Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số phương pháp dạy học nhằm nâng bậc học sinh đại trà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.2 KB, 20 trang )

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM
” NÂNG BẬC CHẤT LƯỢNG HỌC SINH ĐẠI TRÀ”
1.MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Trong thời kỳ đất nước đang tiến lên “công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Ngành
giáo dục là ngành quan trọng nhất, người thầy đóng vai trò chủ đạo. Ở họ không chỉ
có lòng “yêu nghề mến trẻ” đem hết nhiệt tình để truyền đạt kiến thức cho học sinh
mà còn phải có những biện pháp quản lí học sinh, làm thế nào để đạt hiệu quả cao
trong công tác giảng dạy.
Muốn học sinh tiếp cận được mọi trí thức, người giáo viên phải có biện pháp
giúp các em có ý thức học tập chủ động tiếp thu kiến thức, hăng say và thi đua trong
học tập, nếu có phương pháp phù hợp thì chất lượng các tiết học sẽ tốt, học sinh có
hứng khởi trong các tiết dạy.
Hoạt động học tập là hoạt động có ý thức, có chủ định của con người được tiến
hành trong những điều kiện sư phạm nhất định. Hoạt động của học sinh THPT nhằm
mục đích biến đổi chính người học sinh từ chỗ chỉ có học vấn phổ thông tiến tới là
một người lao động có trình độ cao, có các kĩ năng, phẩm chất của con người mới,
đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của xã hội.
Chất lượng thực của từng lớp, từng năm luôn được lãnh đạo nhà trường, hội
đồng sư phạm nhà trường quan tâm đánh giá cao cho từng giáo viên, tôi đã xây dựng
cho mình kế hoạch, một đề tài “ Phương pháp Nâng bậc chất lượng học sinh đại trà”
1.2 Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này mục đích của tôi giúp tất cả các e HS học yếu có thể
tiến bộ cùng các bạn học khá trong lớp để các em ấy không chán nản tự ti khi học và
làm tiết bài tập
1


Để những buổi học, tiết học không ảm đạm, buồn tẻ. Đồng thời chất lượng HS
cần được nâng cao sau mỗi kì thi định kì, học kì, THPT Quốc gia
1.3 Đối tượng nghiên cứu


Đề tài này sẽ nghiên cứu ở các lớp tôi dạy như C3, A5 các khoá 2014 -2017,
sau khi nghiên cứu đề tài này cần tổng kết được chất lượng tiến bộ của HS yếu, kém
1.4 Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập
thông tin
1.5. Những điểm mới của SKKN:
- Tiếp tục nghiên cứu đề tài này vì tôi thấy cần thiết và thiết thực với tình hình
HS hiện nay nói chung và lớp tôi dạy nói riêng
- Rà soát phân loại HS chuẩn xác hơn
- Liên tục gần gũi bám sát HS hơn, có bài tập phân loại cho HS cùng 1 lớp
- Phù hợp với tình hình thi mới hiện nay
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy người giáo viên phải nắm vững đặc điểm của tri thức
và phương pháp dạy học. Như chúng ta đã biết mỗi bộ môn khoa học đều có đặc điểm
riêng, có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu tương ứng, mang đặc
điểm của bộ môn. Môn phương pháp giảng dạy vật lý có nhiệm vụ tìm con đường
ngắn nhất, hợp lý nhất để trang bị cho học sinh phổ thông kiến thức về những cơ sở
khoa học và phương pháp vật lý, đồng thời rèn luyện cho các em kỹ năng và kỹ xảo
ứng dựng sáng tạo những kiến thức ấy vào thực tiễn sản xuất và đấu tranh. Như vậy là
góp phần trau dồi cho học sinh phương pháp và năng lực nhận thức thế giới và cải tạo
thế giới theo hướng có lợi cho loài người.

2


Giáo viên là những người thầy được đào tạo về kiến thức, về nghiệp vụ chuyên
môn, người thầy còn được trang bị những kiến thức chuyên môn, kiến thức liên môn
trong mỗi tiết dạy nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, trở thành công dân tốt
cho xã hội. Đây là công tác mà bất kì người giáo viên nào có tâm huyết cũng không
thể xem nhẹ được. Tuy nhiên trong nhà trường hiện nay gặp phải không ít khó khăn

trong việc quản lý, giáo dục học sinh sa sút về đạo đức, thiếu ý thức trong việc học
tập, đặc biệt là những học sinh cá biệt, chậm tiến.
2.2-Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường THPT Đinh Chương Dương xuất thân trước kia từ trường bán công , là
một trường có nhiều học sinh học lực yếu, hạnh kiểm không tốt tham dự thi vào
trường, điểm đầu vào luôn thấp hơn so các trường trong huyện Vì vậy, bản thân tôi
luôn trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm và phải có biện pháp thiết thực trong việc
quản lí học sinh, nhẹ nhàng trong từng tiết dạy, nhằm nâng cao chất lượng học sinh
thực ( không ảo ) sau mỗi học kỳ, sau mỗi năm học, có nhiều học sinh học lực yếu,
kém
Vậy chúng ta cần phải nắm rõ và phân tích những thuận lợi, khó khăn của lớp
mình giảng dạy
a. Thuận lợi.
Được sự chỉ đạo sâu sắc của ban giám hiệu nhà trường đề ra kế hoạch cụ thể của
từng tuần, từng tháng, thường xuyên theo dõi kiểm tra đôn đốc.
Sự kết hợp hỗ trợ kịp thời của đoàn thanh niên của ban thi đua trong nhà trường.
Sự cộng tác chặt chẽ từ phía giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm
Sự quan tâm từ phía gia đình và địa phương.
b. Khó khăn.
Thứ nhất là các em có học lực yếu nên các em lười học nên càng học kém
3


