HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
NGUYỄN THỊ MÃO
NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN,
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN,
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
Người thực hiện:
Lớp:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:
Nguyễn Thị Mão
Cao cấp Lý luận chính trị Nghệ An 2014 - 2016
Kiểm sát viên
Viện KSND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
KSĐT
: Kiểm sát điều tra
THQCT
: Thực hành quyền công tố
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKSND
: Viện Kiểm sát nhân dân
VPTH
: Văn phòng tổng hợp
MỤC LỤC
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật,
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ hết sức quan
trọng và cấp thiết. Chính vì vậy mà trong năm 2014 và 2015, Quốc hội đã ban
hành một hệ thống các luật, trong đó có Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
và các luật liên quan đến điều tra án hình sự như: Luật Tổ chức Cơ quan điều
tra hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật
Hình sự... Từ đó, dần tạo được sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp
luật trong thời gian tới. Việc ban hành các luật mới tạo nên cơ sở pháp lý
vững chắc cho hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính
trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, một trong những nhiệm vụ
cải cách tư pháp được đề cập là tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra.
Ở giai đoạn điều tra, thực hành quyền công tố phải đảm bảo mọi trường
hợp khởi tố đều tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật, không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội. Vì vậy để tránh xảy ra tình trạng oan,
sai trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Viện kiểm sát phải tăng cường,
nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố (THQCT), kiểm sát điều tra
(KSĐT) trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Do vậy, việc thực hành quyền
công tố trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là một hoạt động
quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trong những năm qua, công tác THQCT, KSĐT các vụ án hình sự ở địa
bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã có nhiều cố gắng trong đổi mới công tác
chỉ đạo điều hành, lãnh đạo đơn vị thực hiện tốt kế hoạch ngành giao, phục vụ
2
tốt nhiệm vụ chính trị địa phương góp phần quan trọng vào việc giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, của công dân trên địa bàn. Tuy vậy việc thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự chưa thực sự chặt
chẽ, dẫn đến phải trả hồ sơ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để điều tra bổ
sung, kéo dài thời gian tố tụng không cần thiết hoặc có vụ phải hủy án để điều
tra, xét xử lại. Việc áp dụng bắt khẩn cấp, quả tang, tạm giữ, tạm giam thực
hiện chưa được chuẩn xác đã xâm phạm đến quyền tự do dân chủ, lợi ích hợp
pháp của công dân.
Việc khởi tố, điều tra là giai đoạn đầu trong quá trình giải quyết một vụ
án hình sự. Nếu để xảy ra sai sót, những sai sót trong giai đoạn này sẽ có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình giải quyết vụ án, thậm chí có thể dẫn đến oan, sai.
Do vậy, chức năng THQCT, KSĐT các vụ án hình sự là rất quan trọng.
Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, với yêu cầu
thực tiễn, tôi đã lựa chọn, xây dựng đề án tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị với
đề tài Nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự tại Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, giai
đoạn 2016 - 2020 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân thành
phố Vinh, thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Kiểm sát chặt chẽ, đầy đủ, toàn diện hoạt động điều tra, các lệnh,
3
quyết định của CQĐT, kịp thời phát hiện vi phạm, kiên quyết hủy bỏ, kiến
nghị hoặc yêu cầu khắc phục, bảo đảm hoạt động điều tra tuân thủ đúng pháp
luật tố tụng hình sự;
- Phấn đấu không để xảy ra việc bắt giữ hình sự sau đó trả tự do, xử lý
hành chính; tỷ lệ bắt, giữ hình sự chuyển khởi tố trên số bị bắt, giữ hình sự đã
giải quyết đạt từ 98% trở lên;
- Việc xử lý án của năm trước chuyển sang chậm nhất hết quý I năm
sau; phối hợp với các cơ quan đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải
quyết các vụ án hình sự đạt từ 85% trở lên;
- Hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng không quá 3%/1 năm; kiểm sát chặt chẽ, bảo
đảm tất cả các vụ án đều được thụ lý điều tra đúng thẩm quyền; phấn đấu
không để xảy ra đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can do không có
sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm do lỗi chủ quan của
Viện kiểm sát; khắc phục các trường hợp lạm dụng việc đình chỉ miễn trách
nhiệm hình sự theo Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 20151.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Giới hạn về đối tượng
Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
của Viện Kiểm sát nhân dân.
