MỤC LỤC
NỘI DUNG
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lời giới thiệu
2. Tên sáng kiến
3. Tác giả
4. Chủ đầu tư
5. Lĩnh vực áp dụng
6. Ngày áp dụng lần đầu
PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
2. Các giải pháp sáng tạo đã thực hiện
2.1 Kiểm tra bài cũ qua hệ thống câu hỏi nhanh
2.2 Kiểm tra bài cũ thông qua các bài tập tình huống
2.3 Kiểm tra bài cũ qua các bài tập trắc nghiệm
2.4 Kiểm tra bài cũ qua các bài thuyết trình ngắn
2.5 Kiểm tra bài cũ bằng vẽ sơ đồ tư duy
3. Thông tin bảo mật
4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
5. Đánh giá kết quả áp dụng sáng kiến
PHẦN III : KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRANG
3
5
5
5
5
5
5
5
6
7
8
10
12
13
14
14
14
16
16
1
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1.LỜI GIỚI THIỆU
*Việc đổi mới giáo dục dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo
dục của nhà nước. Đó là những định hướng quan trọng về chính sách và quan
điểm trong việc phát triển và đổi mới giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá được thể hiện trong nhiều văn bản, cụ thể:
Trong luật giáo dục điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ XI: “Đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng
hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng,
giáo dục truyền thống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong công
nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện
GD ĐT: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương phap dạy và học theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực chủ động , sáng tạo và vận dụng kiến thức kĩ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu
trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội,
ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học. “ Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi,
kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo đảm bảo trung thực, khách quan.
Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các
tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công
nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối
kì, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh
giá của nhà trường với đánh giá của gia đình, của xã hội”.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo
quyết định 711 ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ chỉ rõ: “Tiếp tục đổi
mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người
học”.
“Đổi mới kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kì thi tuyển sinh đại học,
cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng;
kết hợp kết quả kiểm tra, đánh giá trong quá trình giáo dục với kết quả thi”
Tại hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế xác
2
định: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục
theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp đánh giá cả quá trình với
đánh giá cuối kì, cuối năm theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát
triển…”
Những quan điểm chỉ đạo trên của nhà nước về việc đổi mới giáo dục nói
chung, đổi mới kiểm tra đánh giá nói riêng đã tạo tiền đề vững chắc về mặt lí
luận giúp tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến của mình.
*Giáo dục phổ thông ở nước ta đang thực hiện bước chuyển mạnh mẽ,
căn bản. Chúng ta đang chuyển từ chương trình giáo dục định hướng nội dung
sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh
học được cái gì đến chỗ quan tâm đến học sinh vận dụng được những gì qua
việc học. Để đảm bảo được điều đó cần phải đổi mới toàn diện nội dung,
phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới kiểm tra đánh giá.
Trong những năm qua,việc đổi mới kiểm tra đánh giá đã được quan tâm
chỉ đạo từ phía bộ giáo dục. Ngành GD ở các cấp đã tổ chức tập huấn cho giáo
viên và đã triển khai thực hiện trong thực tiễn giảng dạy. Cơ sở vật chất phục vụ
đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá được chú trọng, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động của giáo viên và học sinh. Đông đảm giáo viên có nhận
thức đúng đắn về đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá và có mong muốn
được thực hiện đổi mới đồng bộ các phương pháp này.
Tuy nhiên, các tài liệu hướng dẫn việc đổi mới kiểm tra đánh giá không
nhiều, và thường chỉ dừng ở việc đưa ra yêu cầu đối với kiểm tra đánh giá. Việc
tập huấn cũng chỉ đề cập chung chung là phải sử dụng nhiều loại hình, công cụ
khác nhau, nhằm kiểm tra đánh giá được các năng lực khác nhau của người học.
Trong các hoạt động kiểm tra thì kiểm tra miệng đầu giờ dường như không được
chú ý, chưa thấy tài liệu nào nói đến cần đổi mới hoạt động kiểm tra này. Việc
kiểm tra bài cũ ở trường phổ thông chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức
và đánh giá qua điểm số, dẫn đến tình trạng giáo viên duy trì dạy học theo lối
đọc chép thuần túy, còn học sinh chỉ học theo kiểu ghi nhớ máy móc, học vẹt
cho thuộc bài cũ để ghi điểm.
Giáo viên chưa thực sự coi trọng việc kiểm tra bài cũ, chưa để tâm đến việc
làm thế nào để những phút kiểm tra đầu giờ nhẹ nhàng vui vẻ mà vẫn đánh giá
được thái độ học tập, tiếp thu bài của học sinh. Hầu hết giáo viên vẫn sử dụng
phương pháp truyền thống là gọi một vài học sinh rồi hỏi lại kiến thức đã học.
Học sinh học thuộc, trình bày đúng những gì cô đã dạy, đã cho ghi hôm trước
thế là cho điểm. Việc kiểm tra trở nên nhàm chán, học sinh học bài cũ như một
nghĩa vụ. Thậm chí có giáo viên còn khiến giờ kiểm tra bài cũ trở nên căng
thẳng gây ra những áp lực không đáng có đối với học sinh. Tình trạng căng
thẳng đó nếu tiếp diễn thường xuyên sẽ khiến học sinh chán ghét môn học, hệ
quả là những mục tiêu giáo dục sẽ không đạt được.