- Chưa có mục đích học tập rõ ràng, chưa nhận thức được trách nhiệm và bổn
phận của bản thân.
- Có rất nhiều học sinh có tiềm năng nhưng cảm thấy chán nản về năng lực của
mình, mất dần hứng thú, động cơ học tập. Học sinh tin rằng mình không thể khá lên
được, đánh giá thấp về bản thân mình, không vượt qua được khó khăn, dễ bỏ giữa
chừng, kém tự tin.
- Chán nản là nguyên nhân của hầu hết những thất của học đường, đặc biệt là

với học sinh độ tuổi mới lớn. Một số em cho rằng mình không đáp ứng được yêu cầu
của thầy cô, cha mẹ, không đánh giá mình đúng mức. Trong trường hợp đó học sinh
sẽ quyết định không đáp lại mong mỏi, các yêu cầu do người lớn đề ra nữa.
Thứ hai là trong thời đại bùng nổ thông tin các em thường lơ là việc học chú
trọng vào các trò chơi điện tử trên máy tính, mạng hoặc trên điện thoại di động để có
những lúc
+ Có nhiều mức độ và biểu hiện khác nhau như:
- Dửng dưng trước tình cảm của những người xung quanh
- Coi thường các chuẩn mực cũng như các nghĩa vụ xã hội
- Không có khả năng cảm nhận tội lội, hoặc không thể rút ra những bài học có
ích từ cuộc sống ngay cả sau những lần bị phạt do phạm lỗi như không học bài cũ,
làm bài bị điểm kém
Thứ ba là các em phát triển giới tính sớm có nhiều dấu hiệu yêu đương thẩn thờ
mệt mỏi trong buổi học, tiết học
Thứ tư là thực trạng dư thừa nhân lực khi sinh viên ra trường không có việc làm
nên nhiều học sinh xác định về làm công ty….
- Trong thực tế nhiều học sinh không nhận thức được: Học để làm gì, vì sao phải
học, hoặc chưa biết hài hòa giữa quyền và bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người
4


trong cuộc sống do chưa được nhận thức đầy đủ hoặc chưa đúng cách, hoặc bản thân
thiếu tự giác chấp nhận những bổn phận, trách nhiệm của mình, bên cạnh việc hưởng
thụ các quyền lợi trong gia đình, nhà trường và xã hội. Vì thế các em đi học, đến
trường như là ý muốn của gia đình, cha mẹ mà không nhận thức được đi học là cơ hội
để thành công và hạnh phúc sau này. Kết quả là các em thiếu tự giác, thậm chí là thiếu
trách nhiệm với việc học tập và tu dưỡng.
- Một số em có niềm tin sai về giá trị của con người và cuộc sống.
- Bên cạnh những em thiếu tự giác còn có những em có niềm tin, quan niệm
chưa hợp lí về giá trị của con người và cuộc sống. Các em này không tin rằng việc

học sẽ đem lại cho con người giá trị và cuộc sống có chất lượng. Có em lại quan
niệm: Tiền bạc và quyền uy mới làm nên những giá trị của con người, cuộc sống mà
không tin rằng: Sự hiểu biết, tình người, danh dự của con người mới là giá trị và là
một thứ quyền lực vô hình của con người.
- Khi học sinh chuyển trường, hoặc chuyển lên bậc học cao hơn, thường là năm
học đầu tiên, các em đang tập thích nghi với môi trường mới, nếu mắc lỗi hoặc bị
phạt, học sinh sẽ dễ thu mình, cảm thấy không an toàn, có thể giảm hứng thú, động cơ
học tập, hoặc có thể không thích đi học. Ngoài ra phương pháp học tập không hiệu
quả cũng làm học sinh mất đi hứng thú học tập.
2.3. Giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
Ngày đầu tiên tôi nhận các lớp và sau một vài tuần đầu làm quen tôi nắm được
sĩ số trong lớp . Tôi đã bao quát lớp một lượt, gặp mặt học sinh, ban cán sự lớp, hỏi
qua tình hình lớp học, kết quả học lực môn Vật lí và hạnh kiểm năm trước đó ( đối
với học sinh 11-12) lớp 10 lấy điểm khảo sát đầu năm
Tôi mượn sổ điểm lớn nhà trường và thống kê theo dõi chất lượng học lực và
hạnh kiểm các lớp dạy năm nay mà năm trước tôi không dạy lớp đó. Với những lớp
tôi dạy cả 3 năm thì căn cứ vào điểm thi đầu vào lớp 10
5


Cụ thể: + Học lực: 10C3 Năm trước ( Tôi dạy từ lớp 11 và 12 )
Môn Vật lí Năm lớp 10 C3
Giỏi: 0% Khá: 6,67 %

