Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận môn triết học phép biện chứng hegel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.05 KB, 21 trang )

TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, Giáo trình Triết học phần 1 –
Đại cương về lịch sử triết học (Tài liệu dùng cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành triết học), lưu hành
nội bộ, 2011, 176tr – 209tr.
• Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dùng
trong các trường Đại học và Cao đẳng), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2006.
• Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học 1 (dùng cho nghiên
cứu sinh và học viên cao học không chuyên ngành triết học),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
• Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, Giáo trình đại cương lịch sử
Triết học, NXB Tổng hợp TP. HCM, 2003.
• Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô - Viện Triết học, Lịch sử Phép
biện chứng - tập III - Phép biện chứng cổ điển Đức, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, 339tr - 527tr.
• Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lịch sử Triết học (dùng cho các trường
đại học và cao đẳng), NXB Giáo dục, 2001, 255tr - 295tr.


• MỞ ĐẦU

Phép biện chứng đóng vai trò là phương pháp luận phổ biến
của nhận thức và thực tiễn. Nó trở nên đặc biệt quan trọng do tính
chất biện chứng trong sự phát triển của xã hội và của sự nhận thức
khoa học hiện đại ngày càng bộc lộ rõ nét hơn. Những chuyển biến
mang tính lịch sử toàn cầu và vô cùng đa dạng đang diễn ra hết
sức mạnh mẽ trong đời sống xã hội trên khắp hành tinh chúng ta
hiện nay. Bên cạnh đó trong sự phát triển của mình khoa học tự
nhiên hiện đại cũng đang vấp phải không ít các vấn đề biện chứng
của chính sự phát triển. Giờ đây sự tiến hoá của giới tự nhiên đang


được nghiên cứu ở mọi cấp độ cấu trúc. Quan điểm biện chứng về
sự phát triển đã xâm nhập vào nhận thức khoa học tự nhiên cả ở
mức độ vĩ mô lẫn mức độ vi mô. Nguyên tắc phát triển thực sự đã
trở thành nguyên tắc phổ biến trong nghiên cứu khoa học. Chính
sự biến đổi, sự cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội một cách hợp
lý và trên cơ sở nhân đạo là chiếc chìa khoá để giải quyết các vấn
đề cấp bách đang được đặt ra trước nhân loại.


Rõ ràng là việc vai trò của phép biện chứng tăng lên một cách
đặc biệt không phụ thuộc vào bản thân triết học Hêghen. Tuy nhiên
chính học thuyết của Hêghen là thứ triết học đã biến phép biện
chứng thành trung tâm, thành hạt nhân đích thực của toàn bộ hệ
vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hêghen lý giải là phương
pháp đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư
duy biện chứng được nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn
cứ vững chắc, là phương pháp chưa từng có trong lịch sử triết học
trước Mác. Trong triết học Hêghen, phép biện chứng biểu hiện ra là
lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất của lôgic học, của tư duy
lôgic. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần
đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là kết
quả của sự phát triển hợp quy luật.

• NỘI DUNG

• Sơ lược về lịch sử phát triển của phép biện chứng
1.1. Phép biện chứng thời cổ đại
Phép biện chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây
thơ và mang nặng tính trực quan được hình thành trên cơ sở quan
sát tự nhiên, xã hội hoặc thông qua kinh nghiệm, trực giác của bản

thân. Ba trung tâm triết học lớn nhất thời bấy giờ là: Triết học Trung
Hoa cổ đại, triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại.
• Triết học Trung Hoa cổ đại


