Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Sử dụng sơ đồ trong giảng dạy các bài học lịch sử ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.77 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỤC LỤC..........................................................3
I.
III- Mục đích nghiên cứu:
7
II.

IV - Đối tượng nghiên cứu:

8

III.

+ Đề tài xoay quanh nghiên cứu 2 quá trình :

IV.

- Quá trình chuẩn bị và giảng dạy các bài học lịch sử của giáo viên................8

V.

- Quá trình học tâp lịch sử của học sinh. Chủ yếu là học sinh các lớp 12........8

VI.

III - Phương pháp, tác dụng khi sử dụng sơ đồ vào bài học lịch sử:..............10

VII.


IV- Kết quả khi sử dụng sơ đo vào các bài giảng lịch sử:..............................16

8

Phần ba : KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................................... 20

VIII. I. NHỮNG KINH NHIỆM KHI SỬ DỤNG SƠ ĐỒ LỊCH SỬ.....................20

Phần một : MỘT SỐ VẨN ĐỀ LÝ LUẬN
I- Lý do chọn để tài:
Trong các môn học ở trường phổ thông, môn lịch sử có vai trò rất quan trọng
trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức, nhân sinh quan, thế giới quan cho học sinh.
Học lịch sử, thế' hệ trẻ hiểu được cuội nguồn dân tộc, biết được quá khứ của tổ tiên.
Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với
thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định được nhiệm vụ trong hiện tại
và có thái độ, hành động đúng đắn để hướng tới tương lai. Nhân biết được tẩm quan
trọng của lịch sử, ngay từ năm 1942, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm "Lịch sử
nước ta", một bài diễn ca gồm 104 câu thơ lục bát nhằm khơi dây lòng yêu nước, tinh
thẩn đoàn kết, niềm tự hào dân tộc cho quẩn chúng nhân dân. Qua đó khích lệ quẩn

3


chúng nhân dân đứng lên theo Đảng làm cách mạng. Mở đẩu bài diễn ca, Người đã
răn dạy các thế hệ con cháu nước nhà :
"Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"
Môn Lịch sử được đưa vào chương trình giáo dục nói chung, bên cạnh việc
giáo dục cho học sinh đạo lí "Uống nước nhớ nguồn", giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối
sống cho thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước, nó còn đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển trí tuệ, giúp học sinh hiểu biết phong phú về văn hoá,

khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,...của không chỉ đất nước Việt Nam mà còn của
cả thế giới. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang trong quá trình đổi
mới, giao lưu, hội nhâp với thế giới thì việc giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, lí
tưởng cách mạng, giáo dục ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn, giữ vững bản sắc
dân tộc lại càng trở lên quan trọng hơn bao giờ hết.
Môn lịch sử đóng một vai trò và vị trí quan trọng như vây, tuy nhiên một thực
tế đáng buồn là trong những năm gẩn đây, do nhân thức và quan niệm sai lệch về vị
trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hôi, trong giáo dục đã làm cho kết
quả học tập và giảng dạy của bô môn bị giảm sút nghiêm trọng. Tình trạng học sinh
không biết những sự kiên lịch sử phổ thông, không nhớ nổi những kiến thức lịch sử cơ
bản, nhớ sai hoặc nhẩm lẫn kiến thức lịch sử đã trở lên phổ biến. Minh chứng rõ ràng
nhất cho điều này là qua các kì thi, nhất là kì thi Đại học - Cao đẳng chất lượng môn
sử rất thấp. Thấp đến lỗi nhiều người coi đó là môt "thảm hoạ", bởi có qúa nhiều thí
sinh sau 12 năm học hành khi đi thi chỉ nhận được điểm 0, điểm 1, điểm 2...của môn
lịch sử.
Do có kết quả thấp đến mức đáng báo động như vậy nên cứ sau mỗi kì thi, các
nhà nghiên cứu, các chuyên gia giáo dục, các giáo viên ở các cấp học khác nhau lại
đi tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới "thảm hoạ" trên của môn Lịch sử. Theo ý kiến của

4


cá nhân tôi, nguyên nhân dẫn tới thực trạng đáng buồn đó của môn Lịch sử là do :
Thứ nhất, tâm lí của học sinh và phụ huynh trong nhiều năm trở lại đây đang
coi môn lịch sử là "mônphụ", cho nên đã xem nhẹ việc học sử.
Thứ hai là, chương trình lịch sử hiện nay còn quá nặng, vốn kiến thức quá
nhiều trong khi thời lượng giảng dạy lại ít. Chương trình sách giao khoa theo ý kiến
đánh giá của các chuyên gia thì còn chưa hấp dẫn, chưa hay nên chưa kích thích được
hứng thú của người học.
Thứ ba là, không ít những người làm công tác quản lí, lãnh đạo của các nhà