TB: 68,8 %

Yếu: 24,53 %

Kém: 0 %


+ Học lực: 10A5 Lấy kết quả điểm thi vào 10 đầu năm 2,2 đ/ HS/ môn
Nhìn vào kết quả trên ta cũng thấy điểm và chất lượng là quá thấp không thể
đáp ứng được nhu cầu các kì thi.
Trước những khó khăn ấy tôi tự hứa với lòng mình cố gắng thực hiện thật tốt
“Nâng bậc chất lượng học sinh đại trà ”.
+ Kế hoạch thực hiện
Giáo viên bộ môn là người trực tiếp giảng dạy các em mỗi tiết dạy trong nhà
trương. Nếu không hiểu được đặc điểm, trình độ, diễn biến trong quá trình giáo dục,
tự rèn luyện của học sinh thì không thể giáo dục được các em,không thể có sự định
hướng kịp thời quá trình tự rèn luyện của học sinh. Vì lẽ đó, một trường học bao giờ
học sinh cũng được chia thành các khối nhỏ (lớp học) căn cứ vào trình độ, đặc điểm
nhận thức ở mỗi
- Thống kê học sinh các xã, số lượng đơn vị, nam/ nữ
STT

lớp

Tªn x·

Tæng
sè HS

Sè HS
nam

Sè HS


1


12C3

Xuân lộc, Thị trấn, lộc
tân, lộc sơn…

39

26

13

2

11A5

Hoà lộc, Thị trấn, lộc
tân, lộc sơn, phú lộc..

41

28

13

Thống kê chung: Tổng số học sinh 80: Nữ 26; Nam 54; Con thương binh ; con
BB : Hộ nghèo 7; cận nghèo 3; bãi ngang
- Kế hoạch cụ thể từng tháng

6



Tháng

Nội dung triển
khai

1

- Kiểm tra khảo sát
chất lượng đầu năm,
phân loại học sinh

2

- Cần nâng bậc học
sinh các lớp dạy: Từ
yếu, kém lên TB, từ
TB lên Khá

3

- Ra đề phân loại
đúng theo các mức:
nhận biết, thông hiểu
đê kiểm tra

Biện pháp thực
hiện

- Tìm biện pháp giảng

dạy mới phù hợp với
Hs

- Có dấu hiệu tiến bộ

- Lập danh sách HS
cần quan tâm

- Không chán nản với HS cố
tình, chậm tiến

- Chấm điểm góp ý,
sủa bài và nhận xét

- Có dấu hiệu tiến bộ

- Tuyên dương những
tiến bộ của HS

- Tuyên dương những tiến bộ
của HS

4

số

5

- Giới hạn kiến thức
cho HS ôn thi HK


điều chỉnh

- Phân loại cụ thể HS,
- Chất lượng chưa cao, HS
lập danh sách HS cần
chưa tiến bộ, cần tìm hiểu
kèm cặp, động viên HS thêm nguyên nhân

- Khi giảng bài liên tục
để mắt đến các em và
- Tiếp tục phân loại
nhắc nhở khi các e
đối tượng HS cụ thể
hơn, ra đề mức độ cao không chú ý
hơn: Thông hiểu, vận - Nêu những câu hỏi dể
dụng, vận dụng cao
cho HS vận dụng thay

- Hệ thống hoá kiến
thức trọng tâm

Đánh giá, kinh nghiệm

- Tăng cường kiểm tra
kiến thức tiết bài tập
- Photo bài tập TN về
nhà cho HS đủ các cấp
độ 1-4


- Cần tăng cường hơn

- Cần tăng cường hơn

- Có dấu hiệu tiến bộ
- Tiếp tục tăng cường hơn
- Tuyên dương những tiến bộ
của HS
- Kiên trì với HS chưa tiến bộ
- Chấm điểm bài tập về nhà
lấy điểm miệng
- Phân nhóm hoạt động các
dạng bài tập theo các mức:
Khá và TB
- Khen ngợi cố gắng của HS

+ Lập kế hoạch cụ thể cho từng học kì cho năm học của lớp tôi dạy để đảm bảo tính
hệ thống, phát triển giáo dục nhân cách học sinh. Kế hoạch cần thể hiện một số nội
dung sau:
7


Khái quát chung về đặc điểm học sinh từng lớp dạy.
- Lớp có nhiều HS ngoan, chịu khó, nhưng kiến thức vận dụng tự nhiên kém
( Lớp khối C ) như 12 C5 KHXH và Khoá học 2005 -2008 12 C1,C2 ( Học sinh
Khối C )
- Lớp có nhiều thành phần HS kiến thức kém, học lực không đồng đều ( Lớp khối
A ) Đại trà tốp cuối C3, A5 KHTN
Muốn giảng dạy tốt, không chỉ có tri thức, phương pháp mà phải truyền đạt bằng
cả nhiệt huyết của người giáo viên với khẩu hiệu “tất cả vì học sinh thân yêu”, “vì các