3.2. Giới hạn về không gian
Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
3.3. Giới hạn về thời gian
Giai đoạn 2016 - 2020.
B. NỘI DUNG
1
Quốc hội (2015), Luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015, Điều 29 - Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.
4
1. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Các khái niệm sử dụng trong đề án
Hiến pháp năm 1980 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của Nhà
nước ta đưa ra thuật ngữ thực hành quyền công tố; quyền công tố. Và điều này
tiếp tục được khẳng định tại Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. “Viện kiểm
sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật”1; “Thực hành quyền công tố là hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc
tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” 2. Do vậy, quyền công tố chỉ
được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực tố tụng hình sự.
Chủ thể thực hành quyền công tố chỉ là Viện kiểm sát.
Thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội đó. Do vậy thực hành quyền công tố được hiểu như sau:
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử
các vụ án hình sự.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là
việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
thực hành quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội trong giai đoạn điều tra, truy tố nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
1
2
Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 34/2002/QH10 ngày 02/04/2002, Điều 1.
Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 63/2014/QH13 ngày 24/11/2014, khoản 3, Điều 3.
5
không làm oan người vô tội.
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo
cho quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện khi kiểm
sát điều tra vụ án hình sự là:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ
sơ vụ án của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra.
- Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu
cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh
người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
- Yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết.
- Kiến nghị, yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra.
- Yêu cầu Thủ trưởng CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra; xử lý nghiêm minh
Điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng.
- Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa
tội phạm và vi phạm pháp luật.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát điều tra vụ án
hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
VKSND huyện có các quyền năng: Quyết định việc khởi tố vụ án hình
sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành
điều tra và trong trường hợp cần thiết thì trực tiếp tiến hành một số hoạt động
6
điều tra;… quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn;
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy
bỏ các quyết định không có căn cứ, trái pháp luật của CQĐT. VKSND cấp
huyện thực hiện chức năng nhiệm vụ kiểm sát điều tra bằng các quyền năng:
Kiểm sát việc khởi tố vụ án, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ
án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố
tụng; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra.
1.1.2. Khái niệm hiệu quả và các tiêu chí đánh giá hiệu quả thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
1.1.2.1. Khái niệm “hiệu quả” và “hiệu quả thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”
- Hiệu quả là đạt được một kết quả giống nhau nhưng sử dụng ít thời
gian, công sức và nguồn lực nhất.
- Hiệu quả thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân” là việc đánh giá kết quả đạt được trên thực tế
của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực
hành quyền công tố. Hoạt động thực hành quyền công tố chỉ diễn ra trong hai
giai đoạn của tố tụng hình sự là giai đoạn điều tra các vụ án hình sự và giai
đoạn xét xử các vụ án hình sự. Hoạt động công tố được thực hiện ngay từ khi
khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình tố tụng hình sự nhằm bảo đảm
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người không có tội.
Từ đó, hiệu quả của công tác này được hiểu là kết quả đạt được cuối cùng của
hai giai đoạn nói trên.
1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Để đánh giá hiệu quả công tác THQCT, KSĐT của VKS phải dựa trên
các tiêu chí đánh giá hiệu quả cụ thể của việc thực hiện các quyền năng thuộc
7
nội dung của các công tác này, đó là:
- Hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ
án hình sự và khởi tố bị can:
Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can là những
văn bản có tính pháp lý quan trọng có ý nghĩa mở đầu cho cả quá trình TTHS,
là điểm mốc làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với người có hành vi phạm tội; bởi từ đây, cơ quan có
thẩm quyền chính thức bắt đầu các hoạt động điều tra nhằm làm rõ tội phạm,
người phạm tội, làm rõ các tình tiết của vụ án, của hành vi phạm tội cũng như
mục đích, động cơ của người phạm tội…
- Hiệu quả hoạt động của VKS trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn:
Theo quy định của pháp luật, trong giai đoạn điều tra, CQĐT và VKS
có quyền áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn: “Bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm”1.
- Hiệu quả của việc kiểm sát các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ
của CQĐT và trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra:
CQĐT được giao trách nhiệm điều tra làm rõ hành vi, đối tượng phạm
tội, các tình tiết có liên quan như động cơ, mục đích, nhân thân của tội phạm,
các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, các thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra…
Nhà nước giao cho VKS trách nhiệm kiểm tra, giám sát, đảm bảo các hoạt
động của CQĐT, của các Điều tra viên trong việc điều tra vụ án phải đảm bảo
sự tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
tụng phải được đảm bảo.