Đại diện tiêu biểu trong triết học Trung Hoa cổ đại là trường
phái Âm dương gia với học thuyết Âm dương được xây dựng và
phát triển trên bộ sách Kinh Dịch. Học thuyết này mang tư tưởng
biện chứng sâu sắc, nhìn nhận mọi sự tồn tại không phải trong tính
đồng nhất tuyệt đối mà cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập
không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thông nhất
của các mặt đối lập (âm và dương). Học thuyết này cũng cho rằng
chu trình vận động và biến dịch của vạn vật trong vũ trụ tuân theo
quy luật ngũ hành – ngũ hành sinh hóa và chế ước lẫn nhau. Với lý
luận Âm dương và lý luận Ngũ hành, Âm dương gia đã đứng trên
quan điểm duy vật chất, biện chứng sơ khai của người Trung Quốc
để lý giải cội nguồn và quá trình biến hóa xảy ra trong tự nhiên,
trong đời sống xã hội và con người.
• Triết học Ấn Độ cổ đại
Hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại là sự đan xen hài hòa giữa triết
học với tôn giáo và giữa các trường phái khác nhau. Trong đó học
triết học thể hiện trong Phật giáo là học thuyết mang tính duy vật và
biện chứng sâu sắc, tiêu biểu của nền triết học Ấn Độ cổ đại. Tư
tưởng biện chứng chất phác của Phật giáo được thể hiện qua
thuyết duyên khởi với cặp phạm trù vô ngã, vô thường. Duyên khởi
là nói tắt câu “ Chư pháp nhân duyên khởi” có nghĩa là tất cả mọi
sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên mà có. Phật giáo cho rằng
sự tương tác của hai mặt đối lập Nhân và Duyên chính là động lực
làm cho thế giới vận động chứ không phải là thế lực siêu nhiên
nào, thế giới là vòng nhân quả vô cùng vô tận.

• Triết học Hy Lạp cổ đại


Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thời kỳ chiếm hữu nô lệ
đã đưa Hy Lạp cổ đại trở thành một trong những nền văn minh lớn
nhất của nhân loại, Hy Lạp cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn về văn hóa, nghệ thuật, mà trước hết là các thành tự trong
khoa học tư nhiên làm cơ sở cho sự phát triển của triết học trong
thời kỳ này. Triết học phát triển rực rỡ, có sự phân chia và đối lập rõ
ràng giữa các trào lưu và trường phái, phép biện chứng chất phác
đã xuất hiện nhưng chưa được trình như một hệ thống lý luận chặt
chẽ.
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện
chứng trong thời kỳ này là Hêraclít, tư tưởng biện chứng của ông
được thể hiện qua quan niệm về sự vận động vĩnh cửa của vật
chất, nghĩa là không có sự vật hiện tượng nào của thế giới là đứng
im tuyệt đối mà trái lại, tất cả đều ở trong trạng thái biến đổi và
chuyển hóa, với câu nói nổi tiếng “Chúng ta không thể tắm hai lần
trên cùng một dòng sông”. Hêraclít nêu lên tư tưởng về sự tồn tại
phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó
thể hiện trong những phỏng đoán về vai trò của những mặt đối lập
trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên. về "sự trao đổi của những
mặt đối lập", về "sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập".
Theo Hêraclít thì sự vận động phát triển không ngừng của thế
giới do quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos
khách quan là trật tự khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ
trụ. Logos chủ quan là từ ngữ học thuyết của con người. Logos chủ
quan phải phù hợp với logos khách quan. Người nào càng tiếp cận
được logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý



luận nhận thức của Hêraclít mang tính biện chứng và duy vật sơ
khai nhưng rất đáng trân trọng.
Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có
được tư tưởng biện chứng sâu sắc như vậy. Chính những tư tưởng
biện chứng sơ khai của Hêraclít sau này đã được các nhà biện
chứng cổ điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập triết học Macxít
đánh giá cao. C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh gía một cách đúng đắn
giá trị triết học của Hêraclít và coi ông là đại biểu xuất sắc nhất của
phép biện chứng Hy Lạp cổ đại: "Quan niệm về thế giới một cách
nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của
các nhà Hy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng
quan niệm ấy là Hêraclít".
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng
chủ yếu mới dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài.
Phép biện chứng tự phát thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung
của thế giới trong sự tác động, liên hệ của các mặt đối lập, song
chưa đi sâu vào chi tiết của bức tranh. Vì vậy, nó không tránh khỏi
bị phủ định bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận đại.
• Phép biện chứng Tây Âu thời phục hưng và cận đại
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trưởng
thành của tư tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc
đáo. Phép biện chứng trong thời kỳ này phát triển trong sự thống trị
của tư duy siêu hình.
Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện
giáo điều gắn với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học
thời kỳ này đã khôi phục lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng


vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy

nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển như tư
tưởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập" của Gioocdanơ Brunô
(1548 -1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều
vận động, kể từ các hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vũ trụ vô
tận, cái này tiêu diệt cái kia ra đời.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là
Ph.Bêcơn (1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách
rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận
động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại.
Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại
vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi
đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính
cố hữu của vật chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn
vật chất của thế giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu
mổ xẻ phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên
cứu. Những phương pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem
xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời và bất biến. Từ khi
Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp trong khoa học tự nhiên áp
dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương
pháp thống trị trong triết học.
Phương pháp siêu hình đóng một vai trò tích cực nhất định
trong quá trình nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích
ứng với trình độ sưu tập, mô tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học
chuyển sang nghiên cứu các quá trình phát sinh, phát triển của sự


vật, hiện tượng thì nó bộc lộ rõ những hạn chế. Vì vậy nó không
tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển
Đức với đỉnh cao là phép biện chứng của Hêghen.

• Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế
kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Mặc dù triết học cổ điển Đức có một giai
đoạn lịch sử hình thành và phát triển tương đối ngắn nhưng nó đã
tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết nó
đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy
vật thế kỷ XVII-XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng
biện chứng đạt tới trình độ một hệ thống lý luận - điều mà phép
biện chứng thời cổ đại Hy Lạp đã chưa có thể đạt tới và chủ nghĩa
duy vật thế kỷ XVII –XVIII Tây Âu cũng không có khả năng tạo ra.
Không thể phủ nhận vai trò và ý nghĩa to lớn mà triết học cổ
điển Đức mang lại đối với sự hình thành và phát triển của lịch sử tư
tưởng triết học, nhưng thực tế triết học giai đoạn này vẫn mang
nhiều hạn chế. Giá trị của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật
như một bước tiến dài so với quan điểm triết học thời kỳ trước đó
nhưng vẫn bị bao phủ bởi màu sắc duy tâm và tính chất siêu hình.
Lênin đã từng đánh giá: Dù có sự thần bí hoá duy tâm, nhưng
phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép
biện chứng và logic học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết
học trước C. Mác thì triết học cổ điển Đức có trình độ khái quát hoá
và trừu tượng hoá cao với kết cấu hệ thống chặt chẽ, logic. Đây là
tiến bộ của nền triết học Đức so với các nền triết học khác. Nền


triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Kant, đạt đỉnh cao ở Hêghen sau
đó suy tàn ở triết học Phơiơbắc.
• Phép biện chứng của Hêghen – một thành tựu vĩ đại của triết
học cổ điển Đức
• Đôi nét về nhà triết học vĩ đại Hêghen
Hêghen (Georg Wilhelm Friedrich Hegel) sinh năm 1770, mất

năm 1831, nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của
triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên phép biện chứng duy
tâm. Triết học của Hêghen là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức
cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt
toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại.
Toàn bộ thực tại khách quan là biểu hiện của "Ý niệm tuyệt đối".
Thành quả lớn nhất của triết học Hêghen là phép biện chứng. Ở
Hêghen, phép biện chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hêghen vẫn
là "người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những
hình thái vận động chung của phép biện chứng" (C.Mác). Hêghen
có những đóng góp to lớn trong địa hạt lí luận về nhận thức, trong
cuộc đấu tranh chống "thuyết không thể biết". Hệ thống duy tâm,
bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết học Hêghen mâu thuẫn sâu
sắc với phép biện chứng có tính chất cách mạng của triết học này.
Quan điểm chính trị phản động của Hêghen, đặc biệt trong thời kì
hoạt động cuối đời của ông, phản ánh tình trạng mâu thuẫn của
giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với các thế
lực phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh
vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự


phát triển xã hội. Triết học Hêghen là một trong những nguồn gốc lí
luận trực tiếp của chủ nghĩa Mac.
• Điều kiện và tiền đề ra đời của triết học Hêghen
Nữa đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở
nhiều nước Tây Âu như Anh, Pháp, Hà Lan…đem lại một nền sản
xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Trong khi đó Đức vẫn là
quốc gia phong kiến lạc hậu. Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị
nhưng nước Đức thời kỳ này lại đạt được sự phát triển mạnh mẽ
về văn học, khoa học và nghệ thuật. Một mặt họ tiếp thu những di

sản tư tưởng văn hóa Đức truyền thống, mặt khác kế thừa tinh hoa
của của triết học Tây Âu trước đó. Thêm vào đó sự tiến bộ của
khoa học tự nhiên ngày càng chứng tỏ sự hạn chế của phương
pháp tư duy siêu hình trong tư tưởng Tây Âu suốt thế kỷ XVI-XVIII.
Như vậy, Triết học của Hêghen ra đời không ngoài những điều
kiện chung của xã hội Đức mà còn chịu ảnh hưởng và kế thừa
nhiều tư tưởng của các nhà triết học đương thời lúc bấy giờ. Đặc
biệt là tư tưởng biện chứng và duy tâm của các nhà triết học cổ
điển Đức như: Kant, Fichte và đặc biệt là Schelling.
• Phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Ý niêm tuyệt đối là điểm khởi đầu và là nền tảng của triết học
Hêghen. Nó là thực thể tinh thần sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn
thể nhân loại. Theo Hêghen, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới,
kể cả những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân
của Ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối được chia làm 3 bộ phận là
khoa học lôgic, triết học tự nhiên và triết học tinh thần, ứng với 3


giai đoạn phát triển của Ý niệm tuyệt đối là Ý niệm tuyệt đối trong
chính nó, Ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại khác nó và Ý niệm tuyệt
đối khắc phục sự tha hóa và quay trở lại với chính nó.
Phép biện chứng của Hêghen được thể hiện xuyên qua toàn
bộ hệ thống triết học của ông từ lôgic học, triết học tự nhiên đến
triết học tinh thần.
• Trong Khoa học Lôgic
Lôgic học trong hệ thống triết học Hêghen gồm ba học thuyết:
Trong Học thuyết về tồn tại, Hêghen vạch ra tính quy định lẫn
nhau giữa lượng và chất. Những thay đổi liên tục về lượng sẽ dẫn
đến những biến đổi gián đoạn về chất và ngược lại. Quá trình
chuyển từ tồn tại thuần túy sang sinh thành là sự thống nhất giữa

chất, lượng trong độ. Chất là tính quy định bên trong của sự vật.
Lượng là tính quy định bên ngoài của nó. Độ là sự thống nhất của
chất và lượng với nhau trong sự vật.
Trong học thuyết về bản chất, Hêghen bàn về bản chất - hiện
tượng - hiện thực, với ý nghĩa là trình bày về sự tự vận động phát
triển của các phạm trù. Ông vạch ra sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát
triển của sự vật. Khi nghiên cứu quá trình vận động, phát triển của
khái niệm, ông cho rằng trong bản thân khái niệm vốn có sẵn cái
khác biệt được sinh ra từ cái đồng nhất. Lúc đầu là khác biệt nhỏ,
do tích lũy dần dẫn đến khác biệt cơ bản, từ đây mâu thuẫn hình
thành và phát triển dẫn đến chuyển hóa.


Trong học thuyết về khái niệm, Hêghen bàn về sự tự vận động
phát triển của Ý niệm tuyệt đối thông qua các hình thức tồn tại chủ
quan của nó như khái niệm - phán đoán - suy luận, bàn về thực
tiễn, về chân lý, về sự thống nhất giữa khái niệm và thực tiễn. Ông
vạch ra con đường phát triển của khái niệm theo xu hướng phủ
định của phủ định, nghĩa là khái niệm phát triển theo đường xoắn
ốc. Hêghen cho rằng khái niệm không bất động mà nó phải trải qua
các giai đoạn khác nhau của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn
trực quan cảm tính với cảm giác, tri giác, biểu tượng, và giai đoạn
lý tính với khái niệm, phán đoán, suy lý.
Theo Hêghen, đồng nhất giữa tư duy và tồn tại cũng có nghĩa
là những quy luật của tư duy được lôgic học nghiên cứu, thực chất
cũng là những quy luật của tồn tại (của tự nhiên, của lịch sử). Vì
vậy lôgic học là bộ phận sinh động nhất của hệ thống triết học
Hêghen, bởi vì trong đó phép biện chứng của ông đã được thể hiện
một cách đầy đủ nhất.