Môn GDCD ở trường phổ thông vẫn được xem là môn phụ bởi nó không
phục vụ cho việc thi cử của học sinh. Vì vậy người học không dành thời gian
quan tâm, người dạy cũng nhiều thầy cô chưa tâm huyết. Nhận thức về việc thay
3
đổi sao cho việc kiểm tra đáp ứng đúng yêu cầu đổi mới giáo dục của nhiều giáo
viên vẫn chưa tốt. Thế nên dành thời gian nghiên cứu, thay đổi cách kiểm tra bài
cũ cho hấp dẫn hiệu quả chắc chắn ít giáo viên nghĩ tới.
Tất cả những lí do trên, là động lực quan trọng khiến tôi quyết định lựa
chọn đề tài: Linh hoạt trong cách kiểm tra bài cũ môn GDCD lớp 10 - góp
phần đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh theo định hướng phát triển năng
lực để ghi lại những kinh nghiệm của mình, chia sẻ với các đồng nghiệp trong
tỉnh. Hi vọng nó sẽ đem lại một vài gợi ý nào đó cho các thầy cô.
2.TÊN SÁNG KIẾN
Linh hoạt trong cách kiểm tra bài cũ môn GDCD lớp 10 - góp phần
đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh theo định hướng phát triển năng lực
3.TÁC GIẢ
-Họ và tên: NGUYỄN THỊ LAN
-Địa chỉ: Trường THPT Hoằng Hóa 2
-Số điện thoại: 0975.459.205 Email:
4.CHỦ ĐẦU TƯ
NGUYỄN THỊ LAN
5.LĨNH VỰC ÁP DỤNG
Việc dạy học đòi hỏi người giáo viên phải trau dồi nhiều kiến thức, kĩ năng
không chỉ thuộc chuyên môn của mình mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Vì vậy
nghiên cứu nội dung nào cũng là cần thiết, bao nhiêu cũng là chưa đủ. Trong
sáng kiến kinh nghiệm này tôi muốn giải quyết một vấn đề là: Thông qua việc
đổi mới cách kiểm tra bài cũ đầu giờ để đánh giá được nhiều năng lực khác nhau
của học sinh, đồng thời giúp tăng sự hứng thú học tập của các em với bộ môn
GDCD.
Là giáo viên dạy GDCD, lại có nhiều năm được phân công giảng dạy lớp
10, vì thế những phương pháp kiểm tra bài cũ đề cập đến trong sáng kiến được
tôi tiến hành khảo nghiệm ở khối 10 trường THPT Hoằng Hóa 2 nơi tôi công
tác.
Phạm vi nghiên cứu SKKN của tôi là toàn bộ chương trình GDCD 10. Song
với những kết quả đã đạt được tôi có thể khẳng định rằng, sáng kiến của tôi có
thể áp dụng cho việc dạy học môn GDCD ở bất cứ khối lớp nào. Đồng thời cũng
có thể áp dụng cho các môn học khác trong các nhà trường phổ thông.
6. NGÀY ÁP DỤNG LẦN ĐẦU
(Năm học 2015-2016)
Phần II : Giải quyết vấn đề
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
-Thuận lợi:
Trường THPT Hoằng Hóa 2 nơi tôi công tác là nơi có môi trường giáo
dục hàng đầu của tỉnh. Lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm đến việc phát triển
toàn diện học sinh. Vì thế tất cả các bộ môn đều được quan tâm đầu tư và tạo
điều kiện tốt. Nhà trường cũng luôn chú ý xây dựng môi trường làm việc chuyên
4
nghiệp, khoa học tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội phát huy năng lực bản
thân.
Hầu hết các em đều thông minh, ngoan ngoãn, có ý thức học tập tốt, rất
thuận lợi cho giáo viên trong thực hiện các hoạt động giáo dục.
-Khó khăn:
Môn GDCD ở trường là môn học có số lượng tiết dạy ít. Học sinh phải
tập trung nhiều thời gian cho việc học môn khác nên rất ít thời gian dành cho
các môn này. Hơn nữa các em coi môn GDCD là môn phụ nên thường không
chú ý. Điều này gây khó khăn trong việc thực nghiệm sáng kiến của giáo viên,
đặc biệt là những khi cần giao bài về nhà hoặc khi học sinh phải chuẩn bị trước
nội dung nào đó.
Nội dung môn GDCD lớp 10 khá trừu tượng vì vậy rất khó để thu hút sự
chú ý của học sinh, nếu như giáo viên không chịu khó tìm tòi thay đổi phương
pháp.
Trong khi đó, giáo viên bấy lâu nay vẫn thực hiện dạy học và kiểm tra bài
cũ theo phương pháp truyền thống. Điều này khiến học sinh không hứng thú với
môn học. Giáo viên cũng không đạt được kết quả giảng dạy như mong muốn,
không đánh giá được các năng lực khác nhau của học sinh.
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã tiến hành khảo sát ở một số lớp với hai
nội dung: Đó là mức độ yêu thích đối với môn GDCD và cảm nhận của em về
việc kiểm tra bài cũ hàng ngày. Kết quả thu được như sau:
(Bảng thống kê mức độ yêu thích đối với môn GDCD)
Lớp/sỹ số
Thích học
Bình thường
Không thích
Số lượng %
Số lượng %
Số lượng %
10c1- 43 hs
13
30%
17
40%
13
30%
10c2- 46 hs
16
35%
8
17%
22
48%
10c3- 39 hs
10
26%
20
51%
9
24%
10c4- 40hs
5
13%
15
37%
20
50%
10c6- 40hs
5
13%
18
45%
17
42%
Tổng số 208 hs
49
24%
78
37%
145
69%
(Về việc kiểm tra bài cũ):
94 trên tổng số 208 em được hỏi thấy việc kiểm tra bài cũ gây không khí
nặng nề, căng thẳng khi bước vào giờ học. 72/ 208 em cho rằng việc kiểm tra
bài cũ không hiệu quả vì học sinh học đối phó, được điểm rồi là không học nữa.
