thực trạng ở nhiều trường trung học phổ thông hiện nay việc giảng dạy các
kiến thức khoa học nói chung và kiến thức vật lý nói riêng, còn đang nặng về
việc truyền thụ lý thuyết trong sách giáo khoa, nhiều khi học sinh ghi nhớ kiến
thức một cách máy móc theo kiểu học thuộc lòng. Việc dạy học chủ yếu là vì
mục tiêu làm sao để học sinh có thể giải nhanh và giải được nhiều các câu trong
đề thi. Cách học và cách dạy đó dẫn tới một hệ quả là học sinh rất thụ động

trong việc tiếp thu và vận dụng kiến thức, khái niệm tự học và sáng tạo là một
thứ gì đó xa vời. Học sinh trở thành những cỗ máy ghi chép và giải toán, học
sinh có thể giải đúng những bài toán rất khó và phức tạp trong đề thi trung học
phổ thông Quốc gia nhưng lại băn khoăn nhiều hoặc sai sót ở những câu hỏi
thực tiễn rất gần gũi kiểu như: “Ở Việt Nam, mạng điện dân dụng một pha có
điện áp hiệu dụng là bao nhiêu?” Các em ngày càng thiếu kiến thức thực tế và
vô cùng yếu kém trong việc vận dụng kiến thức được học trong sách vở vào
thực tiễn cuộc sống.
Việc vận dụng kiến thức vật lý vào đời sống, thực tiễn có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Nó giúp cho học sinh củng cố, rèn luyện và hoàn thiện kiến thức đã
học. Đồng thời rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, giải thích và hiểu được các hiện tượng trong tự nhiên… Góp phần giáo dục
kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh, kích thích hứng thú học tập
3


cho học sinh và là một trong những điều kiện nhằm phát huy năng lực hoạt động
trí tuệ, tính tích cực, tự lập, sáng tạo của học sinh.
Nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của việc vận dụng kiến thức vật lý vào
thực tiễn đời sống. Để giúp học sinh cải thiện khả năng vận dụng kiến thức được
học vào thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học vật lý ở nhà
trường phổ thông, thực hiện mục tiêu của quá trình giáo dục - đào tạo và để thực
hiện tốt hơn nữa nguyên lý “học đi đôi với hành”. Tôi lựa chọn và tiến hành
nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Khai thác và sử dụng bài tập có nội dung thực tế trong dạy học phần
khúc xạ ánh sáng ở chương trình vật lý 11 ”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, khai thác và sử dụng các bài tập có nội dung thực tế trong dạy
học vật lý nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, nâng cao khả
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho học sinh, qua đó nâng cao hơn nữa

chất lượng dạy học vật lý ở trường trung học phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Do điều kiện hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu:
Khai thác và sử dụng bài tập có nội dung thực tế trong dạy học phần khúc
xạ ánh sáng ở chương trình vật lý 11 .
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp lý thuyết.
2. Phương pháp thực tiễn.
3. Phương pháp điều tra.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
- Hiện nay trong sách giáo khoa vật lý đã đưa các bài tập thực tế vào nội
dung chương trình, song do nhiều hạn chế và phải đảm bảo yêu cầu nội dung
của sách giáo khoa nên số lượng bài tập thực tế chưa được nhiều, nội dung và
hình thức chưa thật phong phú, dẫn đến việc sử dụng bài tập thực tế của giáo
viên trong dạy học còn rất ít. Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này giúp cho giáo
viên và học sinh có thêm nhiều bài tập thực tế phong phú để tham khảo, sử dụng
trong việc giảng dạy và học tập phần khúc xạ ánh sáng.
- Nhiều tác giả đã đề cập đến các bài tập thực tế trong tài liệu, nhưng chưa
tập trung khai thác xây dựng bộ bài tập thực tế và chưa định hướng cách sử
dụng, chưa nêu ra các biện pháp sử dụng cụ thể giúp giáo viên sử dụng chúng
một cách có hiệu quả trong hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ lên lớp
môn vật lý. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần khắc phục những vấn đề
trên.
4


- Đề tài góp phần xây dựng được tài liệu về bài tập thực tế trong dạy học
phần quang hình học ở trường trung học phổ thông.

2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Khái niệm về bài tập có nội dung thực tế trong môn Vật lý
Trước hết cần khẳng định rằng, bài tập thực tế và bài tập định tính là hai
khái niệm có thể tách ra làm hai nhưng chỉ mang tính tương đối.
Bài tập thực tế là những câu hỏi liên quan đến vấn đề rất gần gũi với thực
tế đời sống mà khi trả lời học sinh không những phải vận dụng linh hoạt các
khái niệm, quy tắc, định luật vật lí mà còn phải nắm chắc và vận dụng tốt các hệ
quả của chúng. Các bài tập thực tế chú trọng đến việc chuyển tải kiến thức từ lí
thuyết sang những ứng dụng kỹ thuật đơn giản tương ứng, và giải thích cũng
như liên hệ với các vấn đề thường gặp trong cuộc sống.
2.1.2. Phân loại bài tập có nội dung thực tế
Với mục đích nghiên cứu sử dụng bài tập thực tế cho đối tượng học sinh
trung học phổ thông, dựa vào mức độ kiến thức được trang bị, kết hợp với “vốn
hiểu biết”, “kinh nghiệm sống” của chính bản thân học sinh, có thể chia làm hai
loại: Bài tập thực tế tập dượt và bài tập thực tế sáng tạo.
- Bài tập thực tế tập dượt là loại câu hỏi thường đặt ra những ứng dụng kĩ
thuật đơn giản (cách làm) thường gặp trong cuộc sống và yêu cầu học sinh nhận
diện những kiến thức vật lí nào đã được ứng dụng. Khi trả lời các câu hỏi loại
này, học sinh không những cảm nhận được sự gắn kết chặt chẽ giữa kiến thức
vật lí với thực tiễn cuộc sống mà còn làm gia tăng vốn kinh nghiệm, rèn luyện
tư duy kĩ thuật, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống của chính bản
thân các em.
Ví dụ: Khi chẻ những khúc củi lớn người ta thường dùng những cái nêm (là
vật thường làm bằng thép có tiết diện hình tam giác) cắm vào khúc củi, sau đó
lấy búa đập mạnh vào nêm. Thực tế cho thấy khi gõ mạnh búa vào nêm thì củi
bị chẻ ra dễ dàng hơn so với cách dùng rìu để bổ trực tiếp. Hãy giải thích tại
sao?
5