em hôm nay là vì tương lai của dân tộc, đất nước”.
+ Để làm tốt công tác của mình, giáo viên phải đặt kế hoạch tự hoàn thiện bản thân về
mọi mặt.
- Nâng cao không ngừng trình độ học vấn, văn hóa chung: Tự học,tự bồi dưỡng
thường xuyên, dự giờ đồng nghiệp
- Trình độ chuyên môn, phương pháp: Liên tục thay đổi phương pháp giảng dạy
phù hợp với từng đối tượng HS, từng lớp
- Rèn luyện đạo đức tác phong: Tác phong lên lớp phải trững trạc, gọn gàng, có sự
chuẩn bị đầy đủ, giáo án, hệ thống bài tập, thiết bị đồ dùng dạy học
- Trao đổi kinh nghiệm, lý luận sư phạm: Cần trao đổi với đồng nghiệp trong tổ với
những bài dạy khó, về phương pháp cho HS dễ hiểu
- Mẫu mực trong giao tiếp xã hội, đồng nghiệp, thầy trò: Luôn luôn mẫu mực trong
giao tiếp với đồng nghiệp cũng như với HS chuẩn mực và nghiêm túc
Xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh: Trong gia đình và ngoài xã hội cần xây
dựng mối quan hệ lành mạnh hạnh phúc và đoàn kết
Đứng trước một tình trạng tập thể lớp có số lượng học sinh học lực yếu nhiều, đạo
đức không tốt thì chúng ta sẽ làm gì, tôi suy nghĩ và đề ra một số biện pháp.
8


a. Chức năng
Giáo viên bộ môn, trước hết phải quản lý toàn diện lớp học, quản lý học sinh lớp
học và cần nắm nắm vững tình hình chất lượng từng học sinh, phân loại đối tượng
từng học sinh: Khá, TB, yếu, kém
+ Hoàn cảnh và những thay đổi, những tác động của gia đình đến học sinh. Nhiều
gia đình học sinh trường tôi bố mẹ làm ăn xa, đi biển nhiều ngày nên các em học sinh
bỏ nhà đi chơi, qua đêm với bạn, nên việc học bài cũ, làm bài tập về nhà là rất ít, thậm
chí không làm nên rất ảnh hưởng đến việc các em không biết vận dụng
+ Hiểu biết những đặc điểm của từng em học sinh (về sức khỏe, sinh lý, trình độ nhận
thức, năng lực hoạt động, năng khiếu, sở thích, nguyện vọng, quan hệ xã hội, bạn

bè….)
+ Quản lý toàn diện đặc điểm học sinh của lớp, nắm vững mục tiêu đào tạo,giáo dục
cả về mặt nhân cách và kết quả học tập của học sinh, đồng thời nắm vững hoàn cảnh
của từng em để kết hợp giáo dục
Ví dụ cụ thể:
+ Tôi cần chia làm 3 giai đoạn để nâng bậc HS : HK1, HK2 và cả năm
Mục tiêu cụ thể : Nâng bậc sau mỗi bài kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên
từ 2-4 HS
Có nhiều dư luận cho rằng việc nâng bậc là không khó vì thầy giáo dạy chỉ cần cho
các em điểm lần sau cao hơn lần trước hoặc đề dễ là điểm cao như ý muốn nhưng
kính thưa các đồng chí:
- Thứ nhất ở trường chúng tôi vấn đề này nhà trường: BGH, tổ trưởng làm việc kiểm
tra quản lí rất nghiêm túc như: Ra đề đúng ma trận, mỗi GV ra một đề bắt thăm, chấm
trả bài phải được tổ trưởng kiểm tra kí duyệt, mỗi lần kiểm tra khảo sát nhà trường
làm phách, GV dạy khối nào không chấm khối đó ……
9


- Thứ hai chất lượng thực trong đầu mỗi HS là rất cần thiết, các em có kiến thức thực
thụ trong đầu nên khi đi thi ( thực hiện không cặp sách ) nhưng các em đã làm bài rất
tốt
- Thứ ba các em thấy mình tiến bộ rõ rệt đúng bằng năng lực của bản thân mình phấn
đấu chứ không phải ai đó cho, tặng điểm
Tôi lập danh sách HS yếu kém cần quan tâm gồm:
Lớp C3: Thành Công, Minh Công, Đức, Thuỷ, Nam, Trọng Xuân, Cao
Lớp A5: Tiến Anh, Đức Anh , Hồng Anh , Thanh
Tôi lập danh sách HS khá cần quan tâm gồm:
Lớp C3: Linh Chi, Hiệp, Linh, Mão, Xuân, Uyên
Lớp A5: Vân, Nga, Hiệu, Ánh, Chiến
Tìm hiểu nguyên nhân: Em H. Anh không chú ý nghe giảng, có dấu hiệu quan hệ

Nam Nữ sớm
Em Hồng kiến thức cơ sở hổng nhiều, tiếp thu kiến thức chậm, vận dụng kém
Em Bắc, Đại, Hiệp, Thành thường xuyên vắng học, sáng, chiều, lên lớp hay ngủ
gật
Từ những phân tích những đối tượng HS cụ thể trên mà giáo viên có biện pháp cụ
thể: HS yếu kém gồm:
Em H. Anh không chú ý nghe giảng, khi dạy tôi luôn chú ý nhắc nhở em tập
trung một cách nhẹ nhàng khéo léo, có dấu hiệu quan hệ Nam – Nữ, tôi thường tách
em với 1 số bạn có liên quan, tôi đã nói chuyện với em tuổi các em còn nhỏ dại….,
kết hợp với GVCN, phụ huynh, giáo viên phụ trách dạy chuyên đề “ Sinh sản vị thành
niên vào dịp 8-3 hoặc 20-10 ”
Em Hồng, Trang kiến thức cấp 2 hổng nhiều, khi tôi dạy lí thuyêt yêu cầu em sau
mỗi bài học thuộc bài cũ 1- 2 công thức, khi kiểm tra bài cũ cho em cơ hội 2-3 lần để
10