Logic học là bộ môn khoa học nghiên cứu về tư duy. Trong thời
kỳ cổ đại đã có hình thức logic học của Aristote, đến thời cận đại
phát triển thành logic toán gắn liền với tên tuổi của Leibniz. Hegel
phê phán logic cũ vì logic học nghiên cứu về tư duy, còn logic trước
đây là logic học hình thức nghiên cứu về tư duy hình thức chủ
quan, nghĩa là tư duy trong trạng thái bất biến, cô lập, không sinh
thành, không biến đổi và không phát triển. Vì vậy logic học trước
đây chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được với sự phát triển của triết
học và khoa học. Trên cơ sở đó, Hegel đã sáng tạo ra một hệ thống
logic học mới - logic biện chứng nhằm đem lại cho con người một


cách hiểu mới về bản chất của tư duy và trang bị cho các ngành
khoa học một phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương
pháp biện chứng. Phép biện chứng của Hegel là một trong
những thành tựu quý giá nhất của triết học cổ điển Đức nói riêng và
lịch sử triết học trước Marx nói chung. Tuy nhiên, Hegel đã sáng
tạo logic biện chứng trên lập trường duy tâm, ông đã xuất phát từ
cơ sở đồng nhất giữa tư duy và tồn tại khi coi những quy luật của
tự nhiên, của lịch sử cũng là những quy luật của tư duy.
Phương pháp tư duy là phương thức, cách thức nhìn nhận của
đối tượng để hình thành nên hiểu biết về chúng trong đầu óc con
người. Phương pháp tư duy hình thức là phương pháp tư duy nhận
thức của sự vật trong trạng thái bất biến, trạng thái tĩnh và cô lập.
Còn phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư duy khảo
sát đối tượng trong sinh thành, biến đổi và phát triển. Chính Hegel
là người đã khai sinh ra phương pháp tư duy biện chứng này, trở
thành phương pháp khoa học, làm công cụ khoa học khám phá ra
chân lý. Theo Hegel, tư duy ở đây hoàn toàn không được xem xét
như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người như là nét đặc thù

của con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm
tuyệt đối với tư cách là cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế
giới. Hơn nữa tư duy đồng thời vừa là khách thể, vừa là chủ thể, nó
vừa là những gì đang tư duy, vừa là những gì được tư duy. Tuy
nhiên, Hegel cũng thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu tượng,
mong muốn là những hình thức của ý thức con người. Nhưng tất
cả chúng đối với ông chỉ là những thể hiện không đầy đủ, là những
nét hoa văn bên ngoài của tư duy, tư tưởng. Vì vậy, vật chất theo
ông cũng thuộc về tư duy, tư tưởng mà thôi. Hegel cho rằng, đối


tượng đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân tư tưởng vì tư
tưởng là chân lý của mọi sự vật, cho nên sự phát triển cũng cần
phải được tiến hành theo những quy luật của tư tưởng, theo những
quy luật của logic học. Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel vì
vậy còn được xác định như là chủ nghĩa duy tâm logic. Ý niệm
tuyệt đối là tư duy về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự nhận
thức, là sự mở rộng những xác định logic vốn có đối với nó.
Hegel cho rằng bản thân tư duy của loài người luôn sinh thành,
biến đổi, phát triển, logic lại khảo sát tư duy ở trạng thái bất biến và
cô lập. Đây là quan niệm sai lầm của ông. Từ đó ông cho rằng
những phạm trù, quy luật của logic học trước đây mang tính bất
biến, không thay đổi cũng là sai lầm thứ hai. Nếu logic cũ khảo sát
tư duy ở trạng thái bất biến và cô lập thì logic biện chứng của
Hegel nghiên cứu về tư duy trong trạng thái sinh thành, biến đổi và
phát triển. Do đó, những phạm trù, quy luật logic của Hegel đưa ra
cũng nằm trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển. Hegel đã
mang lại cho con người một cách hiểu mới về bản chất của tư duy.
Trước Hegel, người ta chỉ hiểu tư duy ở trạng thái bất biến, cô lập,
một tư tưởng hoặc đúng, hoặc sai, không có khả năng thứ ba. Ví