trường cũng chưa có quan điểm thật đúng đắn về vị trí, chức năng của môn Lịch sử.
Có cái nhìn chưa thật khách quan, công bằng với môn Lịch sử nói riêng và các môn
xã hội nói chung, nên chưa quan tâm đúng mức tới môn Lịch sử và các môn học xã
hội khác. Trong hệ thống các nhà trường phổ thông hiện nay hẩu như chỉ ưu tiên cho
các môn Toán, Lý, Hoá và phẩn nào là Văn, Anh. Môn Lịch sử chỉ được coi là "môn
phụ". Điều này đã gây tâm lí không tốt, gây trở ngại cho các giáo viên làm công tác
giảng dạy lịch sử.
Thứ tư là, hiện nay có một bô phận không nhỏ giáo viên giảng dạy lịch sử chưa
ý thức hết về vai trò, vị trí và tẩm quan trọng của môn học mà mình đang giảng dạy.
Họ chưa tâm huyết với bộ môn, soạn bài còn chưa chu đáo, phương pháp dạy
học và khả năng truyền thụ kiến thức còn chưa sâu sắc, dẫn tới tình trạng giờ học khô
khan, cứng nhắc. Bài học chỉ nặng về việc cung cấp các sự kiên, các số liêu đã có sẵn
trong sách giáo khoa. Phương pháp dạy học phổ biến mà nhiều giáo viên sử dụng vẫn
là phương pháp "truyền thống" : Thầy đọc - Trò chép. Kiến thức lịch sử trong sách
giao khoa thì rất nhiều, phong phú, đa dạng nhưng giáo viên vẫn truyền đạt một
chiều, nhồi nhét kiến thức, sa đà vào những chi tiết vụn vặt khiến cho học sinh cảm

5


thấy nhàm chán trong lĩnh hội kiến thức. Hẩu hết học sinh khi học môn lịch sử đều
cố gắng học thuộc lòng và nhớ từng sự kiện mà không có khả năng khái quát hoá cả
tiến trình lịch sử, cả một giai đoạn lịch sử. Chính điều nay đã gây nên tâm lí chán học
lịch sử, sợ học lịch sử ở các em.
Qua những năm tháng trực tiếp giảng dạy môn lịch sử, tôi nhân thấy lịch sử là
môn học tương đối khô khan, kiến thức nhiều, sách giáo khoa viết dài, nội dung
chương trình có quá nhiều sự kiện, quá nhiều khái niệm nên học sinh rất khó nhớ, rất
khó có thể khái quát để từ đó đánh giá, nhân xét, phân tích bản chất của các sự kiện,
các quá trình lịch sử.
Làm thế nào để giúp học sinh tiếp thu kiến thức lịch sử một cách khoa học?

Làm thế nào để giúp các em ghi nhớ chính xác các sự kiện lịch sử một cách có hệ
thống, lôgic, từ đó các em suy nghĩ và hiểu sự kiện, hiểu một quá trình lịch sử một
cách sâu sắc? Đó thực sự là những trăn trở của tôi và của các đồng nghiệp trong nhà
trường THPT Nông Cống I. Với mong muốn tìm ra một phương pháp giảng dạy có
hiệu quả, giúp học sinh nhân thức kiến thức lịch sử nhanh, nắm chắc, nhớ lâu sự kiện
lịch sử, hệ thống hoá được các mốc thời gian, các giai đoạn lịch sử một cách tường
tân, tôi đã tìm hiểu, học tâp và áp dụng phương pháp sử dụng các dạng sơ đồ trong quá
trình giảng dạy. Qua một số năm áp dụng phương pháp này vào giảng dạy, nhất là giảng
dạy ở các lớp có học sinh học Ban Khoa học xã hội (học chương trình Nâng cao), tôi
nhân thấy phương pháp này có nhiều ưu điểm trong việc giúp học sinh tiếp thu các kiến
thức, các sự kiện, các giai đoạn lịch sử một cách lôgic, chính xác, khoa học. Vì vây, tôi
xin được trình bày rõ hơn kinh nghiệm đó của mình qua một đề tài sáng kiến kinh
nghiệm mang tên ”Sử dụng sơ đồ trong giảng dạy các bài học lịch sử”.
II- Lịch sử vấn đề
- Trong quá trình nghiên cứu và dạy học lịch sử ở các cấp học, cũng đã có một

6


số đổng nghiệp ở trong và ngoài tỉnh Hưng Yên đề câp tới vấn đề sử dụng các loại sơ
đổ, bảng biểu vào giảng dạy các bài học lịch sử. Các đổng nghiệp đó đã cụ thể hoá
vấn đề này bằng các bài viết, các bài nghiên cứu, các sáng kiến kinh nghiêm,
như :"Hệ thống hoá kiến thức lịch sử trong chương trình lịch sử lớp 10 -11 -12 bằng
sơ đồ" của cô Nguyễn Thị Thìn (Trường THPT Cửa Lò - Nghệ An).
Tuy nhiêu, theo ý kiến của cá nhân tôi, các bài viết, các công trình nghiên cứu
đó còn tương đối sơ lược, chưa có những dẫn chứng sát thực, chưa đề câp đến việc áp
dụng vào thực tế giảng dạy và chưa đề câp tới những vấn đề mà tôi đang quan tâm,
nghiên cứu và đã áp dụng. Bởi vây, tôi trình bày sáng kiến kinh nghiệm này với
mong muốn trao đổi thêm với các đồng nghiệp ở trong và ngoài tỉnh về phương pháp
giảng dạy này với mong muốn khi cùng áp dụng vào giảng dạy sẽ đạt được kết quả,

hiệu quả cao nhất.
III- Mục đích nghiên cứu:
Sáng kiến kinh nghiệm "Sử dụng sơ đồ trong giảng dạy các bài học lịch sử"
nhằm mục đích :
+ Giúp giáo viên THPT :

- Có thêm phương pháp, phương tiện truyền thụ kiến thức đa dạng, sinh động,
gây hứng thú cho học sinh.
-Nâng cao khả năng xây dựng và sử dụng các loại sơ đồ lịch sử nói riêng, các
loại đồ dùng trực quan nói chung.
+ Giúp học sinh :

- Tiếp thu kiến thức một cách toàn diện, ghi nhớ kiến thức lịch sử có hệ thống,
từ đó hoàn thiện, khắc sâu những kiến thức đã học.