- Bài tập thực tế sáng tạo là loại câu hỏi mà khi giải, học sinh phải dựa vào
vốn kiến thức của mình về sự hiểu biết của các quy tắc, định luật, trên cơ sở các
phép suy luận logic tự lực tìm ra những phương án kỹ thuật tốt nhất để giải
quyết yêu cầu đặt ra của câu hỏi.
Ví dụ: Người ta muốn tháo ra ngoài một cái đinh ốc làm bằng thép đã được
vặn rất chặt vào đai ốc làm bằng đồng. Hãy tìm một phương án đơn giản để việc
tháo đinh ốc ra trở nên dễ dàng hơn.
2.1.3. Các hình thức thể hiện bài tập có nội dung thực tế
Do đặc điểm bài tập thực tế là nội dung của chúng gắn liền với những
hiện tượng, sự vật gần gũi với thực tế đời sống và chú trọng đến những ứng
dụng kĩ thuật đơn giản tương ứng nên phần lớn các câu hỏi thường được thể
hiện bằng lời, một số câu hỏi mà nội dung chứa đựng nhiều thông tin có thể
dùng hình vẽ, hình ảnh, hay các đoạn phim video clip ngắn để minh hoạ.
Thể hiện bài tập thực tế bằng lời
Cách thể hiện bài tập thực tế bằng lời chỉ sử dụng khi sự vật, hiện tượng
hay các thao tác kĩ thuật được đề cập đến hoàn toàn có thể mô tả một cách ngắn
gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ tưởng tượng. Khi nghe xong câu hỏi học sinh có thể
hiểu và tưởng tượng ngay một cách chính xác những thông tin về vấn đề mà các
em cần phải giải thích.
Ví dụ: Tại sao khi xe đang chạy trên đường, nếu hãm phanh đột ngột thì ta
ngã về phía trước?
Thể hiện bài tập thực tế bằng cách dùng hình vẽ, ảnh chụp minh họa
Cách thể hiện bài tập thực tế thông qua hình vẽ, hình ảnh minh họa được sử
dụng trong những trường hợp có nhiều thao tác kỹ thuật phải trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, nên chỉ mô tả bằng lời thì sẽ rất dài dòng, khó hiểu, học sinh
khó tưởng tượng.
Thể hiện bài tập thực tế bằng các đoạn phim video clip ngắn minh họa
Trong những điều kiện cho phép, việc thể hiện bài tập thực tế thông qua
những đoạn phim video clip ngắn minh họa có tác dụng rất cao vì khi quan sát,
học sinh có cái nhìn khái quát, theo dõi được trình tự thực của hiện tượng xảy

ra, các thao tác kĩ thuật… nhờ đó có thể nhận biết được các dấu hiệu cơ bản,
liên tưởng nhanh đến các kiến thức vật lí tương ứng.
2.1.4. Định hướng trả lời các bài tập có nội dung thực tế
Đối với loại bài tập thực tế tập dượt
Bước 1. Tìm hiểu đầu bài, nắm vững giả thiết và các yêu cầu của bài tập
Đọc kĩ nội dung câu hỏi để tìm các thuật ngữ chưa biết, tên gọi của các bộ
phận cấu trúc,… đặc biệt quan tâm đến các thao tác kĩ thuật nêu trong câu hỏi
(bằng cách tự đặt ra và trả lời các câu hỏi phụ như “làm cái gì?”, “làm như thế
nào?”). Xác định ý nghĩa vật lí của các thuật ngữ, tóm tắt đầy đủ các giả thiết và
6


hiểu rõ yêu cầu của các câu hỏi (cần giải thích cái gì?). Đối với các bài tập thể
hiện bằng hình ảnh, phim minh họa, cần quan sát kĩ và khảo sát chi tiết các
thông tin minh họa, nếu cần thiết phải vẽ hình để diễn đạt những điều kiện của
câu hỏi để so sánh các trường hợp riêng, điều này có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát hiện mối liên quan giữa sự vật, hiện tượng nêu trong câu hỏi với các
kiến thức vật lí tương ứng.
Bước 2. Phân tích hiện tượng và các thao tác kĩ thuật
Nghiên cứu các dữ kiện ban đầu của câu hỏi (những hiện tượng gì, sự kiện
gì, các tác động kĩ thuật nào…) để nhận biết chúng có thể liên quan đến những
khái niệm nào, quy tắc nào, định luật nào trong vật lí. Nếu các thao tác kĩ thuật
diễn ra theo nhiều giai đoạn, cần xác định đâu là những giai đoạn chính, trong
đó động tác kĩ thuật nào là cơ bản. Khảo sát xem mỗi giai đoạn diễn biến đó bị
chi phối bởi các quy tắc nào, định luật nào…trên cơ sở đó hình dung toàn bộ
diễn biến của hiện tượng và các định luật, quy tắc chi phối nó.
Bước 3. Xây dựng lập luận và xác lập bài tập
Giải thích về các thao tác kĩ thuật (cách làm) thực chất là cho biết các thao
tác kĩ thuật đó là sự vận dụng của kiến thức vật lí nào và tại sao làm như thế có
thể đạt hiệu quả cao. Muốn vậy, phải định hướng và thiết lập được mối quan hệ

giữa đặc tính của sự vật và cách làm cụ thể nêu trong câu hỏi với một số hiện
tượng hay định luật vật lí, tức là phải thực hiện các phép suy luận logic, trong đó
cơ sở kiến thức phải là một đặc tính chung của sự vật hoặc định luật vật lí có
tính tổng quát áp dụng vào những điều kiện cụ thể của đề bài mà kết quả cuối
cùng là việc nêu bật tính ứng dụng của kiến thức vật lí vào hiện tượng hay cách
làm đã được nêu trong đề bài.
Thực tế cho thấy, các bài tập thực tế thường rất đa dạng vì nó phản ánh
chân thực những công việc cụ thể thường diễn ra trong cuộc sống, nên đối với
học sinh trung học phổ thông, thoạt nhìn thì khó có thể phát hiện ngay được mối
quan hệ giữa hiện tượng, sự việc đã cho với những định luật vật lí đã biết. Trong
những trường hợp như thế, cũng cần phân tích hiện tượng phức tạp ra các hiện
tượng đơn giản sao cho mỗi hiện tượng đơn giản chỉ tuân theo một định luật hay
một quy tắc nhất định.
Bước 4. Kiểm tra tính chính xác của bài tập
Đối với loại bài tập thực tế tập dượt, vì trong đề bài nêu rõ sự kiện và các
thao tác kĩ thuật (cách làm) tương ứng nên cũng có trường hợp lời giải thích có
chỗ bị sai mà không xác định được mình sai ở điểm nào. Nên hết sức thận trọng
khi phát biểu các định luật, các quy tắc làm cơ sở lập luận, chú ý các điều kiện
áp dụng các quy tắc, các định luật bởi vì nhiều quy tắc, định luật vật lý chỉ được
áp dụng trong một phạm vi hẹp nào đó, trong khi đó các sự kiện diễn ra trong
thực tế đời sống chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau có thể vượt ra
ngoài phạm vi vận dụng của các quy tắc, định luật đã vận dụng trong quá trình
lập luận. Thông thường để có thể kiểm tra tính hợp lí của các câu trả lời cần đối
7