dụ nói: đồng dẫn điện thì tư tưởng này hoặc đúng hoặc sai, nghĩa
là tư duy bất biến, không thay đổi. Nhưng Hegel chỉ ra rằng ngay cả
tư duy của con người cũng nằm trong sự sinh thành, biến đổi và
phát triển.
Dù logic biện chứng duy tâm của Hegel không phải là một khoa
học thật sự nhưng nó có nhiều giá trị to lớn đối với quá trình xây
dựng tư duy biện chứng. Do đó, nó đã làm thay đổi sâu sắc quan


niệm của con người về logic học. Chính Hegel là người đóng công
lao to lớn. Giữa thế kỷ XIX, Marx và Engels cải tạo lại phép biện
chứng duy tâm của Hegel và sáng lập ra biện chứng duy vật.
• Trong triết học tự nhiên
Triết học tự nhiên là sự nghiên cứu giới tự nhiên với tính cách
là một dạng tồn tại của Ý niệm tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật
chất. Vì vậy, quá trinh hình thành giới tự nhiên đồng thời cũng là
quá trình Ý niệm tuyệt đối ngày càng biểu hiện ra thành giới tự
nhiên. Giới tự nhiên được hiểu như một chỉnh thể thống nhất, trong
đó mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, không ngừng
vận động và phát triển. Sự phát triển của giới tự nhiên và mọi vật
đều diễn ra dưới nhiều cấp độ khác nhau về chất như cơ học, vật
lý, hóa học, địa chất, sự sống v.v... với bản chất và đặc tính vận
động tương ứng. Phê phán quan niệm cơ học về thế giới thống trị
trong khoa học tự nhiên thời đó, Hêghen khẳng định đặc thù riêng
của từng giai đoạn phát triển của tự nhiên.
Đối lập với quan niệm của Niutơn tách không gian, thời gian
với các quá trình vận động của các sự vật vật chất, Hêghen ủng hộ
quan niệm của Leibniz về vấn đề này, cho rằng “các sự vật tiêu
vong không phải vì chúng nằm trong thời gian, mà vì bản thân
chúng là cái nhất thời”. Thời gian cũng như không gian phải được

hiểu như sự sinh thành của mọi vật. Theo Hêghen "Thế giới được
tạo ra, hiện đang được tạo ra, và sẽ vĩnh viễn được tạo ra" bởi Ý
niệm tuyệt đối.
Tuy triết học tự nhiên của Hêghen chứa đựng một số tư tưởng
quý giá bởi ý đồ của nó muốn đem lại cho con người một cách nhìn