7


- Rèn luyện và nâng cao kĩ năng vẽ các loại sơ đồ lịch sử; kĩ năng tự nghiên
cứu, tự học hỏi trong quá trình học lịch sử.
IV - Đối tượng nghiên cứu:
+ Đề tài xoay quanh nghiên cứu 2 quá trình :
- Quá trình chuẩn bị và giảng dạy các bài học lịch sử của giáo viên.
- Quá trình học tâp lịch sử của học sinh. Chủ yếu là học sinh các lớp 12
V- Phạm vi để tài:
Trong chương trình Lịch sử cấp Trung học phổ thông, có rất nhiều bài học
thuộc cả 3 khối lớp 10, 11 và 12 có thể sử dụng sơ đồ vào bài giảng. Song do điều
kiện về thời gian, kinh nghiệm và khả năng, tôi chỉ giới hạn trình bày việc áp dụng đề
tài này trong chương trình Lịch sử Lớp 12 - Phẩn Lịch sử Việt Nam.
Phần hai : NỘI DUNG ĐỀ TÀI:

I- Nhận thức chung về sơ đồ lịch sử:
Sơ đồ lịch sử là một loại dụng cụ trực quan, một phương tiện quan trọng trong
dạy học lịch sử trong các trường phổ thông. Đây là một công cụ đơn giản, một
phương tiện ghi chép kiến thức lịch sử cô đọng, súc tích, đẩy sáng tạo và hiệu quả. Là
một phương tiện để cụ thể hoá các sự kiện, các nhân vật, các giai đoạn lịch sử để trên
cơ sở đó hình thành nên khái niệm lịch sử cho học sinh.
Cùng với các loại dụng cụ trực quan khác, sơ đồ là phương tiện dạy học quan
trọng vừa để giáo viên tổ chức nhân thức cho học sinh, vừa là cơ sở để học sinh tích
cực, chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội và ghi nhớ kiến thức lịch sử.
Sơ đồ lịch sử là một công cụ dạy học đơn giản, dễ làm nhưng khi được chuẩn
bị chu đáo, được sử dụng một cách hợp lí trong những bài giảng sẽ làm cho tiết học
thêm sinh động, hấp dẫn hơn qua đó giúp học sinh :
- Sáng tạo hơn trong học tập

8


- Ghi nhớ kiến thức lịch sử tốt hơn
- Tiết kiệm thời gian
- Nhìn thấy bức tranh tổng thể về lịch sử
- Phát triển nhận thức, tư duy cho học sinh.
II- Các dạng sơ đồ được sử dụng trong bài học lịch sử:
Trong giảng dạy các bài học lịch sử, người giáo viên có thể sử dụng nhiều
dạng sơ đổ khác nhau, cá nhân tôi thường sử dụng một số dạng sơ đổ sau :
1. Sơ đổ dạng cấu trúc :
Đây là loại sơ đổ thể hiện các sự kiện, các thành phẩn, các yếu tố trong một
chỉnh thể thống nhất và mối quan hê giữa chúng.
Ví dụ : Hình 1. Sơ đồ thể hiện quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
(Phần phụ lục)
2. Sơ đồ thể hiện một giai đoạn, một quá trình lịch sử.

Đây là loại sơ đổ thể hiên các mốc thời gian, các sự kiên, các giai đoạn, các
chặng đường lịch sử trong một quá trình vân động và phát triển chung.
Ví dụ : Hình 2. Sơ đồ quá trình vận động cách mạng hướng tới Cách mạng thánh
Tám năm 1945. (Phần phụ lục)
3. Sơ đổ dạng đổ thị, biểu thị sự phát triển một sự kiên, hiên tượng lịch sử.
Dạng sơ đồ này thể hiện quá trình vận động, phát triển, mối liên hệ giữa các
giai đoạn, các sự kiện lịch sử.
Ví dụ : Hình 3. Sơ đồ các bước, các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp.(Phần phụ lục)