2.Các giải pháp sáng tạo đã thực hiện:
Môn GDCD, đặc biệt là chương trình giáo dục công dân lớp 10 thực sự
không dễ học với học sinh. Các em vừa ở cấp hai lên, nội dung môn GDCD cấp
2 rất nhẹ nhàng, chủ yếu giúp các em hình thành một số phẩm chất, năng lực cơ
bản về đạo đức và pháp luật. Thế nhưng ngay ở phần đầu của môn GDCD 10
các em đã phải tiếp cận với một nội dung rất mới và khó, đó là triết học. Phần
hai là lí luận về đạo đức và một số phạm trù đạo đức cơ bản, gồm khá nhiều khái
niệm trừu tượng. Vì thế không chỉ tìm cách dạy thế nào để học sinh dễ hiểu, mà
tôi còn luôn thay đổi cách kiểm tra, đánh giá để học sinh hứng thú học tập bộ
5
môn và tôi có được kết quả đánh giá học sinh một cách tốt nhất. Qua kinh
nghiệm thực tiễn của mình tôi nhận thấy, linh hoạt trong cách kiểm tra bài cũmột việc làm tưởng chừng nhỏ nhưng lại góp phần không nhỏ cho thành công
của tiết dạy, cho việc đánh giá toàn diện hơn năng lực của học sinh theo yêu cầu
đổi mới.
2.1 Kiểm tra bài cũ qua hệ thống câu hỏi nhanh
*Chuẩn bị và thực hiện.
Muốn kiểm tra bài cũ bằng cách này, giáo viên phải chuẩn bị sẵn các câu
hỏi. Có hai kiểu câu hỏi có thể áp dụng là; câu hỏi bao quát nội dung toàn bài
hoặc câu hỏi về một nội dung nào đó trong bài. Câu hỏi đảm bảo tính ngắn gọn,
lô gic, không xa nội dung đã học. Thường thì tôi sử dụng câu hỏi đóng để học
sinh trả lời nhanh. Nếu muốn kiểm bao nhiêu học sinh thì chuẩn bị bấy nhiêu gói
câu hỏi.
Vào giờ dạy, sau khi ổn định lớp, giáo viên lấy tinh thần xung phong, học
sinh nào giơ tay trước thì được chọn gói câu hỏi trước. Học sinh đưa gói câu hỏi
đã chọn cho giáo viên rồi đứng trước lớp. Giáo viên đứng đối diện phía dưới đọc
câu hỏi, học sinh trả lời. Trong quá trình học sinh trả lời, giáo viên không hỏi gì
thêm, không bình luận đúng sai. Học sinh trả lời xong, mời một bạn nhận xét
(kiểu được hay chưa được, sai những chỗ nào) sau đó giáo viên đánh giá ngắn
gọn và cho điểm. Học sinh được kiểm tra tiếp theo làm tương tự. Mỗi học sinh
cần khoảng 3 phút.
*Ví dụ:
Với câu hỏi toàn bài giáo viên có thể dùng các câu hỏi như:
-Tiết trước mình học bài gì?
-Bài có những nội dung cơ bản nào?
-Theo em phần nào là trọng tâm của bài học?
-Em có được những hiểu biết gì qua bài học?
-Những kiến thức đó mang đến cho em bài học nào cho cuộc sống?
Với câu hỏi xoay quanh một đơn vị kiến thức nào đó, giáo viên cũng đặt
câu hỏi tương tự. Ví dụ xoay quanh khái niệm mâu thuẫn (bài 4- Nguồn gốc vận
động phát triển của sự vật hiện tượng) GV có thể hỏi:
- Thế nào là mâu thuẫn
-Vì sao trong một sự vật hiện tượng nào đó lại chứa đựng những mâu
thuẫn?
-Mặt đối lập là gì?
-Vì sao các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn thường xuyên đấu
tranh với nhau?
-Sự thống nhất của các mặt đối lập được hiểu thế nào?
-Em thấy bản thân mình có những mâu thuẫn không?
-Kể ra một vài mâu thuẫn của em ?
Ví dụ khi kiểm tra khái niệm tự nhận thức về bản thân (bài 16-GDCD 10)
GV có thể hỏi:
-Tự nhận thức về bản thân là gì?
6
-Tự nhận thức về bản thân có dễ dàng không? Vì sao?
-Tự nhận thức bản thân để làm gì?
-Làm thế nào để nhận thức được về mình?
-Ưu điểm của em là gì?
-Hạn chế cơ bản của em?
-Điều em thích?
-Ước mơ của em?
-Em có thấy hài lòng về bản thân mình không?
*Ưu điểm
Rèn học sinh cách học bài khoa học, biết cách gắn kết, xâu chuỗi nội dung
kiến thức đã học, dần dần xóa bỏ kiểu học vẹt, học thuộc lòng một cách máy
móc.
Giáo viên chỉ kiểm tra 1 đến 2 em học sinh nhưng giúp cả lớp có thể hình
dung lại được nội dung bài học cũ một cách hệ thống và ngắn gọn nhất.
Từ những nội dung vừa được tái hiện qua việc kiểm tra, GV có thể dễ
dàng dẫn vào bài mới.