chiếu phạm vi áp dụng các quy tắc hay định luật vật lý đã sử dụng với các yếu
tố tác động sự kiện được nêu trong câu hỏi xem chúng có tương đồng và có thể
chấp nhận hay không. Trong nhiều trường hợp có thể làm những thí nghiệm, mô
hình đơn giản (có tính tương đồng với sự kiện đã nêu trong bài tập) để kiểm

chứng lời giải thích.
Đối với loại bài tập thực tế sáng tạo, mục tiêu cuối cùng đòi hỏi phải lựa
chọn và tìm ra những phương án kĩ thuật tốt nhất (trong điều kiện cho phép) để
giải quyết yêu cầu đặt ra của bài tập, ta có thể áp dụng lần lượt các bước tiến
hành như sau:
Bước 1. Tìm hiểu đầu bài, nắm vững giả thiết và yêu cầu của bài tập
Đọc kĩ câu hỏi để hiểu rõ sự vật, hiện tượng hay sự kiện nêu trong bài tập
có thể liên quan đến những lĩnh vực nào của vật lí để từ đó có sự “khoanh vùng”
hợp lí. Cần chú ý đến các điều kiện cho trước để thu hẹp phạm vi ứng dụng các
kiến thức vật lí tương ứng. Nhìn chung việc nắm vững giả thiết và yêu cầu của
câu hỏi quy về việc phải trả lời được các câu hỏi như: Cần phải làm gì? Làm
bằng cái gì?
Bước 2. Phân tích sự kiện và xây dựng các phương án thực hiện
Xuất phát từ những dữ kiện ban đầu (sự kiện gì, các mục đích cuối cùng
cần đạt được là gì), cần liên tưởng đến các quy tắc hay định luật tương ứng, từ
đó vạch ra một số phương án khả dĩ có thể thực hiện được. Nói chung, đích cuối
cùng của bước này là trả lời được các vấn đề đặt ra của bài tập: có bao nhiêu
cách làm? làm như thế nào?
Bước 3. Lựa chọn phương án và xác lập câu trả lời
Trong bước này, cần căn cứ vào những phương án đã đưa ra để lựa chọn
phương án khả thi nhất, phương pháp chủ yếu để lựa chọn là phân tích, so sánh
dạng bài tập cần phải đặt ra và giải thích được là tại sao phải làm thế này? Làm
như thế này có lợi gì?
Thực tế cho thấy, khi trả lời các bài tập thực tế sáng tạo, học sinh thường
chỉ đưa ra cách thực hiện cuối cùng theo cảm tính mà “giấu” đi phần lập luận
cần thiết, chính vì vậy trong giờ học vật lí, giáo viên nên thường xuyên chỉ rõ
những ứng dụng về mặt kĩ thuật của các quy tắc, các định luật vật lí trong đời
sống thực tế, nhằm rèn luyện tư duy kĩ thuật và khả năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn cho học sinh.
Bước 4. Kiểm tra tính khả thi và tính hiệu quả của phương án lựa chọn

Bên cạnh việc dùng lí thuyết (kiến thức vật lí) để kiểm tra thì một trong các
biện pháp có hiệu quả nhất để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của phương án
đã lựa chọn là tiến hành thực nghiệm. Ở các trường THPT hiện nay, do những
khó khăn về cơ sở vật chất nên biện pháp này khó có thể thực hiện được một
cách triệt để, trong những điều kiện như thế nên tận dụng những thí nghiệm đơn
giản có thể tự làm bằng những vật dụng thông thường (có sẵn trong gia đình).
8


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng về vấn đề vận dụng kiến thức vật lý vào thực tế đời sống
của học sinh trung học phổ thông hiện nay
Chương trình vật lí trung học phổ thông hiện nay bao gồm nhiều phần khác
nhau như cơ học, nhiệt học, quang học, điện học… Mỗi phần lại bao gồm nhiều
đơn vị kiến thức khác nhau tương ứng với các cách tiếp cận kiến thức khác
nhau. Với một khối lượng kiến thức lớn như vậy, lẽ ra việc vận dụng kiến thức
vào đời sống, việc vận dụng những kiến thức vào đời sống, việc giải thích các
hiện tượng xảy ra hằng ngày xung quanh các em không phải là vấn đề khó khăn.
Nhưng điều đó đã không diễn ra trên thực tế như những gì chúng ta mong đợi.
Những câu hỏi kiểu như “Vào những trưa nắng khi đi trên đường cao tốc ta
có cảm giác dường như có vũng nước trên đường ở phía trước mặt đó là do hiện
tượng vật lý nào? ” hay “Công tơ điện dùng để đo đại lượng vật lý nào? ” khiến
nhiều học sinh không thể trả lời được. Ngay cả với các em học sinh giỏi, khi làm
những làm những bài toán có liên quan tới kiến thức thực tế chẳng hạn như loại
bài tập về phương án thực hành thì các em cũng rất khó khăn trong việc tìm
hướng giải quyết.
Trong quá trình giảng dạy môn vật lý tại đơn vị, kết hợp với việc khảo sát ở
các đối tượng học sinh trung học phổ thông của các trường lân cận, tôi nhận
thấy thực trạng về vấn đề vận dụng kiến thức vật lí vào đời sống thực tế của học
sinh trung học phổ thông hiện nay còn rất nhiều hạn chế. Những biểu hiện phổ