em lấy điểm miệng, tiết bài tập tôi liên tục gần gũi giúp em thay số vào công thức đơn
giản, và hướng dẫn em dùng máy tính để làm các bài toán dể,
Em Bắc, Đại, Hiệp, Thành thường xuyên vắng học, tôi phối hợp với GVCN động
viên em, cùng GVCN liên tục theo dõi, liên hệ với phụ huynh những buổi em nghĩ
học vô lí do
HS TB - Khá cần quan tâm gồm:
Tìm hiểu nguyên nhân: Em Vân, Nga cần cù chịu khó, học lực ở mức độ TB
nhưng có thể đưa em lên học lực khá, em làm các bài tập của các bạn Hồng, Trang rất
nhanh vì mức độ thấp, vì vậy tôi cho nhóm này phải biến đổi công thức, chứ không
thay trực tiếp như nhóm trên, và các đại lượng phải đổi đơn vị đưa về chuẩn với công
thức
Em Hải, Thu có khả năng tiếp thu kiến thức, chăm chú nghe giảng, tuy chữ viết
hơi xấu, không rỏ ràng
Em Chiến, Hiệu có phần thông minh, yêu thích môn vật lí , tôi thường cho em giải

thích các hiện tượng tự nhiên: Khi phanh xe gấp, người ngã về phía trước, tại sao khi
đi xe các đoạn vòng cua không nên đi quá nhanh, và phải hướng người như thế
nào…..
Em Thu C3 có khả năng tiếp thu kiến thức, chăm chú nghe giảng, tuy chữ viết hơi
xấu, không rỏ ràng, vấn đề này tôi yêu cầu em viết lại công thức hoặc khi làm bài tập
tôi yêu cầu em viết lại 1-2 lần như nhắc nhở em phải cẩn thận khi trình bày
Các em HS này tôi phô tô thêm bài tập về nhà cho các em làm và tuần sau tôi
chấm bài, sửa bài, nhận xét và cho điểm rút kinh nghiệm trong nhận xét, phê bài
- Khi kiểm tra bài cũ cẩn phân biệt từng đối tượng HS để hỏi cụ thể để không quá
dễ hoặc không có khó
- Khi ra đề cần ra đúng ma trận các cấp độ 1,2,3,4 phù hợp với các em và từ 4-6
mã đề
11


- Khi chấm bài phải phê duyệt, nhận xét, sửa lỗi cho từng HS trong bài
b. Nhiệm vụ
- Nhiệm vụ chủ yếu của người giáo viên bao gồm:
+ Người giáo viên , trước hết phải thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy cô
giáo, nói chung đó là mẫu mực về đạo đức, gương mẫu trong việc chấp hành luật
pháp và những qui định của nhà nước, nắm vững đường lối, quan điểm, lý luận giáo
dục, biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn giáo dục

thế hệ trẻ, làm tốt công tác

giáo dục, vũ trang tri thức khoa học, phát triển trí tuệ của học sinh
+ Giáo viên còn có trách nhiệm nắm vững tình hình học tập, chất lượng học sinh của
lớp , báo cáo cho hiệu trưởng và lãnh đạo nhà trường biết theo định kỳ hoặc đột xuất
nếu có vấn đề cần giải quyết
+ Thường xuyên liên hệ với gia đình, với GVCN khi cần thiết, cần sự giúp đở , cộng

đồng các tổ chức trong và ngoài nhà trường để cùng phối hợp giáo dục, động viên
giúp đỡ từng học sinh nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phát triển trí tuệ, năng
lực.
+ Giáo viên cần quan tâm, hỗ trợ các em vượt qua khó khăn.
Để làm được điều này, giáo viên cần lưu ý những vấn đề sau đây:
- Để Hs cảm thấy được an toàn
- Để Hs thấy được yêu thương
- Để Hs thấy được hiểu, được thông cảm
- Để Hs thấy được tôn trọng
- Để Hs thấy có giá trị
Ví dụ: Em Uyên C3, Hà A5 rất thích lên bảng làm bài tập mặc dù đôi lúc còn làm
sai nhưng các bạn hay nói Uyên béo hoặc Hà lùn nên em lại ngại không tự tin, vậy khi
đó GV phải làm gì để em cảm thấy được an toàn, yêu thương và được tôn trọng
12