biện chứng về giới tự nhiên, góp phần đánh đổ quan điểm máy
móc, cơ học về thế giới còn ám ảnh nhiều nhà khoa học tự nhiên
thời đó. Tuy vậy, triết học tư nhiên là bộ phận yếu nhất trong toàn
bộ hệ thống triết học của ông điều, này cũng dễ hiểu bởi vì ông
không phải không phải là nhà khoa học tự nhiên như Đêcáctơ hay
Leibniz. Dẫu vậy, Hêghen thực sự là một trong những nhà bách
khoa toàn thư cuối cùng của nhân loại.
• Trong triết học tinh thần
Hêghen cho rằng những mâu thuẫn trong xã hội đều là các
hiện tượng tất yếu, tự nhiên, còn sự giải quyết các mâu thuẫn trong
xã hội sẽ tạo ra động lực cơ bản thúc đẩy phát triển của xã hội.
Nhà nước ra đời nhằm dung hòa những mâu thuẫn trong xã hội để
hướng xã hội phát triển.
Hêghen coi lịch sử là kết quả hoạt động của từng con người cụ
thể, nhưng không phụ thuộc vào hành động, ý muốn của họ. Lịch
sử là một tiến trình phát triển của hoạt động con người thống nhất
trong mình cái chủ quan và cái khách quan. Hêghen vạch ra tiến
trình phát triển của lịch sử luôn gắn liền với lợi ích của từng cá
nhân, từng giai - tầng trong xã hội, nhưng đồng thời nó phát triển
theo quy luật của riêng mình. Hêghen vừa đề cao chiến tranh với
tính cách là phương tiện giúp xã hội tránh được sự thối nát, vừa
chống lại chiến tranh làm xáo trộn xã hội.
Hêghen đã quy mọi quá trình của hiện thực về quá trình tư duy,

quy lịch sử hiện thực về lịch sử tư duy, quy hoạt động thực tiễn của
con người về quá trình tự ý thức. Phép biện chứng của Hêghen
trong hiện tượng luận tinh thần coi con người vừa là chủ thể, đồng


thời lại là kết quả của chính quá trình hoạt động của mình. Tư duy
và trí tuệ của con người hình thành và phát triển trong chừng mực
con người nhận thức và cải biến thế giới đối lập với bản thân mình
thành cái của mình. Ý thức là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt
động của con người càng phát triển thì ý thức của nó càng mang
bản chất xã hội.
Hêghen coi con người là sản phẩm của thời đại lịch sử. Ông
khẳng định, không ai có thể thoát ra khỏi thời đại mà không bị thời
đại phán xét, không có lực lượng xã hội nào làm đảo ngược được
thời đại mà không phải trả giá đắt cho sự phiêu lưu của mình. Mặc
dù đề cao vai trò của lý tính, nhưng ông cũng coi trọng cảm tính.
Đối với ông, nếu không có một sự say mê nào thì sẽ không có điều
gì vĩ đại xảy ra trên thế giới này cả; và chỉ những người nào nhìn
nhận thế giới một cách hợp lý, thì cả thế giới mới đánh giá về họ
một cách hợp lý. Theo ông, vĩ nhân là những người suy nghĩ và
hiểu được những gì là cần thiết và những gì là hợp thời. Xuất phát
từ luận điểm này, Hêghen đòi hỏi khi xem xét lịch sử, khi đánh giá
cá nhân, thì các nhà sử học phải biết kết hợp tính đảng với tính
khách quan trong xem xét. Ngoài ra, Hêghen cũng thấy được tính
chất xã hội, vai trò của lao động, của sự phân công lao động đối với
sự phát triển của lịch sử và bản thân con người.
Hêghen khẳng định lịch sử toàn thế giới là lịch sử phát triển
theo khuynh hướng tiến bộ. Tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội là
mức độ tự do. Còn tự do là sự nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ
những quy luật tất yếu của thế giới - hiện thân củá Ý niệm tuyệt đối.

Xã hội càng tiến bộ bao nhiêu thì con người càng tự do, nhân cách


càng phát triển bấy nhiêu. Con người là chúa tể của số phận và sứ
mệnh của chính mình.

• KẾT LUẬN

Phép biện chứng duy tâm của Hegel là một thành tựu vĩ đại
của triết học cổ điển Đức. Cho dù có những ý kiến đánh giá khác
nhau về triết học Hegel song không thể phủ nhận được rằng cái có
giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết học của ông
chính là phép biện chứng duy tâm. Hegel là người có công phê
phán tư duy siêu hình và ông cũng là người đầu tiên trình bày toàn
bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa
là trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Trong khuôn khổ hệ thống triết học duy tâm của mình, Hegel không
chỉ trình bày các phạm trù như: chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn
mà ông còn là người diễn đạt được các quy luật theo khuôn khổ
của phép biện chứng, nghĩa là ông coi sự liên hệ, vận động phát
triển của thế giới tuân theo các quy luật như “Lượng đổi dẫn đến