biến là:
- Hạn chế hiểu biết về các dụng cụ, phương tiện kĩ thuật đơn giản sử dụng
trong dạy học.
- Hạn chế khả năng vận dụng các kiến thức vào các vấn đề kĩ thuật đơn
giản.
- Hạn chế về các thao tác thực hành, thí nghiệm.
- Hạn chế về khả năng liên tưởng, tư duy logic trong quá trình vận dụng
kiến thức vào việc giải thích các hiện tượng trong thực tế.
2.2.2. Thực trạng về vấn đề sử dụng bài tập có nội dung thực tế trong dạy
học vật lí ở các trường trung học phổ thông hiện nay
Qua việc dự giờ các tiết dạy của đồng nghiệp cũng như khảo sát qua các đề
thi kiểm tra từ các trường trung học phổ thông lân cận, thông qua việc thăm dò
trực tiếp từ học sinh. Cho thấy:
- Đa số các giáo viên chủ yếu sử dụng và chú trọng đến các bài tập tính
toán mà rất ít sử dụng bài tập thực tế vào bài dạy, bài kiểm tra. Trong khi đó hầu
hết các em học sinh được hỏi đến đều cho rằng, việc vận dụng các kiến thức vật
lý để giải các bài tập thực tế là rất cần thiết và rất thú vị.
- Việc sử dụng thí nghiệm vào các tiến trình dạy học là rất ít, một số học
sinh cho rằng chưa bao giờ được tự tay làm thí nghiệm.
9


- Hầu hết giáo viên đều không sử dụng bài tập thực tế vào việc kiểm tra
đánh giá học sinh.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề
2.3.1. Các giải pháp để tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vật lý vào
đời sống
Để giúp học sinh có thể vận dụng các kiến thức vật lý được học vào thực
tiễn, cần phải tăng cường việc lồng ghép vào bài học nhiều câu hỏi thực tế

phong phú và dành thời gian cho học sinh suy nghĩ, thảo luận, liên hệ với thực
tế, giúp cho học sinh giải quyết được các tình huống theo hướng tích cực hoá
hoạt động nhận thức, học sinh có điều kiện được suy nghĩ nhiều hơn, làm việc
nhiều hơn và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cũng linh hoạt hơn.
Theo tôi, để đạt được mục tiêu này cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần có những đổi mới tích cực trong việc soạn bài dạy trên lớp
của giáo viên.
Theo tôi, đây là giải pháp có thể thực hiện được ngay ở các trường phổ
thông. Khi soạn bài dạy, giáo viên cần lưu tâm nhiều đến việc làm sao cho học
sinh có thể vận dụng tốt các nội dung kiến thức trong bài dạy vào thực tế, muốn
vậy giáo viên phải lồng ghép vào bài dạy nhiều câu hỏi thực tế có liên quan trực
tiếp đến bài học, qua đó giúp học sinh có thể liên hệ từ kiến thức đã học với thực
tiễn cuộc sống của mình. Nó sẽ có tác dụng rất lớn trong nhận thức và phương
pháp học tập của học sinh. Đồng thời, giáo viên có thể tăng thêm hiệu quả của
câu hỏi thực tế bằng cách sử dụng thêm câu hỏi thực tế ở phần cuối của đề kiểm
tra hay đề thi. Như thế, với tỉ lệ điểm số không cần lớn lắm trong bài kiểm tra ta
vẫn có thể đưa việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn thành một trong những
mục tiêu của quá trình học tập của học sinh.
Thứ hai, việc đổi mới phương pháp dạy học cần phải được tiến hành rộng
khắp, các hình thức dạy học theo lối “thông báo - tái hiện”, “dạy chay” cần phải
từng bước xoá bỏ, thay vào đó là các phương pháp dạy học mới, hiện đại hơn.
Xu hướng dạy học mới hiện nay là dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực nhận thức của học sinh. Theo đó:
- Nội dung dạy học phải mới, cái mới ở đây không phải là quá xa lạ với học
sinh, cái mới phải liên hệ và phát triển từ cái cũ, kiến thức phải có tính thực tiễn,
gần gũi với sinh hoạt, với suy nghĩ hàng ngày, thoả mãn nhu cầu nhận thức của
học sinh.
- Cần phối hợp tốt nhiều phương pháp như nêu vấn đề, thí nghiệm, thực
hành, so sánh... kiến thức phải được trình bày trong dạng động.
- Sử dụng phối hợp tốt các phương tiện dạy học. Sử dụng nhiều hình thức

dạy học khác nhau như làm việc theo nhóm, tham quan, làm việc trong phòng
thí nghiệm...
- Kích thích tính tích cực qua thái độ, cách ứng xử giữa thầy giáo và học
sinh. Giáo viên, bạn bè thường xuyên động viên, khen thưởng khi học sinh có
thành tích học tập tốt.
10


- Luyện tập dưới nhiều hình thức khác nhau, vận dụng kiến thức vào những
tình huống mới của thực tiễn. Phát triển kinh nghiệm sống của học sinh trong
học tập.
Đặc biệt, vật lí học là một môn khoa học thực nghiệm, bởi vậy đòi hỏi giáo
viên bộ môn phải tăng cường việc sử dụng thí nghiệm và các phương tiện trực
quan trong quá trình dạy học. Điều đó là một yếu tố mang tính đột phá đối với
chiến lược đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Trong dạy học vật lí, người
giáo viên cần phát huy tính tích cực của học sinh bằng cách tạo nhu cầu hứng
thú, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh; xây dựng lôgic nội dung
phù hợp với đối tượng học sinh; tập dượt để học sinh giải quyết vấn đề nhận
thức bằng phương pháp nhận thức của vật lí; rèn luyện cho học sinh kĩ năng
thực hành; rèn luyện ngôn ngữ vật lí và cách diễn đạt ngôn ngữ vật lí cho học
sinh. Có như thế, vấn đề vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh sẽ được
phát huy tối đa.
Những giải pháp kể trên liên quan đến rất nhiều vấn đề, tuy nhiên đối với
mỗi giáo viên có thể chủ động thực hiện những cải tiến trong dạy học để giúp
khắc phục tình trạng học sinh quá yếu kém trong việc vân dụng kiến thức đã học
vào thực tế cuộc sống của chính mình.
Dưới đây tôi xin trình bày việc khai thác và sử dụng một số bài tập thực tế
xây dựng trong phần khúc xạ ánh sáng ở chương trình vật lý 11.
2.3.2. Xây dựng một số bài tập thực tế phần khúc xạ ánh sáng
2.3.2.1. Bài tập có nội dung thực tế về “Hiện tượng khúc xạ ánh sáng”

Bài 1: Nhúng một chiếc thìa vào trong nước, ta
thấy chiếc thìa đó như bị gãy tại mặt nước như
hình 1. Hãy giải thích tại sao?