+ Động viên, khích lệ, tạo động lực cho Hs cá biệt, tạo động lực học tập và hoàn thiện
nhân cách cho Hs.
- Người giáo viên phải chăm lo, giáo dục động cơ học tập, giá trị hành vi tích cực,
lành mạnh về mọi mặt cho Hs.
- Bằng nhiều biện pháp khác nhau và phối hợp với nhiều giáo viên bộ môn, giáo
viên cần tạo ra trạng thái cảm nhận được sự cần thiết của tri thức và các giá trị khác
biệt của việc học đối với sự phát triển của bản thân. Muốn vậy trong từng giờ học
người giáo viên cần phải chú ý khai thác những trải nghiệm của Hs trong quá trình tạo
tri thức mới, tạo nên sự hấp dẫn của nội dung tri thức, quan tâm truyền cảm hứng sự
đam mê qua đó kích thích hứng thú học, hành của Hs.
Ví dụ: Trong một tiết dạy tôi đã phải vận dụng nhiều phương pháp dạy học tích
cực như: Khăn phủ bàn, phân nhóm – hoạt động nhóm. Phải sử dụng các thí nghiệm
thực kết hợp với TN ảo cho bài học sinh động, dễ hiểu. Cho các tổ làm thí nghiệm vì
môn Vật lí có nhiều thí nghiệm rất lí thú và bổ ích nên các e rất hứng thú

- Ngoài ra giáo viên cần làm cho Hs hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình
trước gia đình và xã hội để tự giác học tập. Đặc biệt giáo viên cần có những dẫn
chứng các tấm gương vượt khó học tập để Hs noi gương, hoặc những em Hs có hoàn
cảnh khó khăn không được đi học, phải làm việc mưu sinh để các em thấy hạnh phúc
của việc được đi học và được tạo điều kiện học tập.
- Đối với những Hs chán nản, chậm tiến thường dễ mặc cảm nên thường ngại
tham gia vào các công việc chung của tập thể. Do đó giáo viên cần tiếp cận để hiểu và
tác động được vào sở thích của các em, qua đó giúp các em trải nghiệm những niềm
vui trong hoạt động …từ đó dần làm nảy sinh trong Hs nhu cầu muốn chiếm lĩnh tri
thức, muốn là người có giá trị, được mọi người tôn trọng quý mến.
Đồng thời giáo viên cần tôn trọng các em làm cho các em thấy rằng mình có nhiều
điểm mạnh, giá trị, cần phải nỗ lực, khai thác và phát huy, đồng thời khắc phục những
13


điểm yếu và thói quen chưa tốt để rồi chính tự các em nhận thấy mình cần phải thay
đổi.
- Xây dựng môi trường, lớp học thân thiện nhằm đáp ứng các nhu cầu được yêu
thương, được tôn trọng và có giá trị của từng thành viên trong tập thể lớp, đặc biệt là
đối với những Hs chán nản chậm tiến để Hs thấy được mình có giá trị, có khả năng,
được mọi người tôn trọng, qua đó giúp các em gạt bỏ được nhứng mặc cảm để từ đó
gần gũi hòa đồng hơn với tập thể.
Ví dụ: Tôi luôn thân thiện, gần gủi động viên hay khích lệ các em một cách kịp
thời khi em hơi tiến bộ, sau khi các em học thuộc bài cũ, hay giải được bài tập đơn
giản, sau những bài kiểm tra…
- Ngoài ra giáo viên còn phải biết sử dụng tối đa sự khích lệ và sử dụng biện pháp
củng cố tích cực, khích lệ, giúp nâng cao lòng tự trọng và động cơ cho Hs.Việc khen
ngợi khích lệ phải nhằm vào một việc làm cụ thể, Hs sẽ nhớ và cố gắng thực hiện tốt
hơn những hành vi được giáo viên tuyên dương, từ đó các em sẽ có thêm động lực để
phấn đấu, lí tưởng để tỏ rõ giá trị của bản thân.

Để khích lệ, động viên các em tôi thường thể hiện kĩ năng cụ thể như:
“Em đã chịu khó học, nhưng điểm rất thấp trong kì thi vừa qua” Hoặc “Thầy biết
là em đã rất cố gắng, thầy tin lần sau em sẽ vượt qua” “Thầy vui vì em đã cố gắng,
thầy tin là em sẽ làm được”…
Để khích lệ được Hs, giáo viên không nên so sánh Hs với các bạn trong và ngoài
lớp, bởi như vậy sẽ làm giảm tự tin của Hs, đồng thời cũng là đánh giá thấp những nỗ
lực, cố gắng của các em. Học sinh cần được khích lệ để cảm thấy mình có giá trị,
mình có khả năng, có thể đáp ứng được các yêu cầu mà nhà trường đề ra, cũng như có
thể vượt qua khó khăn thách thức, áp lực với bạn bè cùng trang lứa và có trách nhiệm
với bản thân.
+ Tránh sử dụng củng cố tiêu cực
14


Một số Hs có những biểu hiện chán nản, dần chống đối việc học tập. Hs có thể
cảm thấy bất lực và buồn bã, một số khác cảm thấy tổn thương và sợ hãi, phẫn nộ, và
đôi khi có hành động bạo lực. Gv cũng cảm thấy căng thẳng và bất lực khi có những
học sinh hư và gây rối trong lớp. Nếu người lớn trừng phạt Hs thì không những không
mang lại hiệu quả mà còn gây hại cho Hs, làm cho Hs có những biểu hiện tiêu cực
hơn. Vì vậy muốn thay đổi hành vi của Hs một cách tích cực thì cần có sự hợp tác của
Hs, Hs cần cảm thấy được khích lệ để có tự tin và động cơ hoạt động.
c. Phương pháp tác động cá biệt và giáo dục tập thể
- Người giáo viên cần nắm vững vận dụng mọi phương pháp giáo dục