chất đổi và ngược lại”, “Phủ định của phủ định” với tư cách là sự
phát triển diễn ra theo hình “Xoáy ốc” và quy luật mâu thuẫn với tư
cách là nguồn gốc động lực của sự phát triển.
Phép biện chứng là linh hồn sống động trong hệ thống triết học
Hêghen: Tư tưởng về mối liên hệ phổ biến (mọi cái đều là hiện
thân, là các giai đoạn khác nhau nhưng liên hệ lẫn nhau của Ý
niệm tuyệt đối) và tư tưởng về sự phát triển (quá trình phủ định

biện chứng của Ý niệm tuyệt đối) là những tư tưởng cơ bản xuyên
suốt, là mạch suôi ngầm thấm chảy qua toàn bộ hệ thống của
Hêghen.
Phát triển là một quá trình thay đổi từ thấp lên cao, bằng cách
chuyển hóa qua lại giữa lượng và chất, do sự giải quyết những
mâu thuẫn nội tại trong các hình thức cụ thể của Ý niệm tuyệt đối
tạo nên. Trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự vận động của Ý niệm tuyệt
đối, Hêghen đã phát hiện ra các quy luật cơ bản của phép biện
chứng và các quy luật không cơ bản - các cặp phạm trù.
Hêghen là người đầu tiên xây dựng các nguyên tắc của lôgic
biện chứng, các quan điểm biện chứng về nhận thức, ông đã đặt
nền móng cho sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgic học và
nhận thức luận. Theo Hêghen, nhận thức phải đi từ trừu tượng đến
cụ thể, nhận thức lý thuyết phải thống nhất với hoạt động thực tiễn.
Chân lý phải mang tính cụ thể, tính quá trình và là sự phù hợp của
khái niệm với thực tiễn. Tuy nhiên, đối với Hêghen, nhận thức là
khám phá ra Ý niệm tuyệt đối chứ không phải khám phá ra giới tự
nhiên vật chất và thực tiễn không phải là hoạt động vật chất mà chỉ


là những hoạt động tinh thần của chủ thể sáng tạo ra tư tưởng mà
thôi.
Phép biện chứng của Hêghen không chỉ là lý luận biện chứng
về sự phát triển của thế giới ý niệm, mà còn là phương pháp biện
chứng nghiên cứu thế giới ý niệm. Thông qua phép biện chứng của
ý niệm, Hêghen đã đoán được phép biện chứng của sự vật, vì vậy,
nó là phép biện chứng duy tâm.
Phép biện chứng của Hêghen, về thực chất, là tích cực và
cách mạng, nhưng nó lại bị giam hãm trong hệ thống triết học duy
tâm thần bí của ông. Vì vậy, trong triết học của Hêghen, bên cạnh

những nội dung biện chứng, tiến bộ, vạch thời đại, khoa học và
cách mạng lại có không ít quan điểm siêu hình, phản động, phản
khoa học và bảo thủ, tư biện, nghĩa là trong nó chứa đựng nhiều
mâu thuẫn.
Dù còn những hạn chế không nhỏ nhưng phép biện chứng tư
duy mà Hêghen đem lại là một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư
tưởng của nhân loại. Triết học Hêghen là một cội nguồn của triết
học Mác. Cứu lấy phép biện chứng, giải phóng hạt nhân biện
chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của hệ thống Hêghen là một
yêu cầu cấp bách của triết học mà sau này Mác đã thực hiện. Khi
cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen theo tinh thần duy vật
của triết học Phoiơbắc, Mác đã xây dựng phép nên biện chứng duy
vật.
Gần hai thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hêghen
ra đời, song ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại
vẫn không ngừng tăng lên. Bởi lẽ như Ph.Ăngghen đã khẳng định:


"Hệ thống Hêghen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ
hệ thống nào trước kia và phát triển trong lĩnh vực đó. Một sự
phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc
nhiên... Vì Hêghen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo mà
còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu
của ông tạo thành thời đại... Nếu đi sâu hơn nữa vào trong toà nhà
đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật quý giá đến
nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng.




×