(Hình 1)

Nhận xét: Đây là dạng bài tập thực tế loại tập dượt.
Phân tích bài tập: sau khi đọc kỹ đầu bài, ta rút ra một số thông tin như
sau:
- Sự kiện nêu ra trong bài tập là: nhúng chiếc thìa vào ly nước.
- Thao tác tiến hành: sau khi nhúng chiếc thìa vào ly nước, quan sát chiếc
thìa đó và đưa ra nhận xét.
- Vấn đề cần giải quyết: ta thấy chiếc thìa đó như bị gãy ở mặt nước. Hãy
giải thích tại sao?
11


Định hướng trả lời bài tập
- Từ điều kiện nhìn thấy ảnh của một vật: tia sáng phải xuất phát từ vật
truyền đến mắt.
- Chiếc thìa như “bị gãy” ở mặt nước nguyên nhân do tia sáng từ đầu dưới
của chiếc thìa đến mắt ta không theo một đường thẳng. Tức là tia sáng bị lệch
phương khi đi từ môi trường nước ra môi trường không khí và truyền đến mắt
ta.
- Sử dụng định luật khúc xạ ánh sáng để giải quyết bài tập này.
Xây dựng câu trả lời cho bài tập
Sở dĩ ta thấy chiếc thìa như “bị gãy” ở mặt nước là do hiện tượng khúc xạ
ánh sáng. Tia sáng đi từ đầu dưới của chiếc thìa (đầu ngập trong nước) bị khúc xạ
từ nước vào không khí trước khi đến mắt ta. Vì vậy hình ảnh đầu dưới của chiếc
thìa như được nâng lên, trong lúc đó điểm chiếc thìa cắt mặt nước có ảnh trùng

với nó. Do đó ta có cảm giác như chiếc thìa bị gãy ở mặt nước.
Sự nâng lên của đều dưới chiếc thìa khi nhúng trong nước có thể được biểu
diễn như sau:
r
Với góc i, r bé ta có: sin i ≈ tan i; sin r ≈ tan r
H
sin i
tan i 1
Ta có:
=
=
H
sin r
tan r n
Mặt khác: tan i=

HI
HI
; tan r =
HA
HA'

tan i
HA" HA - AA' 1
Vậy
=
=
=
tan r
HA

HA
n

A’

i

A

 1
Đầu dưới của chiếc thìa được nâng lên một khoảng: AA' = HA1 - 


n

Chính vì lý do đó mà ta thấy chiếc thìa như bị gãy ở mặt nước.
Có thể giới thiệu và cho học sinh giải thích một số bài tập tương tự như
hiện tương vừa giải thích:
+ Khi nước sông hồ trong, ta có thể nhìn thấy tận đáy và tưởng chừng như
nó rất cạn nhưng kỳ thực là nó sâu hơn ta tưởng, đó cũng do sự nâng lên của đáy
sông, hồ vì hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Với góc nhìn càng lớn thì độ nâng lên
của ảnh càng lớn.
+ Một người nhìn thấy con cá ở trong nước. Nếu muốn đâm trúng con cá,
thì người đó phải phóng mũi lao vào chỗ nào? Tại sao lại như vậy nhỉ?
+ Trong thực tế, người ta nhìn thấy Mặt Trời ló ra khi nó chưa mọc thực sự
ngang đường chân trời. Và tương tự, vào lúc hoàng hôn ta vẫn còn nhìn thấy
Mặt Trời khi nó thực sự lặn ở chân trời. Tại sao lại xảy ra như vậy nhỉ?
12



Bài 2: Khi pha nước đường, khi đường
chưa tan hết trong ly giữa những khối nước ta
thấy có những vân trong suốt. Hãy giải thích
hiện tượng này?

(Hình 2)

Gợi ý trả lời: Nước đường có chiết suất lớn hơn so với nước tinh khiết.
Ánh sáng truyền trong nước tinh khiết khi gặp nước đường thì khúc xạ và phản
xạ, làm cho ta thấy được mặt phân cách giữa nước đường và nước tinh khiết.
Khi nước đường trong ly chưa tan hết, trong ly có những vân dung dịch đặc
ở trong môi trường dung dịch loãng. Vì vậy ta thấy có những vân trong suốt
trong ly nước đường. Khi đường đã tan hết, trong ly đã trở thành một dung dịch
đồng chất nên ta không trong thấy những vân nước đường nữa.
Bài 3: Vào những đêm hè trời
quang đãng, không trăng, nhìn lên bầu
trời đầy sao ta có cảm giác các vì sao
lấp lánh, lung linh một cách kì ảo. Phải
chăng các vì sao lấp lánh ấy là do cường
độ sáng không đồng đều? Hãy giải thích
hiện tượng đó?

(Hình 3)

Gợi ý trả lời: Nguyên nhân chính là do các tia sáng đi từ các vì sao tới mắt
ta phải đi qua lớp khí quyển của Trái Đất. Ban ngày, Trái Đất bị Mặt Trời nung
nóng, nên trong khí quyển có những dòng khí đối lưu nhỏ, chúng có chiết suất
khác nhau. Tia sáng truyền từ các vì sao khi đi qua những dòng khí ấy bị khúc
xạ, lúc lệch sang bên này, lúc lệch sang bên kia. Kết quả là gây cho ta cảm giác
về sự lung linh của các vì sao. Còn trên thực tế thì cường độ sáng của các vì sao

khi chiếu đến chúng ta là đồng đều.
Hiện tượng lấp lánh trên ta càng thấy rõ hơn khi nhìn các ngôi sao càng gần
phía chân trời, với các ngôi sao đó, góc nhìn tương ứng với các vị trí đó là lớn
nên ta càng quan sát rõ hơn. Còn các ngôi sao ngay ở trên đỉnh đầu thì ta không
thể quan sát thấy hiện tượng đó.

13


Bài 4: Khi chiếu ánh sáng Mặt
Trời vào một bể cá, ta thấy dưới đáy
bể có những vệt sáng ngoằn ngoèo.
Hãy giải thích hiện tượng trên?