Việc học sinh đứng trước giáo viên trả lời một số câu hỏi nhanh dạng hỏi
đáp khiến cho việc tương tác giữa giáo viên và học sinh tốt hơn. Cách hỏi đáp
này cũng thu hút được sự tập trung chú ý của các học sinh còn lại.
Cách hỏi này có thể áp dụng cho tất cả các bài
*Lưu ý:
Khi đặt câu hỏi, GV nên lựa chọn câu hỏi ngắn, để học sinh trả lời nhanh.
Việc đánh giá, nhận xét cũng nên ngắn gọn, có thể thêm những nhận xét hài
hước để tạo không khí vui vẻ trước khi vào bài học mới.
2.2 Kiểm tra bài cũ thông qua các bài tập tình huống
*Chuẩn bị và thực hiện:
Giáo viên chuẩn bị sẵn những tình huống có liên quan đến nội dung muốn
kiểm tra. Chiếu tình huống cùng câu hỏi lên, sau đó, gọi học sinh đọc, nghiên
cứu tình huống và trả lời câu hỏi. Các học sinh khác cùng nghiên cứu, lắng nghe
câu trả lời của bạn để nhận xét. Cuối cùng giáo viên đánh giá và cho điểm.
*Ví dụ
VD1.
Để kiểm tra kiến thức bài 3- Sự vận động phát triển của thế giới vật chất
GV cho tình huống:
Sau khi học xong bài Sự vận động phát triển của thế giới vật chất, Tùng
thắc mắc: Cô nói “không có sự vận động thì sẽ không có sự phát triển nào cả”
thế là không đúng vì có những sự vật không vận động mà vẫn phát triển. Ví dụ
như cây cối, chúng đứng yên một chỗ mà vẫn lớn lên, ra hoa, kết quả.
Câu hỏi: -Bạn Tùng nói vậy đúng không?
-Bằng các kiến thức đã học ở bài trước, em hãy giải đáp thắc mắc
giúp bạn.
VD2.
7
Để kiểm tra đơn vị kiến thức “Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức” Bài
7- GDCD10. GV đưa tình huống:
-Cuối thế kỉ XIX nước Pháp bị một đợt dịch than ở gia súc trên quy mô
rất lớn. Pa xto cho rằng gia súc sẽ không bị nhiễm bệnh nếu tiêm vắc xin phòng
bệnh. Mọi người không tin ông. Pa xto đã chứng minh bằng một thí nghiệm.
Ông lấy 50 con cừu được gây nhiễm bệnh than sau đó chia làm 2 nhóm. Một
nhóm tiêm vắc xin, nhóm kia không tiêm. Chỉ sau 48 giờ, nhóm cừu không được
tiêm đồng loạt chết, nhóm đã được tiêm vẫn sống khỏe mạnh.
Câu hỏi: -Theo em câu chuyện trên minh chứng cho vai trò nào của thực
tiễn đối với nhận thức? Vì sao?
VD3.
Để kiểm tra kiến thức; sự giống và khác nhau của đạo đức với pháp luật
(Bài 10- GDCD 10). Cho tình huống sau:
-Anh A đi đúng phần đường quy định. Ba em học sinh trung học cơ sở đi
xe đạp, đùa nghịch và phải anh nên ngã. Anh A thấy mình không vi phạm pháp
luật nên lên xe đi tiếp.
-Em nhận xét gì về hành vi của anh A?
-Chỉ ra những điểm khác nhau cơ bản giữa đạo đức và pháp luật?
-Nếu là em, em sẽ làm gì?
VD4.
Để kiểm tra khái niệm hạnh phúc (Bài 11- GDCD 10). Cho tình huống sau:
-…Sau một thời gian bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 7 năm 1920
Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với luận cương Lê Nin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa. Người đã vui mừng đến phát khóc. Người nói: “Luận
cương Lê Nin làm tôi vui sướng, tin tưởng, phấn khởi biết bao, ngồi trong phòng
một mình tôi tưởng chừng như đang đứng trước quần chúng đông đảo…Tôi
muốn nói thật to. Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là con đường giải phóng
cho chúng ta”.
Câu hỏi:-Tâm trạng trên của Nguyễn Tất Thành có phải là hạnh phúc
không? --Vì sao?
VD5
Để kiểm tra khái niệm hợp tác (Bài 13-GDCD 10). GV cho tình huống sau:
-Chuẩn bị cho giờ kiểm tra 1 tiết vào tuần sau. An bảo Hà: Có 10 câu hỏi ôn
tập, cậu học 5 câu đầu, tớ học 5 câu sau, đến giờ kiểm tra ai trúng câu nào thì
cho người kia chép được không? Học thế cho nó nhàn.
-Hợp tác là gì?
-Theo em như thế có phải là hợp tác không?
-Em nhận xét gì về cách hợp tác của 2 bạn trên?
*Ưu điểm:
Cách kiểm tra này thực chất là giúp học sinh nhận diện kiến thức thông
qua các bài tập tình huống. Đồng thời giúp giáo viên có thể kiểm tra được học
sinh vận dụng kiến thức đã học để xử lí những tình huống thực tiễn thế nào.
8
Kiểm tra bài cũ qua các tình huống góp phần tác động đến nhận thức, tình
cảm, thái độ của học sinh. Khi các em nói lên ý kiến của mình, dùng những lí lẽ
bảo vệ quan điểm của mình nghĩa là các em đã được tác động bởi tình huống
giáo viên đưa ra. Vì vậy việc kiểm tra bài cũ không chỉ đơn thuần đạt mục tiêu
kiểm tra kiến thức mà còn thực hiện được mục tiêu định hướng năng lực hành vi
cho học sinh.