- Hiệu quả của công tác kiểm sát việc lập hồ sơ và lập hồ sơ kiểm sát
điều tra:
Một trong các nội dung của công tác kiểm sát điều tra của VKS là kiểm
1
Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 ngày 19/11/2003, Điều 79.
8
sát việc lập hồ sơ của CQĐT nhằm đảm bảo cho các tài liệu chứng cứ do
CQĐT thu thập được trong quá trình điều tra phải toàn diện, đầy đủ và được
ghi nhận theo theo đúng trình tự, hồ sơ được sắp xếp khoa học, việc chấp
hành các quy định của tố tụng hình sự.
- Hiệu quả của việc quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra,
phục hồi điều tra và truy nã bị can:
Sau khi quyết định khởi tố được VKS phê chuẩn, các hoạt động điều tra
thu thập chứng cứ, tài liệu phục vụ cho việc chứng minh tội phạm và người
phạm tội của CQĐT được đồng bộ tiến hành. Trong quá trình điều tra, nếu có
căn cứ tạm đình chỉ thì CQĐT ra quyết định tạm đình chỉ điều tra; nếu nhận
thấy không đủ căn cứ để kết tội bị can thì CQĐT phải kịp thời ra quyết định
đình chỉ điều tra hoặc VKS phải yêu cầu CQĐT đình chỉ điều tra.
- Hiệu quả của việc quyết định xử lý vụ án bằng quyết định truy tố bị can
ra trước Tòa án bằng một bản cáo trạng, tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án:
Khi cuộc điều tra kết thúc, CQĐT phải có bản kết luận điều tra trong đó
nêu rõ các kết quả mà cuộc điều tra đã thu thập được, quan điểm về đường lối xử
lý vụ án, bị can. Bản kết luận điều tra được gửi đến VKS cùng toàn bộ hồ sơ vụ
án đề nghị VKS truy tố bị can ra trước Tòa án. VKS phải kiểm tra toàn bộ hồ sơ,
nghiên cứu để đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu, chứng cứ mà
CQĐT đã thu thập được, xác định có hay không có hành vi phạm tội, tội danh,
điều khoản áp dụng đối với bị can đồng thời đánh giá tính chất, mức độ, mục
đích, động cơ cũng như các tình tiết khác liên quan để có quyết định về đường
lối xử lý vụ án.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Ngày 15/12/2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã ban hành
Nghị quyết số 05/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; Hiến pháp năm
9
2013 theo đó chức năng của Viện kiểm sát nhân dân đã được điều chỉnh một
cách căn bản theo hướng: Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Vấn đề này đã được chính
thức đặt ra tại các Đại hội sau đó của Đảng và được ghi nhận tại các Nghị
quyết 8 trung ương khóa VII, Nghị quyết 3 và 7 Trung ương khóa VIII.
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ:
“Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực
hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng trong
khi thi hành nhiệm vụ”.
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”;
và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Bộ Chính trị Về tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra...”.
Các văn bản trên đã thể hiện sự quan tâm, tập trung lãnh đạo của Bộ Chính trị
về công tác cải cách tư pháp, trong đó có công tác của Viện kiểm sát, nhằm
xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Viện Kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp
với hệ thống tổ chức của Tòa án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra”1. Để làm tốt vai trò này, Đảng ta khẳng định: “Trong những năm
tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, tr. 115 (bản điện tử), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
10
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo
đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để
nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo
pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”1.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Quốc hội đã ban hành nhiều bộ luật, luật kịp thời thể chế hóa các quan
điểm, chủ trương của Đảng được nêu ra tại Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị
quyết số 49-NQ/TW: như việc ban hành Hiến pháp năm 2013.
- Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự (Điều 14); quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự (Điều 15);
- Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Khi thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo
pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. (khoản
1, Điều 83).
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015 quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng đối với vụ án hình sự (Điều 36, 37 BLTTHS 2003; Điều 41, 42, 43
BLTTHS năm 2015)…
- Căn cứ pháp lý để Kiểm sát viên ra yêu cầu điều tra theo các quy
định tại điểm b, khoản 1 Điều 37, Điều 112, Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình
sự; khoản 2, Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, điểm b, Điều 8,
Điều 19 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (ban hành kèm theo Quyết
định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao) và Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA1
Sđd, trang 112.