(Hình 4)

Gợi ý trả lời: Nếu bể nước hoàn toàn yên lặng thì sự khúc xạ của các tia
sáng Mặt Trời vào nước là như nhau, mọi điểm trên đáy bể đều có cường độ
sáng như nhau nên không có hiện tượng này xảy ra. Khi có cá bơi trong bể,
nước trong bể bị lay động, mặt nước xuất hiện những gợn sóng nhỏ mà mắt
thường có thể không nhìn thấy được những gợn sóng này. Chính vì lẽ đó mà sự
khúc xạ của các tia sáng Mặt Trời vào trong nước không đồng đều, có những
chỗ nhận được nhiều tia sáng khúc xạ làm cường độ sáng đó mạnh hơn, những
chỗ ít nhận được tia khúc xạ làm cường độ sáng chỗ đó yếu hơn. Kết quả là trên
đáy bể, ta thấy những vệt sáng ngoằn ngoèo.
Bài 5: Đôi khi chúng
ta thấy xung quanh Mặt
trời hay Mặt trăng xuất
hiện một vầng hào quang
mờ mờ, vầng sáng này được

gọi là "quầng Mặt trời" hay
"quầng Mặt trăng". Tại sao lại
có hiện tượng này?

(Hình 5)

Gợi ý trả lời: Việc tạo nên quầng là do tác dụng của tầng khí quyển.
Những lúc này, những vùng gần Mặt trời hay Mặt trăng thường xuất hiện tình
trạng không khí nóng và không khí lạnh giao hỗn lẫn nhau. Không khí nóng
mang đầy hơi nước vượt lên trên không khí lạnh và bay lên bầu trời. Khi hơi
nước trên bầu trời gặp nhiệt độ thấp ngưng tụ lại thành những hạt băng có hình
lăng trụ lục giác, ánh sáng Mặt trời hay Mặt trăng sẽ chiếu vào những hạt băng
này và sinh ra hiện tượng khúc xạ, như vậy chúng ta sẽ nhìn thấy vầng hào
quang xung quanh Mặt trời hay Mặt trăng.
Vầng hào quang xung quanh Mặt trời không những chỉ có màu bạc, mà đôi
khi còn xuất hiện lên nhiều màu sắc như bảy sắc cầu vồng do hiện tượng tán sắc;
còn vầng hào quang của Mặt trăng đa phần có màu bạc.
2.3.2.2. Bài tập có nội dung thực tế về “Hiện tượng phản xạ toàn phần”
14


Bài 1: Vào những ngày mùa hè
nóng nực và ít gió, đi trên xe ôtô,
hay xe mô tô nhìn tới phía trước
đường nhựa, ở đằng xa ta thấy mặt
đường loang loáng như có nước
nhưng khi tới gần thì thấy mặt
đường khô ráo. Tại sao có hiện
tượng như vậy? Hãy giải thích điều
đó?

(Hình 6)

Nhận xét: Đây là dạng bài tập thực tế loại tập dượt.
Phân tích bài tập: Sau khi đọc kỹ bài ta rút ra một số thông tin như sau:
- Sự kiện nêu ra trong đầu bài: vào những ngày mùa hè nóng nực, ít gió.
Khi đi trên xe ôtô, xe mô tô nhìn về phía trước đường nhựa. Nhận xét về hiện
tượng ta hay bắt gặp.
- Vấn đề cần giải quyết: khi nhìn về phía trước đường nhựa, ở đằng xa ta
thấy mặt đường loang loáng như có nước nhưng khi đến gần thì mặt đường khô
ráo. Hãy giải thích?
Định hướng các câu hỏi cho việc phân tích và xác lập câu trả lời cho bài
tập.
- Hiện tượng trên liên quan đến tính chất nào của ánh sáng?
- Vì sao những ngày nắng, ít gió ta mới nhìn thấy hiện tượng này? Thế còn
khi có gió thì sao?
- Hiện tượng này xảy ra ở mặt đường đất hay không?
- Tại sao ta lại có cảm giác như có nước chảy qua, nhưng khi đến gần thì
mặt đường khô ráo?
Xây dựng câu trả lời.
- Hiện tượng trên là do sự khúc xạ và hiện tượng phản xạ toàn phần của
ánh sáng qua các lớp không khí gây nên.
- Mặt đường trong những ngày nắng bị Mặt Trời nung nóng. Mặt đường
nhựa làm bằng hắc ín nên hấp thụ nhiệt tốt, do đó nhiệt độ mặt đường là rất
cao. Hiện tượng trên không xảy ra trên mặt đường đất vì mặt đường đất có
nhiệt độ không cao, và mặt đường đất không bằng phẳng như mặt đường
nhựa.
- Không khí tiếp xúc với mặt đường cũng được nung nóng, càng lên cao
nhiệt độ càng giảm nên chiết suất của không khí càng tăng. Ta có thể xem như là
15



không khí được chia thành nhiều lớp và càng lên cao, chiết suất của các lớp này
càng tăng.
- Các tia sáng từ Mặt Trời chiếu xuống các lớp không khí này đi từ lớp
không khí có chiết suất lớn sang lớp không khí có chiết suất nhỏ hơn nên tia
khúc xạ càng xuống thấp càng lệch xa pháp tuyến hơn hay góc tới ở các lớp
không khí tiếp theo tăng dần.
- Khi góc tới ở lớp không khí nào đó thỏa mãn điều kiện phản xạ toàn phần
thì tia sáng bị phản xạ toàn phần tại đây, sau đó tia sáng lại đi từ lớp không khí
có chiết suất bé sang lớp không khí có chiết suất lớn và truyền đến mắt ta.
- Khi nhìn đến điểm đó, ta không quan sát được mặt đường mà ta chỉ thấy
ảnh của nền trời màu trắng. Do chiết suất của không khí là không đều nhau nên
sự phản xạ toàn phần đó chỉ xảy ra một vùng rất nhỏ và có nhiều vùng như vậy
cùng cho hiện hiện tượng phản xạ toàn phần nên gây cho ta cảm giác giống như
là quan sát thấy mặt đường loang loáng như có nước.
- Hiện tượng ảo tượng cũng xảy ra trong điều kiện trời ít gió, nếu trời có
gió sẽ làm cho các lớp không khí bị xáo trộn, không hình thành các lớp không
khí có chiết suất tăng dần theo độ cao. Chính vì vậy hiện tượng ảo tượng khó có
thể xảy ra.
Có thể đưa ra các bài tập khác tương tự như hiện tượng vừa giải thích
như:
- Ngày 16 – 8 – 1815, dân cư ở thành phố Vecviê nước Bỉ nhìn lên trời thấy
toàn cảnh chiến thành Walterloo giữa
liên quân nước Anh - Phổ và quân của
Napôlêông xảy ra cách đó 105 km theo
đường chim bay (Hình 7).
Hãy giải thích hiện tượng kì lạ này?