Cách kiểm tra này còn giúp học sinh được rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin
qua việc bày tỏ quan điểm, bảo vệ ý kiến của mình.
*Lưu ý
Việc kiểm tra bằng các tình huống có thể mất nhiều thời gian. Trong khi
thời gian dành cho việc kiểm tra đầu giờ không nhiều vì thế giáo viên nên cân
nhắc lựa chọn. Nếu bài học mới dài thì không nên áp dụng hình thức kiểm tra
này.
Lưu ý cách đặt câu hỏi sau mỗi tình huống. Mục đích là kiểm tra bài cũ chứ
không phải ra đề tự luận nên giáo viên chỉ nên dùng câu hỏi để học sinh có thể
dùng kiến thức của bài cũ và trả lời ngắn gọn. (Tôi đã trình bày ở phần ví dụ)
như; Em dùng kiến thức nào trong bài để giải đáp thắc mắc của bạn? Câu
chuyện trên minh chứng cho vai trò nào của thực tiễn đối với nhận thức? Tâm
trạng của Nguyễn Tất Thành có phải là hạnh phúc không? Hay theo em như thế
có phải là hợp tác không?...
Hình thức kiểm tra này rất phù hợp để áp dụng cho các bài trong phần 2Công dân với đạo đức. Và giáo viên dùng giáo án điện tử sẽ thuận tiện hơn.
2.3 Kiểm tra bài cũ qua các bài tập trắc nghiệm
*Chuẩn bị và thực hiện
Giáo viên chuẩn bị sẵn một số câu hỏi trắc nghiệm. Nếu dùng giáo án điện
tử thì chiếu câu hỏi lên màn hình. Nếu không có máy chiếu thì in câu hỏi lên
giấy.
Hình thức thực hiện là thi giữa các đội. GV gọi 4 học sinh. Chia làm 2 đội.
GV đọc câu hỏi. Đội nào giơ tay trước được quyền trả lời, đúng được tính điểm,
nếu sai quyền trả lời sẽ chuyển sang cho đội kia.
Giáo viên cùng các bạn còn lại trong lớp kiểm tra đáp án sau khi học sinh
trả lời xong. Căn cứ vào kết quả giáo viên cho điểm. Chỉ cho điểm đội thắng
cuộc.
*Ví dụ
VD1- Để kiểm tra bài 1- Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng, giáo viên cho bài tập trắc nghiệm sau:
(Đánh dấu x vào ô đúng sai)
Phương án lựa chọn
Đúng Sai
1 Triết học là hệ thống quan điểm chung nhất về thế giới và
vị trí của con người trong thế giới đó
2 Triết học cũng như các khoa học khác đều có vai trò thế
giới quan, phương pháp luận
3 Chỉ triết học mới có vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung
9
cho mọi hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người
4 Quan niệm của con người về thế giới được gọi là thế giới quan
5 Có hai vấn đề cơ bản của triết học
6 Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt
7 Phương pháp luận là tên gọi cụ thể của phương pháp
8 Phương pháp luận là khoa học về phương pháp
9 Phương pháp luận biện chứng và phương pháp luận siêu
hình là hai phương pháp cơ bản đối lập nhau
VD2- Kiểm tra bài 7 (Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức)
GV có thể dùng các câu hỏi sau:
(Học sinh chọn đáp án đúng)
1. Chủ nghĩa DVBC cho rằng quá trình nhận thức diễn ra qua mấy giai
đoạn:
A.Hai giai đoạn
B.Ba giai đoạn
C.Bốn giai đoạn
C.Năm giai đoạn
2.Nhận thức cảm tính được tạo nên do sự tiếp xúc
A.Gián tiếp với sự vật
B.Trực tiếp với sự vật
C.Gần gũi với sự vật
D.Với sự vật
3.Nhận thức cảm tính đem lại cho con người những hiểu biết về các đặc điểm
A.Bên trong của sự vật
B. Cơ bản của sự vật
C.Không cơ bản của sự vật
D.Bên ngoài của sự vật
4.Nhận thức cảm tính giúp con người nhận thức sự vật, hiện tượng một cách
A.Cụ thể, sinh động
B.Khái quát và trừu tượng
C.Chủ quan, máy móc
D.Cụ thể và máy móc
5.Nhận thức lí tính là giai đoạn nhận thức gắn liền với
A.Bản chất bên trong sự vật
B.Bản chất sự vật hiện tượng
C.Nhận thức cảm tính
D.Đặc trưng của sự vật
6.Đặc trưng của giai đoạn nhận thức lí tính là trong đó diễn ra
A.Sự phân tích, so sánh
B.sự tổng hợp, khái quát
C.Hoạt động của các giác quan
D.Các thao tác tư duy
7.Nhận thức lí tính mang đến cho con người những hiểu biết về các đặc điểm
A.Bên trong của sự vật, hiện tượng
B.Cơ bản của sự vật hiện tượng
C.Bên ngoài sự vật hiện tượng
D.Tiêu biểu của sự vật hiện tượng
8.Thực tiễn là những hoạt động nhằm
A.Cải tạo tự nhiên
B.Cải tạo đời sống xã hội
C.Tạo ra của cải vật chất
D.Cải tạo tự nhiên và xã hội
9.Giá trị của các tri thức khoa học chỉ được xác định khi nó được
A.Đưa vào sách vở
B.Mọi người công nhận
C.Nhiều người quan tâm
C.Vận dụng vào thực tiễn
10.Để hoạt động học tập, lao động đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải luôn
A.Gắn lí thuyết với thực hành
B.Gắn học tập với nghiên cứu
C.Đọc thật nhều sách vở
D.Phát huy kinh nghiệm của bản thân
(H3- Hai đội thi trả lời câu hỏi trắc nghiệm)
10
*Ưu điểm
Cách kiểm tra này nhanh gọn, học sinh dễ trả lời, dễ ghi điểm
Một lúc giáo viên có thể kiểm tra được nhiều học sinh
Việc thi đua giữa các đội sẽ làm học sinh hứng thú, kiểm tra bài cũ không
còn là nỗi lo sợ của các em mỗi khi thấy cô vào lớp. Đồng thời những giây phút
thi đua vui vẻ đầu giờ sẽ tạo ra không khí thoải mái cho việc tiếp nhận bài mới
hiệu quả hơn.