cá biệt,

phương pháp giáo dục tập thể và biết kết hợp chúng trong hoàn cảnh cụ thể. Phương
pháp giáo dục cá biệt ở đây không nên hiểu là giáo dục học sinh đặc biệt (hư, ngoan)
như quan niệm thường thấy ở một số người.- Cần hiểu phương pháp giáo dục cá biệt
là sự tác động tới từng cá nhân một cách chuyên biệt để đảm bảo tính phù hợp với đối

tượng. Ví dụ: cùng một biểu hiện hư như nhau, nhưng có em phải phê bình nghiêm
khắc, có em thì nhắc nhẹ, có khi chỉ nhắc chung hoặc có khi phải trực tiếp, có khi
thông qua bạn bè, gia đình tập thể…- Bằng uy tín và vị thế của giáo viên bộ môn,
phương pháp tác động trực tiếp đem lại hiệu quả giáo dục tức thời, ví dụ: học sinh nói
chuyện trong giờ học, không làm bài đầy đủ hoặc có nhiều biểu hiện hành vi tốt như
làm bài hay, sáng tạo thì giáo viên có thể nhắc nhở, tuyên dương, động viên, khen
thưởng bằng lời, cho điểm tốt…
- Nếu giáo viên không đo được mức độ của hành vi, sử dụng không tương ứng,
dẫn tới phản tác dụng giáo dục, không đáng khen mà khen quá lời cũng không tốt, chỉ
đáng nhắc nhở mà vì lẽ gì đó giáo viên cảnh cáo phê bình sẽ dễ làm cho học sinh hậm
hực, mất lòng tin, bi quan.
- Muốn phát huy hiệu qủa của phương pháp giáo dục trong tập thể, giáo viên trước
hết phải là người có uy tín, có trách nhiệm, nắm vững đối tượng, xây dựng được tập
thể học sinh thành một tập thể vững mạnh:
15


+ Đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ chung của từng thành viên của lớp.
+ Tổ chức những hoạt động chung để thực hiện mục tiêu.
+ Có kỉ luật chặt chẽ, có quy định, nội quy phải rõ ràng, được mọi người tôn trọng
và tự giác chấp hành.
+ Có dư luận tập thể lành mạnh, dư luận của tập thể là phản ánh sức mạnh,là bản
lĩnh của mỗi thành viên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
- Nề nếp lớp học tiến bộ vì các em đã hiểu bài nên các em chăm chú học bài
không làm việc riêng, nói chuyện riêng
- Chất lượng học sinh khá, giỏi tăng lên, HS trung bình, yếu Giảm
- Đáp ứng được yêu cầu của gia đình, nhà trường, xã hội giao cho tôi
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHI

3.1. Kết quả
- Khoá học 2004 -2007 Tôi vừa là GV bộ môn vừa là GVCN dạy 10 -11-12 A3 ( 3
năm ) năm đó các em đậu tốt nghiệp cao nhất toàn trường và những học sinh trên đều
đậu tốt nghiệp,
- Khoá học 2005 -2008 Tôi là GV bộ môn dạy 12 C1,C2 ( Học sinh Khối C ) năm
đó các em đậu tốt nghiệp Môn Vật lí khá cao đứng thứ 3 sau môn Địa, Văn
Nhiều học sinh đạt 8,5 – 9 như em L. Huyền, Thu, Phương Lan….
- Năm học 2006 -2007 Chất lượng chuyên môn và các công tác giảng dạy, công tác
chủ nhiệm đạt kết quả cao được Sở GD tặng giấy khen hoàn thành suất xắc nhiệm vụ
- Khoá học 2007 -2009 Tôi vừa là GV bộ môn vừa là GVCN dạy 11-12 A3
(2 năm ) khoá học đó tôi lại thành công lớp đậu tốt nghiệp 12 cao nhất toàn trường

16


( Những năm học đó trường tôi là bán công nên việc đậu tốt nghiệp là niềm vui
của nhà trường và các thầy cô dạy)
- Năm học 2009 -2010 Chất lượng chuyên môn và các công tác giảng dạy, công tác
chủ nhiệm đạt kết quả cao được Sở GD tặng giấy khen hoàn thành suất xắc nhiệm vụ
Tôi vẫn tiếp tục áp dụng đúng các biện pháp mà mình đề ra thì kết quả của năm học
2014-2015 học lực các lớp có sự tiến bộ rất rõ, cụ thể học lực và hạnh kiểm đạt được
như sau: ( Kết quả này do BGH và tổ trưởng theo dõi, đánh giá )
Học kì 1
TT



Lớp

1

2
3
4

Giỏi

số

12 A3
12A4
12A6
10C5

SL

Khá

TL

SL

TL

17
5
5
2

42,5%
11,36%

11,63%

0
0
0
37

TB

0

SL

Yếu
TL

21
31
26
16

SL

52,5%
70,45%
60,47%

Kém
TL


2
0
12
12

SL

5%

TL

0
0
0

27,91%

0.00%

7

Học kì 2
TT



Lớp

1
2

3
4

Giỏi

số

12 A3
12A4
12A6
10C5

SL

40

Khá

TL

Yếu

SL

TL

SL

TL


37
5
34
11

42,5%
%
%

3
31
9
17

52,5%
%
%

0
0
0

34

TB

1

SL
0

0

Kém
TL

SL
0
0
0

0%

5

TL

0.00%

0

b. Chất lượng giảng dạy của từng GV
* Môn Vật lý
TT
1
2

Giáo viên


số


Giỏi
SL

Mai Văn Hoá
Nguyễn Thế
Phương

Khá

TL

SL

TB

TL

SL

Yếu
TL

SL

TL

SL

0.00

165

Nơi nhận:

0

%

So với đăng

Kém
TL

ký đầu năm
Đạt K.đạt

0.00
79

47.88%

73

44.24%

9

5.45%

0


Hậu Lộc, ngày 17 tháng 05 năm 2015
TỔ TRƯỞNG

- Ban giám hiệu (đế b/c)
- Lưu hồ sơ tổ CM.

Đã ký
17

%

Đạt


Mai Văn Hóa
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT ĐINH CHƯƠNG DƯƠNG

BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ THI
KHẢO SÁT HỌC THÊM LẦN 1, 2 VÀ 3 NĂM HỌC 2016-2017
Lần 1
STT
1
2
Lần 2

Lớp
A5
C3


Vật lí
5,41
4,11

TB Môn Lí
5,86
4,14

STT
1
2
Lần 3

Lớp
A5
C3

Vật lí
5,44
4,77

TB Môn
6,16
4,83

STT
1
2


Lớp
A5
C3

Vật lí
6,6
7,13

TB Môn
6,6
6,64

Cụ thể:
Môn Vật lí Năm lớp 11 C3 Năm học 2015- 2016 tôi dạy
Giỏi: 0 % Khá: 46 %

TB: 51 %

Yếu: 3 %

Kém: 0 %

Môn Vật lí Năm lớp 12 C3 Năm học 2016 - 2017 tôi tiếp tục dạy
Giỏi: 10,53%

Khá: 55,26 %

TB: 34,21 %

Yếu: 0 %


Kém: 0 %

Môn Vật lí Năm lớp 10 A5 tôi vào dạy
Giỏi: 0 % Khá: 37,5 %

TB: 52,5 %

Yếu: 10 %

Kém: 0 %

Môn Vật lí Năm lớp 11 A5 tôi tiếp tục dạy
Giỏi: 2,44 %

Khá: 56,1 %

TB: 39,02 %

Yếu: 2,44 %

Kém: 0 %

3.2 Kết luận
Trên đây là những kinh nghiệm của riêng tôi và những thành tích tôi đã đạt được
với chất lượng giảng dạy nhiều năm của tôi, Nếu các thầy cô vận dụng tốt sáng kiến
này tôi tin sẽ hiệu quả, mang đến một chất lượng cho Hs đại trà có nhiều Hs có học
18



lực yếu sẽ tiến bộ trong các lần thi. Tuy vậy chắc còn nhiều hạn chế mà tôi chưa
nghiệm ra, tôi rất mong hội đồng, các đồng chí có nhiều kinh nghiệm hơn. Có tấm
lòng cao cả, yêu thương học sinh hơn và đạt kết quả cao hơn góp ý để mỗi ngày tôi
một hoàn thiện hơn. Và nhà trường cũng quan tâm đến đề xuất chưa tế nhị của riêng
tôi .
Qua đây, tôi cũng mong rằng tất cả những thầy cô giáo bộ môn cũng phát huy hết
chức năng, nhiệm vụ của mình cùng nhau đưa tập thể lớp mình quản lý ngày càng
vững mạnh
3.3 Kiến nghị:
Qua những năm công tác giảng dạy nhiều lớp tôi xin có một vài kiến nghị đề xuất
thiết thực:
Thứ nhất là nhà trường cần cân nhắc kỹ công việc, điều kiện công tác để phân
công, công tác giảng dạy theo các em cả 3 năm học là tốt nhất để giáo viên tiện theo
dõi tình hình nắm bắt uốn nắn học sinh, không nên thay đổi nhiều người trong 1 khoá
Thứ hai là cần cho giáo viên có quyền cao hơn trong việc đánh giá xếp loại học
sinh của lớp mình dạy, thông cảm với cách sử lí của GV với một số HS nhất là những
HS chậm tiến, cá biệt
Thứ ba là một vấn đề nổi cộm của cả nước về tình hình giải quyết vấn đề công việc
khi ra trường, HS luôn đặt câu hỏi cho GV cấp 3: Học trường nào ? Để làm gi ?
Ra trường không xin được việc làm em lại ra làm công ty à thầy….. Vậy tôi kính
mong các cấp các nghành cần nghiên cứu tìm hướng giải quyết cụ thể cho tình hình
dư thừa nhân lực hiện nay như thế nào ? Để học sinh chọn trường, chọn nghành cho
phù hợp
Cuối cùng tôi xin hứa đây là SKKN do tôi trăn trở qua nhiều năm giảng dạy ở
trường tôi tự viết và đánh máy không sao chép, copy của ai. Nếu sai tôi xin chịu trách
nhiệm trước nhà trường, trước Sở Giáo Dục
19


Tôi xin cảm ơn!


Xác nhận của BGH

Hậu lộc: Tháng 5/2017
Người viết SKKN

Nguyễn Thế Phương

20



×