Đề án môn học
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là hiện tượng kinh tế phổ biến ở hầu hết các nước trên thế
giới ngày nay, nó tồn tại ở cả những nước phát triển lẫn các nước đang phát
triển, cả trong thời kì kinh tế khủng hoảng, suy thoái lẫn thời kì hưng thịnh.
Lạm phát ở một mức độ nhất định có thể là một biện pháp phát triển kinh
tế, làm tăng nhu cầu, thúc đẩy các hướng đầu tư có lợi. Song khi lạm phát
vượt qua một giới hạn nhất định thì nó trở thành căn bệnh gây nhiều tác hại
cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, tốc độ lạm phát đang gia tăng ở mức 2 con số là
12.63% năm 2007 và 22.3% năm 2008, tuy chưa phải là một mức cao, đáng
báo động nhưng so với mặt bằng chung của nền kinh tế nhỏ, quy mô chưa
cao thì đây cũng là một điều cần phải nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn đề tài “Lạm phát trong những năm
gần đây tại Việt Nam”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề án là vấn đề lạm phát. Phạm vi nghiên
cứu là ở Việt Nam trong giai đoạn năm 2007 – 2008.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp logic học và phương pháp
thời gian trong đó các công cụ phân tích thống kê và phân tích định lượng
được sử dụng để giải quyết vấn đề.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống lý thuyết và thực tiễn về vấn đề lạm phát với các
giải pháp phù hợp cho việc kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn
2007 – 2008.
5. Kết cấu của đề tài
Đề án môn học
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và hệ
thống bảng biểu thì nội dung đề án bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lạm phát.
Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2008.
Chương 3: Những giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát.
Đề án môn học
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Khái niệm về lạm phát
1.1.1 Khái niệm chung
Lạm phát là mối quan tâm của tất cả mọi người từ Chính phủ, các tổ
chức kinh tế cho tới dân cư. Việc kiểm soát lạm phát là vấn đề quan trọng
trong chính sách tiền tệ quốc gia nhằm duy trì môi trường kinh tế ổn định,
tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế bền vững.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự tăng lên
đồng loạt của giá cả và sự mất giá của tiền tệ. Sau đây là 3 quan điểm khác
nhau về lạm phát do xuất phát từ các cách nhìn nhận khác nhau về nguyên
nhân và hậu quả của lạm phát gắn liền với những vấn đề chung của sự phát
triển và kém phát triển của các nền kinh tế, cũng như các yếu tố về thể chế,
chính sách và xã hội.
a.Theo quan điểm của trường phái tiền tệ thì lạm phát là một hiện
tượng thuần túy tiền tệ, giá cả tăng lên là do tăng cung tiền quá mức cầu
của nền kinh tế. Với quan điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có lượng tiền
bơm vào lưu thông lớn hơn khối lương tiền cần thiết cho lưu thông của thị
trường. Định nghĩa này chỉ đưa ra cách giải thích về nguyên nhân lạm phát
chứ chưa giải thích được hiện tượng lạm phát chi phí đẩy (xuất hiện trên
thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt Nam năm 2005) do loại lạm phát này
vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Nếu chỉ coi lạm phát khi
sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi
thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
b.Một quan điểm phổ biến khác cho rằng lạm phát là hiện tượng tăng
lên của mức giá chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời
gian. Tuy nhiên, không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại.
Nếu giá cả chỉ tăng tạm thời, trong ngắn hạn, sau đó lại giảm xuống thì đó
Đề án môn học
là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng
tích cực hơn là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã
coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hóa nguy cơ lạm phát.
c.Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là
Milton Friedman đã khẳng định lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh
và liên tục trong thời gian dài. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức
giá chung mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của
lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với
tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và liên tục từ thời gian này đến
thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì
vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi
bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của
lạm phát. Đó có thể là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc chỉ tạm
thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì cao trong thời
gian dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao. Định nghĩa này
được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ. Định nghĩa này
cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều hành chính sách tiền tệ vì NHTW
chỉ có thể điều chỉnh giá cả trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh trong
ngắn hạn. Những cố gắng điều chỉnh giá cả trong ngắn hạn thông qua các
công cụ của chính sách tiền tệ sẽ chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức
tạp.
Nói tóm lại, lạm phát được hiểu đơn giản là mức giá cả chung của nền
kinh tế tăng lên. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường
hay là giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác
nhau thì lạm phát là sự phá giá của một loại tiền tệ so với một loại tiền tệ
khác.
1.1.2 Phương pháp đo lường lạm phát
Vì biểu hiện của lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung nên để đo
lường mức độ lạm phát, người ta căn cứ vào tốc độ tăng của mức giá
Đề án môn học
chung. Tốc độ tăng của mức giá chung còn được gọi là tỷ lệ lạm phát và
được xác định theo các phương pháp sau:
1.1.2.1 Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giá
• Chỉ số giá tiêu dùng (CPI - Consumer Price Index )
CPI phản ánh mức giá cả bình quân của nhóm hàng hóa và dịch vụ
cho nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình. Để xác định chỉ số giá tiêu
dùng, người ta chọn ra một giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu
tiêu dùng của các hộ gia đình trong một giai đoạn nhất định, đồng thời xác
định mức độ tiêu dùng của cá hộ gia đình đối với từng hàng hóa và dịch vụ
trong giỏ. Trên cơ sở xác định chỉ số giá của từng hàng hóa và dịch vụ
trong giỏ, người ta tính được chỉ số giá tiêu dùng theo công thức:
I
p
= ∑ i
pj
* d
j
với j = 1 đến n
Trong đó: I
p
là chỉ số giá của cả giỏ hay chỉ số giá tiêu dùng
I
pj
là chỉ số giá của hàng hóa hay dịch vụ thứ j
d
j
là tỷ trọng mức tiêu dùng hàng hóa hay dịch vụ thứ j
( ∑ d
j
= 1 với j = 1 đến n)
Hầu hết các quốc gia đều sử dụng chỉ số CPI để tính tỷ lệ lạm phát
theo công thức sau:
G
p
= ( I
P
/
I
P-1
) * 100%
Trong đó: G
p
là tỷ lệ lạm phát (%).