Vì phải cùng nhau tìm ra phương án, rồi phối hợp để giành được quyền trả
lời một cách nhanh nhất sẽ giúp học sinh học được cách hợp tác trong học tập,
khả năng làm việc nhóm được trau dồi.
*Lưu ý
Việc thi đua giữa các đội khiến học sinh có thể gây ồn ào, giáo viên cần
kiểm soát tránh ảnh hưởng tới lớp bên cạnh.
Kiểm tra bằng hình thức này đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị chu
đáo,sẽ mất nhiều thời gian để soạn câu hỏi.
Khi kiểm tra, nếu cần thì nhờ thêm một học sinh quan sát để tránh trường
hợp không công bằng trong việc giơ tay giành quyền trả lời. Hình thức kiểm tra
này phù hợp hơn với sử dụng máy chiếu khi dạy học.
2.4 Kiểm tra bài cũ qua các bài thuyết trình ngắn
*Chuẩn bị và thực hiện
Giáo viên giao những chủ đề cho học sinh chuẩn bị sẵn. Học sinh chuẩn bị
bài ở nhà, khuyến khích các em dùng hình ảnh minh họa. Khi kiểm tra, học
sinh đứng trước lớp trình bày vấn đề mình đã chuẩn bị. Giáo viên và các bạn
khác lắng nghe. Sau khi học sinh thuyết trình xong, giáo viên có thể hỏi một đến
2 câu hỏi, kiểm tra mức độ hiểu biết của em đó về vấn đề mình vừa thuyết trình,
rồi nhận xét và cho điểm.
*Ví dụ
VD1:
Sau khi học xong bài 5- Cách thức vận động phát triển của sự vật hiện
tượng, tôi cho chủ đề; Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Yêu cầu học sinh vận
dụng kiến thức đã học để chuẩn bị bài thuyết trình. Khi mới nghe yêu cầu, học
sinh thấy khó nhưng sau khi được hướng dẫn các em vui vẻ thực hiện và buổi
học sau, trong mấy phút kiểm tra đầu giờ tôi đã được nghe những bài thuyết
trình khá tốt. Các em biết kết hợp giữa thuyết trình bằng lời với dùng hình ảnh
minh họa để làm nổi bật chủ đề. Chủ đề cô đưa ra gắn với các vấn đề thực tiễn
vì thế khi chuẩn bị bài thuyết trình học sinh sẽ thấy triết học không trừu tượng
khó khăn như vẫn nghĩ. Nó là những gì rất gần với cuộc sống, và ở ngay bên
chúng ta. Ví dụ như: Mọi sự thay đổi về chất đều bắt đầu từ quá trình tích lũy
dần dần về lượng. Mọi thành quả lớn đều bắt nguồn từ những việc làm bình
thường. Để đạt được mục tiêu cần phải có sự kiên trì nỗ lực. Và để có ngày mai
thì phải bắt đầu từ ngày hôm nay…
VD2:
Bài 10- Quan niệm về đạo đức.
11
GV có thể cho câu nói của Bác Hồ: “Có tài mà không có đức thì là người
vô dụng.
Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. HS hãy thuyết trình về
vai trò của đạo đức.
VD3:
Bài 11- Một số phạm trù đạo đức cơ bản
GV yêu cầu học sinh thuyết trình về ý nghĩa của lương tâm, danh dự, hoặc
nhân phẩm trong đời sống hàng ngày. Hoặc có thể yêu cầu học sinh thuyết trình
về chủ đề hạnh phúc…
Tương tự như thế với các bài khác.
*Ưu điểm
Qua việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, giáo viên đánh giá được thái độ
học tập của các em với môn học.
Học sinh được rèn luyện, kĩ năng thuyết trình trước đám đông. Từ đó giúp
các em giao tiếp tốt hơn và tự tin hơn vào bản thân.
Học sinh cũng được phát huy tính chủ động, sáng tạo, được bày tỏ quan
điểm thái độ trong bài thuyết trình của mình.
Giáo viên biết được thái độ, cách nhìn nhận cuộc sống, cũng như kiến thức
xã hội của các em để từ đó kịp thời uốn nắn nếu các em có quan điểm cực đoan,
lệch lac. Đồng thời giáo viên cũng qua đó điều chỉnh cách dạy cho phù hợp.
*Lưu ý
Cách kiểm tra này phù hợp để áp dụng vào phần Công dân với đạo đức
Nên áp dụng tùy từng đối tượng học sinh, vì nó có thể khó với những học
sinh yếu kém, hay tính tình quá nhút nhát. Với hình thức kiểm tra này, GV nên
lấy tinh thần xung phong, và khích lệ động viên để các em tự tin thuyết trình
trước lớp.