9


III - Phương pháp, tác dụng khi sử dụng sơ đồ vào bài học lịch sử:
Sơ đồ lịch sử có rất nhiều dạng khác nhau, căn cứ vào nội dung cụ thể của từng
chương, từng bài, từng sự kiện lịch sử cụ thể mà người giáo viên có thể sử dụng các
loại sơ đồ khác nhau. Mỗi loại, mỗi dạng sơ đồ lịch sử có những công dụng khác
nhau, do đó căn cứ vào mục đích, yêu cẩu của bài học lịch sử mà mỗi giáo viên có
thể sử dụng các loại sơ đồ khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, với những
mục tiêu khác nhau. Cá nhân tôi thường sử dụng sơ đồ lịch sử phục vụ cho những
mục đích sau:
1. Sử dụng sơ đổ lịch sử để giảng dạy bài mới
Phẩn hai : Lịch sử Việt Nam 1919 - 2000, yêu cẩu của các bài học là đòi hỏi
học sinh phải nắm được rất nhiều các sự kiện, các nội dung, các nhân vât lịch sử,
không gian, thời gian...Nếu người giáo viên cứ giảng dạy một mạch theo nếp cũ thì
chưa chắc học sinh đã nắm được bài, ghi nhớ được những kiến thức đã và đang học.
Vì vây, nếu trước, trong hoặc sau khi giảng bài, giáo viên nghiên cứu, sưu tẩm và sử
dụng hợp lí các sơ đồ lịch sử thì giờ học sẽ không còn gò bó, nhàm chán, học sinh
tiếp thu bài nhanh hơn.
Ví dụ, Khi dạy Bài 12 mục I.3 : Những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp

xã hội ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
Nội dung cơ bản mà học sinh phải nắm được khi kết thúc bài học là :
- Nội dung chính sách khai thác thuộc địa lẩn thứ hai của thực dân Pháp.
- Những chuyển biến mới về kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam dưới tác
động của cuộc khai thác thuộc địa lẩn thứ hai.
- Những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam.
- Nếu giáo viên chỉ sử dụng kênh chữ và một vài kênh hình trong sách giáo

10


khoa thì hiệu quả bài học chưa chắc đã cao. Thay vào đó, giáo viên có thể sử dụng 2
sơ đồ sau vào bài giảng (Hình 4,5 Phần phụ lục).
Một bài học, giáo viên chỉ sử dụng 2 sơ đồ (như Hình 4và Hình 5) rất đơn giản,
ngắn gọn nhưng sẽ làm cho bài học trở lên ngắn gọn, cô đọng, súc tích, qua đó giúp
học sinh :
- Nắm được khung, dàn ý của bài học một cách khoa học ngay ở trên lớp.
- Nắm được những nội dung chính của bài học theo như mục tiêu bài học đề ra
từ đó phát triển ra nắm những nội dung khác của toàn bài.
- Qua 2 sơ đồ trên giáo viên cũng sẽ rất thuận lợi chốt lại cho các em những
nội dung cơ bản khi kết thúc bài học.
- Khi ôn lại bài cũ, học sinh vẽ lại sơ đồ, tìm mối liên hệ giữa chúng các em sẽ
tự nhớ, tự khắc sâu được kiến thức cho mình.
2. Sử dụng sơ đổ vào các bài ôn tập, sơ kết, tổng kết
Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000 được chia thành nhiều nhiều
Chương. Mỗi chương đó là một giai đoạn lịch sử, tái hiện quá trình đấu tranh cách
mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước của nhân dân ta trong thế kỉ XX với những
nhiệm vụ, mục tiêu khác nhau qua từng thời kì. Chính vì vây, nội dung kiến thức lịch
sử rất phong phú, đa dạng, nhiều sự kiện, nhiều nhân vât, nhiều vấn đề lịch sử ... đòi
hỏi học sinh phải nắm vững để trên cơ sở đó phải lí luân, phân tích, đánh giá được

các kiến thức lịch sử.
Mục đích yêu cẩu đặt ra cho học sinh khi học hết chương trình lịch sử từ
1919 đến năm 2000 là :
- Phân chia được các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam từ năm 1919
đến năm 2000.
- Nắm được nội dung chính của từng giai đoạn như là diễn biến, sự kiện, nhân

11


vật lịch sử, chủ trương của Đảng như : phong trào dân tộc dân chủ, sự ra đời của
Đảng, các chủ trương đấu tranh cách mạng qua từng thời kì, cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945, sự thành lâp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, công cuộc đổi mới...
So sánh được những điểm khác nhau cơ bản của mỗi thời kì....
Để học sinh có thể nắm được những nét chính, những kiến thức trọng tâm của
từng chương, từng giai đoạn lịch sử thì kết thúc mỗi chương giáo viên phải dành thời
gian để sơ kết lại nội dung của từng chương. Có nhiều cách sơ kết, tổng kết bài học,
như sơ lược lại các bài học, yêu cẩu học sinh lập niên biểu, thống kê kiến thức vào
các bảng kiến thức..v.v...Cá nhân tôi, khi tiến hành sơ kết các chương, rồi tổng kết
chương trình thường dùng kèm thêm một số sơ đồ lịch sử để khắc sâu kiến thức cho
học sinh, giúp các em có cái nhìn tổng thể về nội dung từng chương.
Ví dụ, khi học Bài 32 : TỔNG KẾT LỊCH sử VIỆT NAM TỪ NĂM 1919
ĐẾN NĂM 2000), để khái quát các giai đoạn, các chặng đường lịch sử từ năm 1919
đến năm 2000 thì cách đơn giản nhất mà tôi thường làm là sử dụng sơ đồ (như Hình
6) (Phần phụ lục).
Sau khi vẽ sơ đổ lên bảng hoặc trình chiếu trên màn hình Power Point, giáo
viên kết hợp giảng bài và chú thích ngắn gọn nội dung của từng thời kì : Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 1945, chia làm 5 thời kì:

- Giai đoạn 1919 -1930 : Phong trào dân tộc, dân chủ trước khi có Đảng
- Giai đoạn 1930 - 1945 : Giai đoạn vận động, chuẩn bị cho Cách mạng tháng
Tám
- Giai đoạn 1945 -1954 : Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (Kháng chiến kiến quốc )
- Giai đoạn 1954 - 1975 : Giai đoạn xây dựng CNXH ở miễn Bắc và tiến hành

12


cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
- Giai đoạn 1975 - 2000 : Giai đoạn tiến hành cách mạng XHCN trên phạm vi
cả nước
Khi sử dụng sơ đồ trên, cộng với cách giảng giải, trình bày của giáo viên học
sinh đã nắm, đã ghi nhớ được những điểm chính, những mốc thời gian quan trọng,
những sự kiên cơ bản, đặc trưng của từng thời kì. Từ đó các em có một cái nhìn hệ
thống, tổng quát quá trình phát triển của lịch sử dân tộc mà các em đã phải học qua
20 bài.
Khi học xong CHƯƠNG II : VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945,
giáo viên có thể dành một khoảng thời lượng nhất định để khái quát lại những nội
dung chính của Chương II nay qua một sơ đồ chi tiết (như Hình 7) (Phần phụ lục).
Chương II : Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 được bố cục theo 4 bài, học
sinh được học trong 6 tiết ,với rất nhiều sự kiện, kiến thức. Nhưng khi được giáo viên
sơ đồ hoá qua Hình 7 thì một mảng kiến thức lớn, trừu tượng, rất khó nhớ đối với
học sinh sẽ trở nên cô đọng, súc tích hơn. Học sinh khi nghe giáo viên giảng giải sẽ
cảm thấy đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn và không còn cảm thấy nặng nề khi học cả
một chương quan trọng này nữa. Chỉ qua một sơ đồ đơn giản những rất khoa học,
học sinh có thể :
- Nắm được những mốc thời gian quan trọng của cả Chương II.
- Ghi nhớ được các phong trào đấu tranh tiêu biểu của nhân dân ta qua 15 năm
chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám năm 1945, với 3 cuộc tập dướt lớn là Phong trào

cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh; Phong trào Dân chủ
1936 - 1939; Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945.
- Từ những kiến thức cơ bản được thể hiên qua sơ đồ, học sinh có thể đi sâu
tìm hiểu một số vấn đề thuộc phương diện lí luận như chủ trương của Đảng, mục tiêu,
hình thức, phương pháp, kết quả đấu tranh giữa các thời kì, cũng như ý nghĩa lịch sử

13


và bài học kinh nghiệm của các thời kì đấu tranh cách mạng.
- Sau khi đã nắm được những kiến thức cơ bản đó, học sinh cũng có thể trả lời
những câu hỏi ở tẩm cao hơn phục vụ cho mục đích thi cử như : So sánh chủ trương,
sách lượng đấu tranh cách mạng của Đảng qua các thời kì; So sánh thời kì 30 - 31 với
thời kì 36 - 39,..v.v...
Tương tự như vậy, khi học xong CHƯƠNG IV : VIỆT NAM TỪ NĂM 1954
ĐẾN NĂM 1975, giáo viên cũng nên dành một thời gian nhất định để khái quát lại
những vấn đề trọng tâm của cả chương cho học sinh ôn tập và ghi nhớ. Chương IV là
một chương quan trọng, sách giáo khoa bố cục theo 5 bài, học sinh được học 12 tiết.
Nội dung kiến thức của Chương II rất phong phú, đa dạng với rất nhiều sự kiện, biến
cố,....khác nhau. Để khái quát những nội dung cơ bản nhất của chương này, tôi cũng
dùng một sơ đồ lịch sử như (Hình 8) (Phần phụ lục)
Một sơ đổ lịch sử đơn giản Hình 8 chưa thể khái quát hết các sự kiên, các
biến cố, các nhân vật lịch sử được học qua Chương IV, nhưng cũng có thể giúp học
sinh :
- Nắm được các mốc lịch sử quan trọng của cả chương.
- Phân chia được các giai đoạn chủ yếu của cách mạng 2 miền Bắc - Nam từ
năm 1954 đến năm 1975.
- Nắm được những nhiêm vụ chiến lược, những thành tích quan trọng, những
thắng lợi chủ yếu của quân dân hai miền Bắc - Nam từ năm 1954 đến năm 1975. Trên
cơ sở đó học sinh có thể khái quát được những bước phát triển của cách mạng Việt

Nam từ năm 1954 đến năm 1975 trong việc thực hiên hai chiến lược của cách mạng
là chiến lược cách mạng XHCN ở miền Bắc và chiến lược cách mạng Dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam.
Tóm lại, sơ đổ lịch sử không chỉ có tác dụng trong việc giảng dạy bài mới mà
nó còn có tác dụng quan trọng trong việc tái hiện lại các kiến thức đã học, hệ thống