I
p
là chỉ số giá cả của thời kì hiện tại
I
p-1
là chỉ số giá cả thời kì trước đó.
• Chỉ số giá cả sản xuất ( PPI – Producer Price Index )
PPI là chỉ số giá bán buôn, nó được xây dựng để tính giá cả trong lần
bán đầu tiên, phản ánh giá cả đầu vào, mà thực chất là chi phí sản xuất bình
quân của xã hội. Sự biến động của chi phí sản xuất tất yếu sẽ tác động đến
xu hướng biến động của mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trên thị
trường.
Đề án môn học
Chỉ số PPI được xác định theo phương pháp gần tương tự chỉ số CPI
nhưng do việc thu thập số liệu và xác định tỷ trọng thu phức tạp nên không
phải quốc gia nào cũng tính và công bố chỉ số này.
1.1.2.2 Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giảm lạm phát GNP
( D(
GNP
)
Chỉ số giảm phát GNP là chỉ số phản ánh mức giá bình quân của tất
cả các hàng hóa và dịch vụ tạo nên tổng sản phẩm quốc dân, nó được xác
định theo công thức:
D
GNP
= GNP danh nghĩa / GNP thực tế * 100%
Trong đó:
GNP danh nghĩa đo lường sản lượng theo giá năm hiện hành
GNP thực tế đo lường sản lượng năm hiện tại theo giá năm được chọn
làm năm gốc.
1.1.2.3 Tỉ lệ lạm phát cơ bản
Lạm phát cơ bản thể hiện xu hướng tăng giá hàng hóa dịch vụ tiêu
dùng trong dài hạn và là một thước đo lạm phát. Nó minh họa cho sự tăng
giá sau khi đã loại bỏ những dao động mang tính chất mùa vụ, cũng như
những dao động bắt nguồn từ những cú sốc cung tạm thời. So với chỉ số
CPI, chỉ số lạm phát cơ bản đặc trưng bởi sự hoạt động trơn tru hơn, biểu
hiện xu hướng dài hạn của lạm phát và có thể chịu tác động trực tiếp bởi
chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, đây không phải là chỉ số thay thế CPI. Lạm
phát cơ bản đóng vai trò như một chỉ tiêu bổ sung hữu ích cho chỉ số CPI,
cung cấp xu hướng dài hạn của giá tiêu dùng và được sử dụng như một chỉ
số lạm phát tương lai. Do đó, nó trở thành công cụ phân tích hữu ích khi
nghiên cứu hiện tượng lạm phát. Mức lạm phát cơ bản cũng hỗ trợ việc xác
định phạm vi tác động thực sự của chính sách tiền tệ lên giá tiêu dùng.
Như vậy, tỷ lệ lạm phát cơ bản được hiểu là tỷ lệ lạm phát đã được
điều chỉnh loại bỏ những biến động ngắn hạn về giá cả. Nó giúp các nhà
hoạch định chính sách xác định liệu những diễn biến giá tiêu dùng hiện tại
Đề án môn học
có phải là những rối loạn tạm thời không? Đây là một thông tin quan trọng
để hoạch định chính sách tiền tệ.
1.1.3 Phân loại lạm phát
Tùy theo tiêu thức dùng để phân loại lạm phát mà ta có các loại lạm
phát khác nhau. Thông thường người ta phân loại lạm phát trên cơ sở định
lượng và định tính.
1.1.3.1 Về mặt định lượng, lạm phát được chia làm 3 loại
• Lạm phát vừa phải (normal inflation)
Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi giá cả tăng chậm, thường xấp
xỉ bằng mức tăng số tiền lương hoặc cao hơn chút ít và có thể dự đoán
trước được. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức một con số,
có tỷ lệ lạm phát dưới 10% (0 – 9 %) một năm, thường được coi là lạm
phát vừa phải. Trong điều kiện lạm phát vừa phải và ổn định thì giá cả
tương đối không khác mức bình thường nhiều, do đó đồng tiền giữ được
phần lớn giá trị của nó trong một thời gian tương đối dài, thị trường không
có những cơn sốt hay đảo lộn. Đó là mức lạm phát mà bình thường mà nền
kinh tế phải trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
• Lạm phát phi mã (high inflation)
Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh, ở mức hai,
ba con số như 20%, 100% và 200%. Một khi lạm phát đã trở nên vững chắc
sẽ gây ra những biến động lớn đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này
giá trị của đồng nội tệ bị mất giá nghiêm trọng vì vậy phần lớn các hợp
đồng kinh tế chỉ quy đổi giá trị dựa trên các đồng ngoại tệ mạnh, dân cư
luôn có tâm trạng tránh giữ tiền nhiều hơn mức tối thiểu cần thiết, thị
trường tài chính bị phá vỡ, dân cư tích trữ nhiều hàng hoá gây ra tình trạng
khan hiếm giả tạo.
• Siêu lạm phát (hyper inflation)
Siêu lạm phát xảy ra khi giá cả tăng lên ở mức hết sức cao, tỷ lệ lạm
phát đột biến tăng lên tới con số hàng ngàn, hàng chục ngàn thậm chí tới