Muốn có những bài thuyết trình hay, GV cần hướng dẫn các em làm gì để
chuẩn bị một bài thuyết trình, cách thuyết trình thế nào cho lôi cuốn người nghe.
Kiểm tra bằng thuyết trình có thể mất nhiều thời gian, nên giáo viên chỉ
kiểm tra tối đa 2 học sinh, mỗi học sinh khoảng 2 đến 3 phút.
2.5 Kiểm tra bài cũ bằng vẽ sơ đồ tư duy
*Chuẩn bị và thực hiện
Cách 1- GV giao bài về nhà trước, học sinh có thể vẽ lên giấy a4, hoặc tờ
tôki đến giờ sau, cô lấy tinh thần xung phong. Học sinh lên bảng, cầm hoặc dán
sơ đồ của mình lên và nhắc lại nội dung bài cũ, giáo viên có thể hỏi thêm một
đến 2 câu hỏi xung quanh nội dung đó. Giáo viên chấm điểm dựa trên tiêu chí sơ
đồ đủ nội dung, trình bày khoa học, vẽ đẹp, (cho điểm sáng tạo nếu có) cùng với
phần giới thiệu và trả lời lưu loát.
Cách 2- Cho học sinh vẽ ngay tại lớp. GV gọi 4 em học sinh, chia 2 đội,
(thường lấy 2 em cùng bàn), phát giấy a4, hoặc tô ki cùng với bút màu cho 2 đội.
Trong 5 phút hai đội phải vẽ sơ đồ tư duy thể hiện nội dung bài cũ. HS vẽ xong,
dán sản phẩm lên bảng, cô cùng các bạn khác nhận xét và cho điểm. Chỉ chấm
12
điểm cho đội nào thắng cuộc. Hoặc các em có thể vẽ bằng phấn lên bảng rồi
thuyết minh và trả lời câu hỏi của cô.
(H5- Vẽ sơ đồ tư duy và trả lời câu hỏi)
*Ưu điểm
Hình thức kiểm tra này tôi đã thử nghiệm ở nhiều lớp khác nhau và thấy
học sinh rất hứng thú. Các em được thoải mái thể hiện sự sáng tạo cũng như khả
năng hội họa của mình. Thông qua việc hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ tư
duy các em sẽ được rèn luyện thói quen học tập, tư duy khoa học. Nhìn vào sơ
đồ, giáo viên sẽ đánh giá được mức độ mạch lạc trong tư duy, tính khoa học
trong cách trình bày, và cả sự sáng tạo của học sinh. Cả lớp cũng hình dung
được dễ nhất nội dung bài đã học.
*Lưu ý
Nếu không giao bài về nhà mà thực hiện vẽ tại lớp thì giáo viên cần khống
chế thời gian để không ảnh hưởng đến việc dạy bài mới.
Muốn có sản phẩm đẹp thường thì HS phải chuẩn bị trước, hôm sau lên
bảng chỉ cần thuyết minh và trả lời các câu hỏi của cô giáo.
Các sản phẩm đủ nội dung, hình thức đẹp có thể được lưu giữ lại để làm tư
liệu cho việc dạy học.
3.THÔNG TIN CẦN BẢO MẬT (Không có)
4.CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Môn giáo dục công dân là môn học không phục vụ trực tiếp cho việc thi cử
của học sinh, vì vậy ít được sự quan tâm của các nhà trường, các em học sinh
cũng như các bậc phụ huynh. Trong khi đó đây lại là môn học có khả năng đáp
ứng rất tốt mục tiêu đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất,
năng lực người học. Vì vậy kiến nghị chung của tôi là các cấp quản lí giáo dục
của tỉnh nhà quan tâm hơn đến việc phát triển bộ môn. Ví dụ: Bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên bằng các cuộc thi giáo viên giỏi, các đợt tập huấn chuyên môn, có
những cơ chế khuyến khích giáo viên GDCD tự học nâng cao trình độ, nếu có
thể thì 3 năm một lần tổ chức thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn GDCD…
Đối với việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi, tôi thấy rất cần có sự
thông hiểu và tạo điều kiện của nhà trường .
Thứ nhất: việc kiểm tra có thể gây ồn ào sẽ bị nhà trường nhắc nhở.
Thứ hai: Không phải trường nào cũng trang bị máy chiếu cố định ở tất cả
các phòng học vì vậy việc áp dụng hình thức kiểm tra bằng bài trắc nghiệm, hay
bài tập tình huống sẽ khó khăn.
Thứ ba: Nhà trường cần cho phép giáo viên linh hoạt trong việc thực hiện
phân phối chương trình, cũng như sắp xếp trình tự nội dung bài học. Điều này
giúp giáo viên thuận tiện hơn trong việc áp dụng các hình thức tổ chức dạy học
và kiểm tra đánh giá theo yêu cầu đổi mới.
Về phía giáo viên, muốn làm tốt giảng dạy nói chung, muốn đổi mới việc
kiểm tra bài cũ nói riêng cần phải có thái độ làm việc nghiêm túc, có sự tâm
huyết với nghề nghiệp của mình, có trách nhiệm với học sinh và với toàn xã hội.
Những yếu tố đó sẽ giúp cho giáo viên không chỉ thực hiện được mục tiêu giáo
13
dục của môn học mà còn khiến môn GDCD trở thành môn học yêu thích đối với
học sinh.