(Hình 7)


-Thành phố ảo “hiện hình” trên biển
(Hình 8). Ngày 21 – 12 – 2006, hàng
nghìn người đã đổ về bờ biển Penglai
(Trung Quốc) để chứng kiến hiện tượng
ảo ảnh kỳ lạ: từ trong lớp sương mù dày
đặc, một thành phố hiện đại với những
tòa nhà chọc trời, đường sá thênh thang,
xe cộ tấp nập... dần dần lộ ra, thật và rõ
đến ngỡ ngàng.
(Hình 8)

16


- Một đoàn lữ hành rảo bước trên sa mạc nóng bỏng. Trời đã về chiều, họ
mong tới một hòn đảo khi màn đêm
buông xuống. Bỗng họ thấy từ xa một
vũng nước lấp loáng, trên đó in bóng
những cây cọ xanh mát (Hình 9). Họ
vội bước tới, nhưng khi đến nơi, họ
ngạc nhiên và thất vọng chỉ nhìn thấy
những cây cọ trên mặt cát khô, không
một giọt nước. Em hãy giải thích cho
đoàn lữ hành rõ tại sao lại như vậy nhỉ?
(Hình 9)

- Các thủy thủ thường quan sát thấy hiện tượng có con tàu chạy dưới các đám
mây và họ gọi đó là “tàu ma”. Liệu có một con tàu như vậy? Hãy giải thích?
Bài 2: Dựa vào hiện tượng phản
xạ toàn phần, người ta đã chế tạo ra

một loại đèn trang trí để bàn rất đẹp.
Đèn gồm một cái hộp tròn bằng nhựa,
phía trên có một lỗ nhỏ dùng để cắm
vào đó rất nhiều sợi nhỏ như cước,
phía trong hộp có một bóng đèn điện
nhỏ. Vào ban đêm, khi bật đèn, ta thấy
ở đầu những sợi nhỏ sáng lên rất đẹp,
nhưng toàn thân của những sợi nhỏ ấy
lại không có ánh sáng lọt ra (Hình
10). Hãy giải thích xem người ta đã
làm cái đèn đó như thế nào?

(Hình 10)

Gợi ý trả lời: Cái đèn đó được làm bằng cách ứng dụng hiện tượng phản xạ
toàn phần. Người ta chế tạo các sợi nhỏ mà ta nhìn
như sợi cước ấy từ một chất trong suốt, có chiết suất
thích hợp sao cho hiện tượng phản xạ toàn phần có
thể xảy ra bên trong sợi cước. Khi ấy, ánh sáng đèn sẽ
đi vào một đầu sợi, sau khi phản xạ toàn phần liên tục
trên thành sợi và đi ra ở đầu bên kia (Hình 11). Nhờ
đó mà ta thấy ở các đầu các sợi cước sáng lên rất đẹp.
Các sợi dây nhỏ có tinh chất như vậy người ta gọi là
(Hình 11)
các sợi quang học.

17


Bài 3: Buổi sáng, trên

hoa lá cây cỏ có những hạt
sương. Dưới ánh sáng mặt
trời ta thấy chúng sáng lung
linh. Vì sao?

(Hình 12)

Gợi ý trả lời: Do hiện tượng phản xạ toàn phần.

Bài 4: Kim cương là tinh thể
trong suốt đối với ánh sáng nhìn thấy.
Như vậy lẽ ra kim cương phải không
màu như thủy tinh mới đúng, nhưng
trái lại viên kim cương lại có nhiều
màu lấp lánh. Tại sao?

(Hình 13)

Gợi ý trả lời: Sở dĩ kim cương có nhiều màu lấp lánh vì kim cương có chiết
suất lớn ( khoảng 2,4). Ánh sáng ban ngày có thể phản xạ toàn phần với góc giới
hạn phản xạ toàn phần nhỏ ( khoảng 24,60) và có thể phản xạ toàn phần nhiều
lần qua các mặt trong tinh thể kim cương rồi mới ló ra ngoài. Lúc đó do hiện
tượng tán sắc mà các màu của quang phổ ánh sáng trắng được phân tán, vì thế
trong kim cương ta thấy có nhiều màu sắc.
Bài 5: Hiện nay, người ta đang sử dụng một số biển báo hiệu giao thông,
biển số xe ôtô, biển số xe mô tô,... có tính chất phản quang. Khi gặp những biển
báo này, chỉ cần những ánh sáng nhỏ chiếu vào nó cũng đủ cho ta quan sát
được rất rõ. Chúng được chế tạo như thế nào mà có công dụng lớn như vậy
nhỉ?
Gợi ý trả lời: Kiểm tra kỹ về cấu tạo

của các bảng này, ta thấy chúng có lớp sơn
bề mặt không giống với các lớp sơn thông
thường khác. Trên bảng báo hiệu này dùng
một chất kết dính dán một vật liệu sơn
18
(Hình 14)


trong suốt, giữa lớp sơn có kẹp một lớp hạt thuỷ tinh tròn rất nhỏ, chính lớp hạt
thuỷ tinh này đã tạo ra tính chất phản quang tốt như vậy. Minh họa hình 14
Điểm đặc biệt ở đây là lớp sơn và lớp thuỷ tinh có một khả năng quan trọng
là dù tia sáng phát ra từ bất kỳ hướng nào chúng cũng phản xạ trở lai theo
hướng cũ. Đặc tính này làm cho nó phát huy được đặc tính quan trọng trong
giao thông và quản lý giao thông.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Phương pháp dạy học hiện nay là phải phát huy tính tích cực chủ động và
sáng tạo của học sinh, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn đem
lại niềm vui, tạo hứng thú trong học tập. Đặc biệt đối với môn vật lý việc giúp
học sinh vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn là một vấn đề hết
sức quan trọng và cần thiết. Nhận thức được vấn đề này, tôi đã xây dựng đề tài
và áp dụng vào thực tiễn giảng dạy tại đơn vị mình đang công tác. Sau một năm
giảng dạy và nghiên cứu những kết quả đối chứng thực nghiệm, tôi nhận thấy
việc sử dụng “ bài tập thực tế ” trong quá trình dạy học đã giúp cải thiện được
đáng kể tình trạng học sinh quá yếu kém trong trong việc vận dụng kiến thức vật
lý vào thực tế cuộc sống của chính mình, tạo cho học sinh thói quen và sự tự tin
vận dụng kiến thức của bài học vào thực tiễn. Theo tôi, đây là thành công lớn
nhất của đề tài nghiên cứu.
Thực tế cho thấy sau khi đưa vào thử nghiệm giảng dạy đối với khối lớp 11