14


hoá các kiến thức được học rời rạc, tản mạn qua một số bài, một chương thành một hệ
thống kiến thức có quan hệ chặt chẽ với nhau theo logic xác định. Từ các hệ thống
kiến thức đó, học sinh có thể tìm ra được những kiến thức cơ bản nhất và các mối liên
hệ bản chất giữa các sự kiên, hiện tượng, biến cố lịch sử để ghi nhớ và vận dụng
chúng trong việc giải quyết các vấn đề mang tính chất lí luận.
3. Sử dụng sơ đổ trong việc giảng dạy các chuyên đề nhằm khắc sâu các sự
kiên, các nhân vật lịch sử
Sơ đổ lịch sử không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc giảng dạy bài mới,
trong các bài sơ kết, tổng kết mà còn phát huy giá trị to lớn trong việc giúp học sinh
khác sâu về các sự kiện, các nhân vật lịch sử quan trọng. Đơn cử như khi ta giảng dạy
cho học sinh về cuộc đời hoạt động và những cống hiến quan trọng của lãnh tụ Hổ
Chí Minh cho lịch sử dân tộc.
Cuộc đời hoạt động của lãnh tụ Hổ Chí Minh là một cuộc đời hoạt động đẩy nôi nổi,
với rất nhiều các sự kiện, các giai đoạn lịch sử khác nhau. Để học sinh ghi nhớ và
nắm vững được những hoạt động của Người không đơn giản. Để học sinh đánh giá
được những công lao to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam lại càng khó.
Chính vi vây, khi biên soạn và giảng dạy những chuyên đề về cuộc đời hoạt động và
những công lao của lãnh tụ Nguyên Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt
Nam, tôi đã két hợp xây dựng, sưu tẩm và sử dụng các sơ đồ lịch sử gắn liền với
những hoạt động của Người. Các sơ đồ mà tôi đã từng sử dụng (như Hình 9, Hình 10,
Hình 11) (Phần phụ lục).

Nhớ và nắm vững được những hoạt động của Người không đơn giản. Để học
sinh đánh giá được những công lao to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam
lại càng khó. Chính vi vây, khi biên soạn và giảng dạy những chuyên đề về cuộc đời
hoạt động và những công lao của lãnh tụ Nguyên Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với
dân tộc Việt Nam, tôi đã két hợp xây dựng, sưu tẩm và sử dụng các sơ đồ lịch sử gắn

15


liền với những hoạt động của Người. Các sơ đồ mà tôi đã từng sử dụng (như Hình 9,
Hình 10, Hình 11.(Phần phụ lục)
Ba sơ đồ trên (Hình 9, Hình 10, Hình 11) chưa chi tiết hoá được hết những
hoạt động trong cuộc đời lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, nhưng khi được
trình bày trên màn hình Power Point kết hợp với các loại lược đồ, tranh ảnh, đã có
tác dụng không nhỏ trong việc giúp học sinh khắc sâu những hiểu biết về Người
như:
- Nắm được những mốc lịch sử lớn trong cuộc đời hoạt động của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
- Nắm được các giai đoạn trong cuộc đời hoạt động sôi nổi của Người.
- Khi học và hiểu được sơ đồ, nắm được những sự kiện tiêu biểu, những giai
đoạn trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, các sơ đồ trên
còn giúp học sinh nắm vững được những công lao, những công hiến vĩ đại của
Người đối với cách mạng Việt Nam..v.v..
- Như vây có thể thấy các loại sơ đồ đóng một vai trò quan trọng trong giảng
dạy các bài học lịch sử. Nếu được sử dụng một cách hợp lý, sơ đồ lịch sử sẽ góp
phẩn làm cho bài học lịch sử vốn được cho là khô khan, cứng nhắc trở lên sinh động,
uyển chuyển, có sức thuyết phục học sinh hơn. Bài học lịch sử vì vây dễ cuốn hút
học sinh hơn.
IV- Kết quả khi sử dụng sơ đo vào các bài giảng lịch sử:
Qua một số năm thực hiện đề tài Sáng kiến kinh nghiệm ”Sử dụng sơ đồ trong

giảng dạy các bài học lịch sử” và khảo nghiệm thực tế học tâp của học sinh, tôi nhận
thấy :
- Bài giảng lịch sử bớt nặng nề, khô khan, nhàm chán mà cuồn hút học sinh
hơn.

16


- Phẩn lớn các em học sinh có ý thức học tâp và có phương pháp học tâp tốt
hơn.
- Cơ bản các em đã biết quan sát và sử dụng sơ đồ lịch sử để rút ra được những
kiến thức cẩn nắm. Do đó chất lượng các tiết học đạt kết quả cao hơn, học sinh cảm
thấy thoải mái, tiếp thu bài tốt hơn. Điều này được minh chứng rõ nhất qua kết quả
học tập lịch sử ở các lớp tôi trực tiếp giảng dạy tại trường THPT Nông Cống 1 trong
giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014. Cụ thể, khi tôi khảo sát, thăm dò học sinh qua
các năm học như sau :
Năm học 2007 - 2008, trước khi áp dụng đề tài:
Tổng
Lớp