5.ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Tóm lại, sau một thời gian thực hiện sáng kiến trên tôi thấy:
-Việc kiểm tra đánh giá như trên đã thực hiện được mục tiêu: không lấy khả
năng tái hiện kiến thức làm trung tâm, mà chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo
tri thức trong những tình huống khác nhau. Từ đó giúp học sinh hình thành các
năng lực cần thiết như: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, năng lực hợp tác, giao tiếp…
-Khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp kiểm tra truyền thống,
giúp cho những phút kiểm tra đầu giờ không còn là áp lực, là căng thẳng. Học
sinh thấy việc kiểm tra nhẹ nhàng hơn, hấp dẫn hơn từ đó có hứng thú với môn
học.
-Linh hoạt trong cách kiểm tra bài cũ cũng tạo điều kiện cho học sinh khai
thác vận dụng các kiến thức, kĩ năng liên môn. Đồng thời học sinh có thể phát
huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của mình.
-Học sinh được rèn sự tự tin, khả năng giao tiếp, khả năng thuyết trình, làm
việc nhóm… Các em hòa nhập tốt hơn với thầy cô, bạn bè. Mối liên hệ giữa giáo
viên học sinh cởi mở hơn.
-Những nhận xét trực tiếp của giáo viên sau mỗi lần kiểm tra có thể giúp
các em nhận ra những tiềm năng của mình, gợi ý cho các em hướng phấn đấu,
giúp các em tự tin để phấn đấu.
-Không khí kiểm tra vui vẻ đầu giờ giúp cho cả giáo viên và học sinh có
cảm hứng để dạy và tiếp thu bài mới một cách tốt nhất.
-Thông qua kiểm tra học sinh, giáo viên tự rút ra được những bài học cho
mình để kịp thời điều chỉnh các hoạt động giáo dục cho phù hợp…
Cụ thể sau năm học 2013-2014, đầu năm học 2014-2015 tôi tiến hành
khảo sát lại ở 5 lớp đã áp dụng sáng kiến. Kết quả thu được như sau:
(Khảo sát mức độ yêu thích đối với môn GDCD)
Lớp/sỹ số
Thích học
Bình thường
Không thích
Số lượng %
Số lượng %
Số lượng %
10c1- 43 hs
25
58%
11
26%
7
16%
10c2- 46 hs
26
57%
14
30%
6
13%
10c3- 39 hs
20
51%
12
31%
7
18%
10c4- 40hs
19
48%
16
40%
5
12%
10c6- 40hs
21
53%
15
37%
4
10%
Tổng số 208 hs
111
53%
69
33%
29
14%
(So sánh hai bảng số liệu sẽ thấy; Số học sinh thích học môn GDCD tăng
lên từ 24% lên 53%. Số học sinh không thích học đã giảm nhiều từ 69% xuống
còn 14%. Đó là thành công bước đầu của tôi trong việc thay đổi phương pháp
dạy học nói chung và thay đổi phương pháp kiểm tra bài cũ nói riêng.
(Về việc kiểm tra bài cũ)
14
Hầu hết các em đều nhận xét việc kiểm tra bài cũ bằng nhiều cách khác
nhau khiến các em thấy nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Nếu như trước đó 94 em/169
em cho rằng việc kiểm tra bài cũ là nặng nề, căng thẳng thì sau khi áp dụng
phương pháp kiểm tra mới chỉ còn 27/169 em. Các em đều thấy, kiểm tra bài cũ
theo cách mới hiệu quả cao hơn, vì các em được tiếp nhận kiến thức bài học
bằng nhiều cách khác nhau, và được chủ động hơn trong việc tìm hiểu kiến
thức… Những nhận xét của các em khiến tôi có thêm động lực để tiếp tục áp
dụng, phát huy sáng kiến của mình.
Tóm lại: Mỗi cá nhân, để thành công trong học tập, thành đạt trong cuộc
sống, cần phải sở hữu nhiều năng lực, phẩm chất khác nhau. Ngành giáo dục
đang tiến hành nhiều đổi mới để thực hiên được mục tiêu đó. Do vậy, người
giáo viên không chỉ thay đổi phương pháp giảng dạy mà còn phải sử dụng nhiều
loại hình, công cụ khác nhau nhằm kiểm tra đánh giá được các năng lực khác
nhau của người học. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá phải được thể hiện thường
xuyên qua các hình thức: Kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành.
Riêng với kiểm tra miệng, sử dụng linh hoạt các hình thức như trên đã giúp tôi
thu được những kết quả đáng kể trong việc bồi dưỡng những phẩm chất, năng
lực cần thiết cho các em. Góp phần tích cực vào việc đổi mới giáo dục theo định
hướng phát triển năng lực.
Phần III : Kết Luận
Kinh nghiệm là những điều mình biết do trông thấy, nghe thấy hoặc đã từng
làm, từng trải nghiệm. Với tôi, những gì đã trình bày trong sáng kiến là những gì
tôi đã thực hiện áp dụng trong mấy năm qua và thu được kết quả bước đầu tương
đối tốt. Tôi mạnh dạn viết lại với mong muốn chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp.
Vẫn biết mọi phương pháp đều không thể hoàn hảo, vì thế tôi rất mong được sự
góp ý của các bạn để bổ sung, hoàn thiện thêm sáng kiến của mình.
Xin trân trọng cảm ơn !
XÁC NHẬN
CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Nguyễn Văn Bát
Nguyễn Thị Lan
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục ( Điều 28)
2. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
3.Nghị quyết hội nghị TƯ 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện GDDT
4. QĐ 711 ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ
16