tại đơn vị công tác, tôi nhận thấy trong giờ học các em học sinh đã có sự say mê
hơn, hứng thú hơn và đặc biệt là các em đã tích cực hoạt động hơn rất nhiều. Sự
tiếp thu kiến thức ở học sinh cũng có những chuyển biến rõ rệt. Đặc biệt khả
năng vận dụng kiến thức bài học vào thực tiễn cũng được cải thiện đáng kể.
Tôi đã chọn “ Bài 26 – Khúc xạ ánh sáng – Vật lý 11 cơ bản ” để tiến hành
kiểm chứng kết quả đạt được của đề tài, chọn lớp 11A 5 làm lớp thực nghiệm áp
dụng đề tài và lớp 11A6 là lớp không được áp dụng đề tài làm lớp đối chứng (hai
lớp có trình độ tương đương). Sau khi giảng dạy xong bài học ở hai lớp tôi đều
cho các học sinh làm một bài kiểm tra 15 phút với nội dung là các câu hỏi thực
tế liên quan tới bài học ( những câu hỏi này không có trong nội dung của bài dạy
tôi đã soạn). Nội dung câu hỏi như sau:
Câu 1: Một người nhìn thấy con cá ở trong nước. Nếu muốn đâm trúng
con cá thì người đó phải phóng mũi lao vào chỗ nào? Tại sao lại như vậy nhỉ?

19


Câu 2: Trong thực tế, người ta nhìn thấy Mặt Trời ló ra khi nó chưa mọc
thực sự ngang đường chân trời. Và tương tự, vào lúc hoàng hôn ta vẫn còn nhìn
thấy Mặt Trời khi nó thực sự lặn ở chân trời. Tại sao lại xảy ra như vậy nhỉ?
Với tiêu chí là đánh giá khả năng của học sinh trong việc vận dụng kiến thức đã
học vào thực tế, tôi thu được kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

Số học sinh đạt điểm ni
0 ≤ ni < 3,5

3,5 ≤ ni < 5


5 ≤ ni < 6,5

6,5 ≤ ni < 8

8 ≤ ni ≤ 10

Thực
0
0
9
16
20
45
nghiệm
0%
0%
20,0%
35,6%
44,4%
(11A5 )
Đối
0
21
15
7
3
46
chứng
0

45,7%
32,6
15,2%
6,5%
(11A6)
Qua bảng kết quả thu được tôi nhận thấy việc vận dụng kiến thức bài học
vào thực tế của lớp thực nghiệm đạt kết quả rất tốt, các em học sinh được học
bài trong đó có sử dụng “ bài tập thực tế ” trong quá trình dạy học đã có thói
quen và sự chủ động trong việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn, qua đó kĩ năng
sống của các em cũng được cải thiện đáng kể.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Xuất phát từ những yêu cầu hết sức cần thiết của việc cải thiện khả năng vận
dụng kiến thức vào thực tế của học sinh, đặc biệt là đối với môn vật lý, tôi đã
mạnh dạn xây dựng đề tài này mong muốn góp phần làm thay đổi thói quen học
tập thụ động, thiếu tính thực tế của học sinh, giúp tăng hiệu quả của quá trình
giảng dạy, và hơn hết là giúp học sinh tự tin hơn trong cuộc sống bằng chính
những kiến thức mình đã được học tập. Qua việc nghiên cứu tài liệu cũng như
hiểu biết từ thực tế giảng dạy ở đơn vị công tác, tôi nhận thấy đề tài này rất cần
thiết và có tính ứng dụng cao. Nó giúp cho học sinh khắc phục được sự yếu kém
trong việc vận dụng kiến thức vật lý vào thực tế, đồng thời phát huy tối đa tính
sáng tạo, gây hứng thú tìm tòi, phát hiện và giải thích các hiện tượng Vật lý của
học sinh. Về mặt tình cảm, học sinh cảm thấy yêu thích môn Vật lý hơn .
3.2. Kiến nghị
Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, các tài liệu mới được cập nhật
chưa nhiều, những vấn đề nêu ra chỉ là sự tìm tòi riêng của bản thân trong quá
Thanh
ngàychế
20trong
thángđề5 tài.

nămVì2017
trình
học nên
sẽTHỦ
khôngTRƯỞNG
tránh khỏi những
saiHóa,
sót, hạn
vậy
XÁCdạy
NHẬN
CỦA
tôi rất mong nhận
được
kiến
củađoan
Hội đây
đồnglàkhoa
học,của
của
ĐƠN
VỊ sự cổ vũ và đóng góp
Tôi ýxin
cam
SKKN
các đồng nghiệp và của các bạn đọc để đềmình
tài cóviết,
thể được
hoàn
không

sao thiện
chép và
nộiđược
dungáp
dụng rộng rãi trong ngành.
của người khác.

Trịnh Văn Toàn

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Vật lý 11, nhà xuất bản Giáo dục 2007.
[2]. Vật lý 11 Nâng cao, nhà xuất bản Giáo dục 2007.
[3]. Sách giáo viên Vật lý 11, NXB Giáo dục 2007.
[4]. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa, Môn
vật lý 11, NXB Giáo dục.
[5]. Bất ngờ và lý thú trong vật lý, NXB Đà Nẵng tác giả Mạnh Hùng – Việt
Thanh.
[6]. Xây dựng hệ thống bài tập định tính nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo trong hoạt động nhận thức của học sinh sau khi giảng dạy phần
quang hình học và tán sắc ánh sáng”, tác giả Trần Thế An, Khóa luận tốt
nghiệp 2007.
[7]

Vật lý vui, quyển 1 và quyển 2, NXB Giáo dục 2002 tác giả I.A.Ipê-RemMan.

[8]. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học Vật lý ở trường
trung học phổ thông, NXB đại học quốc gia Hà Nội, 2001 tác giả Nguyễn

Đức Thâm, Nguyễn Ngọc Hưng.

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Văn Toàn.
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ phó chuyên môn – trường THPT 4 Thọ Xuân

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá xếp
loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

1.

Tổ chức hoạt động ngoài giờ Cấp tỉnh

lên lớp theo chủ đề sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả

C

2010

2.

Sử dụng các phép toán véc tơ Cấp tỉnh
trong bài toán liên quan tới
động lượng

C

2011

3.

Sử dụng vòng tròn để giải Cấp tỉnh
quyết bài toán liên quan đến
quãng đường đi trong dao
động điều hòa

C

2012

22



----------------------------------------------------

23



×