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém


số
học

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

sinh
12C1

47

5


10,6

21

44,7

21

47,7

0

0

0

0

12C2

48

4

8,3

19

39,6


20

41,6

5

10,5

0

0

12C3

45

4

4,4

6

13,3

28

62

9


20

0

0

Năm học 2010 - 2011 khi áp dụng đề tài được 3 năm:
Tổng
Lớp

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

số
học

SL

TL%

SL

TL%


SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

11

24,4

26

57,8

8

17,8

0

0

0


0

sinh
12C1

45

17


12C2

43

8

18,6

14

31,9

17

39,5

4

10


0

0

12C3

47

5

10.6

17

36,2

21

44,67

4

8,5

0

0

Năm học 2013 - 2014 khi áp dụng đề tài được 4 năm:

Tổng
Lớp

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

số
học

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

SL


TL%

SL

TL%

sinh
12B1

43

12

27,9

26

60,5

5

11,6

0

0

0

0


12B2

41

9

22

28

68,2

4

9,8

0

0

0

0

12B3

46

6


13

24

39,3

18

39,1

4

8,7

0

0

Kết quả học tập lịch sử ở các lớp tôi trực tiếp giảng dạy tại trường THPT Nông
Cống I trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2012. Cụ thể, khi tôi khảo sát, thăm dò
học sinh qua các năm học như sau :
Các bảng thống kê kết quả học tập của học sinh qua các năm học đã cho thấy,
khi giáo viên áp dụng phương pháp sử dụng sơ đổ vào giảng dạy, đã đem lại kết quả
rất khả quan :
- Tỉ lệ học sinh Khá - Giỏi tăng lên rõ rệt.
- Tỉ lệ học sinh Trung Bình và Yếu đã giảm xuống.
Kết quả đó là minh chứng rõ ràng nhất cho những giá trị khoa học của đề tài
mà tôi đang nghiên cứu và áp dụng. Vui mừng hơn nữa là phẩn lớn học sinh lớp 12
do tôi giảng dạy không những không cảm thấy nhàm chán khi học lịch sử mà đang


18


dẩn dẩn hứng thú với môn học. Phẩn lớp các em học sinh đều có khả năng vẽ và sử
dụng các loại sơ đổ lịch sử. Nhiều em học Ban Khoa học xã hôi không những biết vẽ
thành thạo các loại sơ đổ trên giấy, mà còn đang tìm tòi, học hỏi để vẽ các loại sơ đổ
tư duy trên các phẩm mềm vi tính. Chính điều đó càng làm tôi thêm trăn trở khi nghĩ
đến câu nói của mọt nhà nghiên cứu lịch sử : " Không có học trò dốt sử mà chỉ có
những người thầy chưa giỏi dạy". Tôi thấy mình càng phải tân tuỵ, tân tâm với nghề,
sáng tạo hơn nữa trong công tác giảng dạy để không phụ công học tâp của các em.
V. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ:
Mặc dù có nhiều ưu điểm và đã phát huy giá trị trong thực tế giảng dạy, tôi
vẫn cảm thấy đề tài minh đang áp dụng còn mọt số tổn tại, vướng mắc mà tôi chưa
giải quyết được ngay và chưa đề câp tới trong đề tài này. Đó là :
Thứ nhất: Làm thể nào để có thể xây dựng được những sơ đổ lịch sử khoa học,
tối ưu, cô đọng nhất, phù hợp với từng bài, từng chương, từng chuyên để để giáo viên
có thể sử dụng khi giảng dạy ở tất cả các khối lớp từ lớp 10, lớp 11 cho đến lớp 12.
Thứ hai là: Khi xây dựng sơ đổ lịch sử ta phải đảm bảo những nguyên tắc
nào?
Thứ ba là : Khi sử dụng sơ đổ lịch sử vào các bài giảng thi phải sử dụng như
thế nào để không quá dàn trải?
Thứ tư là: Sử dụng sơ đổ lịch sử như thế nào để không tốn thời gian mà vẫn
đạt hiệu quả. Vẽ sơ đồ lên bảng, vẽ trên giấy Ao hay sử dụng trên màn hình Power
Point thế nào cho hợp lí.
Thứ năm là: Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ để học tâp, ôn tập, ghi nhớ các
kiến thức lịch sử như thế nào cho hiệu quả.
Với những điểm còn bỏ ngỏ đó, tôi rất mong nhân được sự quan tâm, cộng
tác, góp ý kiến của các đổng nghiệp để Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện


19


hơn.
Phần ba : KẾT LUẬN CHUNG
I. NHỮNG KINH NHIỆM KHI SỬ DỤNG SƠ ĐỒ LỊCH SỬ
Sơ đồ lịch sử là một loại dụng cụ trực quan đơn giản, có sức khái quát hoá, hệ
thống hoá kiển thức một cách rất cô đọng. Qua môt số năm ứng dụng sơ đổ lịch sử
vào giảng dạy, tôi đã rút ra được môt số kinh nghiêm khi sử dụng phương tiện này
để truyền đạt kiến thức. Những kinh nghiệm đó là :
- Thứ nhất là: Trước khi sử dụng sơ đổ vào bài giảng lịch sử, giáo viên phải
nghiên cứu kĩ nôi dung, mục đích yêu cẩu, hinh thức của từng bài học để từ đó lựa
chọn các loại sơ đổ cho phù hợp, lựa chọn ý tưởng, cách thức sử dụng cho hiêu quả
khi khai thác nôi dung bài học.
- Thứ nhất là: Không nên sử dụng quá nhiều sơ đồ cho môt bài học, một
chuyên đề, nhằm tránh tình trạng dàn trải, thiếu trọng tâm, làm loãng kiến thức, gây
khó khăn cho học sinh trong việc xác định kiến thức trọng tâm của bài học.
- Thứ ba là:

Sử dụng sơ đồ lịch sử trong tiến trình bài học phải đúng lúc,

đúng chỗ, đúng cường độ nhằm đáp ứng được mục đích của bài học.
- Thứ tư là: Các loại sơ đồ được sử dụng vào bài giảng phải đảm bảo tính
khoa học, tính sư phạm và tính thẩm mĩ; tránh những chi tiết rườm rà, vụn vặt. Nội
dung có thể ngắn gọn nhưng phải đảm bảo đủ kiến thức cơ bản của bài học.
II. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Đối với giáo viên:
Giáo viên là người đóng vai trò chủ đạo trong sự thành công của một bài học
lịch sử. Vì vây, để đảm bảo thực hiên có hiệu quả phương tiện dạy học này, giáo viên
phải thực hiên tốt một số yếu cầu sau :

- Nghiên cứu kĩ nội dung bài học.

20


- Chuẩn bị tốt mọi phương tiện cần thiết cho bài giảng như giáo án, sơ đồ, máy
Chiếu
- Giáo viên phải có kiến thức vững vàng, say mê với nghề nghiệp, chuyên tâm
với công tác giảng dạy. Phải đầu tư công sức, sáng tạo trong việc nghiên cứu bài
giảng, tìm ra những ý tưởng, những sơ đồ, những phương pháp hay cho công tác
giảng dạy.
2. Đối với học sinh:
- Phải có ý thức học tập nghiêm túc, chú ý nghe giảng, chủ đông tìm hiểu sách
giáo khoa để biết được những nôi dung của bài học.
- Tự giác học tập, biết tự mình tìm tòi, sáng tạo trong học tập.
- Với sự hướng dẫn của thẩy cô giáo, học sinh phải biết sử dụng, sưu tầm, và
tự vẽ được các loại sơ đổ. Phải hiểu và trình bày được nôi dung kiến thức của sơ đổ
lịch sử.
III. HƯỚNG NGHIÊN CỨU MỚI NHẰM PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN
THIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Trên cơ sở những kết quả thu được khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào
thực tế giảng dạy, khắc phục những tổn tại và hạn chế để từ đó hoàn thiện đề tài sáng
kiến kinh nghiệm ”Sử dụng sơ đồ trong giảng dạy các bài học lịch sử”. Trong thời
gian tới, tôi sẽ tiếp tục đẩu tư thời gian và công sức nghiên cứu tiếp một số nôi dung
khác liên quan tới đề tài, như là :
- Những nguyên tắc khi xây dựng và sử dụng sơ đổ lịch sử.
- Các bước xây dựng sơ đổ lịch sử.

21



- Hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đổ nhằm hệ thống hoá kiến thức lịch sử phục vụ
cho ôn luyện, thi cử.
Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến từ các đổng
nghiệp ở trong và ngoài tỉnh.
KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT.

I.

Về phía ngành giáo dục : tăng cường hỗ trợ phương tiên, thiết bị nhằm phục vụ tốt
hơn nữa công tác dạy và học.
- Về phía các nhà trường : Cẩn tạo điều kiên, hỗ trợ tích cực để giáo viên yên
tâm công tác, có thêm thời gian, đẩu tư công sức, tích luỹ kiến thức sâu rông, nâng
cao hiểu biết cũng như nâng cao trình đô chuyên môn nghiệp vụ, nhất là việc áp dụng
những phương pháp mới vào thực tiễn giảng dạy.
- Về phía giáo viên : phải yêu nghề, tâm huyết với công tác giảng dạy. Tích cực
tự bổi dưỡng để vốn kiến thức ngày càng thêm phong phú. Luôn tìm tòi những
phương pháp mới, phù hợp với từng tiết dạy để có thể cuốn hút được học sinh vào bài
học.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Côi - Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở
trường THPT - NXB Đại học Quốc gia Hà Nôi, năm 2007
0 Hoàng Thanh Tú - Tập bài giảng Phương pháp dạy học lịch sử - Đại học giáo

dục, Đại học Quốc gia Hà Nôi, năm 2007
2. Phan Ngọc Liên, Trẩn Văn Trị - Phương pháp dạy học lịch sử - NXB

Giáo dục, năm 2001

23


3. Phan Ngọc Liên, Phương pháp dạy học Lịch sử, Tập II, NXB Đại học Sư
phạm Hà Nôi, năm 2008
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương
trình, sách giáo khoa Lớp 12 môn Lịch sử - NXB Giáo dục, năm 2008
5. Lịch sử 12, Sách giáo khoa - NXB Giáo dục. năm 2011
6. Lịch sử 12, Sách Giáo viên - NXB Giáo dục, năm 2011
7. Luật giáo dục - NXB Chính trị Quốc gia, năm 2005.

Nông Cống, ngày 10tháng 05 năm2016
Người thực hiện
Đậu Thị Hạnh

24


NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA NHÀ TRƯỜNG
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

25



×