11
BQP ngày 07/09/2005 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
1.3. Cơ sở thực tiễn
- Thực trạng hiệu quả THQCT, KSĐT các vụ án hình sự chưa cao biểu
hiện cụ thể như: Vẫn còn các vụ án đã khởi tố, điều tra, sau khi kết thúc điều
tra, đề nghị truy tố VKS phải trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung (34 vụ);
tỷ lệ khám phá án chưa cao; việc bắt tạm giữ sau đó chuyển xử lý hành chính
còn xảy ra 33 trường hợp; việc bắt tạm giam bị can chưa được chuẩn xác dẫn
đến khi Tòa án xét xử tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án treo vẫn còn...
- Yêu cầu cải cách tư pháp; Hiến pháp 2013 về bảo đảm quyền con
người, Quyền công dân chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Xuất phát từ việc hiệu quả công tác THQCT, KSĐT các vụ án hình sự ở
VKSND Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trong thời gian qua vẫn còn xảy ra
những tồn tại và chưa ngang tầm với yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay.
2. NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Thành phố Vinh là thành phố nằm bên bờ sông Lam, phía Bắc giáp
huyện Nghi Lộc, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Nghi Xuân, phía Tây và
Tây Nam giáp huyện Hưng Nguyên. Thành phố Vinh cách thủ đô Hà
Nội 295 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.424 km, cách thủ
đô Viên Chăn (Lào) 400 km về phía Tây.
Diện tích tự nhiên 104,96 km², dân số 480.000 người; đơn vị hành
chính có 16 phường, 9 xã.
Thành phố Vinh có hệ thống giao thông đa dạng, trong đó: hệ thống
đường bộ có Quốc lộ 1A chạy xuyên qua trung tâm thành phố, đường Hồ Chí
12
Minh, Quốc lộ 15, Quốc lộ 7, Quốc lộ 8, Quốc lộ 46, Quốc lộ 48; hệ thống
đường sắt có ga Vinh; hệ thống đường thủy có cảng Bến Thủy; hệ thống
đường hàng không có sân bay Vinh. Với hệ thống giao thông thuận lợi, Thành
phố Vinh là điểm giao thoa giữa các vùng miền, là trung tâm kinh tế, chính trị
của tỉnh và đã được quy hoạch để trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa của
vùng Bắc Trung Bộ. Cùng với những thuận lợi thì Thành phố Vinh cũng là
nơi phát sinh nhiều loại tội phạm, mà đặc biệt là tội phạm về ma túy.
Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh với chức năng, nhiêm vụ là
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, trên cơ sở đó công tác THQCT,
KSĐT các vụ án hình sự đã được quan tâm chỉ đạo đi vào nề nếp và đóng góp
không nhỏ vào cuộc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm trên địa bàn
thành phố.
Đề án thực hiện trong điều kiện hệ thống pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự vừa được ban hành, sắp có hiệu lực pháp luật, các văn bản pháp luật
còn bộc lộ sự chồng chéo và chưa thống nhất. Hàng năm, số lượng thụ lý và
giải quyết án hình sự trên địa bàn tương đối nhiều. Năng lực trình độ của cán
bộ, kiểm sát viên còn hạn chế, mặt khác cán bộ làm công tác kiểm sát trong
lĩnh vực này đòi hỏi ngoài tinh thần trách nhiệm và năng lực chuyên môn
nghiệp vụ còn cần nghiên cứu, bởi đây là lĩnh vực liên quan đến quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, của công dân.
2.2. Thực trạng về hiệu quả thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của VKSND thành phố Vinh trong giai đoạn 2011 2015
2.2.1. Khái quát về tổ chức bộ máy và nhân sự THQCT, KSĐT các vụ
án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Viện KSND thành phố Vinh gồm các bộ phận: THQCT, KSĐT, Kiểm
sát xét xử án hình sự; Kiểm sát việc giải quyết các vụ án Dân sự - Hôn nhân
13
gia đình, kinh doanh thương mại... Biên chế của đơn vị là 31 cán bộ, công
chức; trong đó: có 29 đồng chí làm nghiệp vụ kiểm sát đều có bằng cử nhân
Luật, 01 đồng chí có trình độ thạc sĩ luật, 02 đồng chí là văn thư và kế toán.
Về chất lượng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tuy đều đã có bằng cử
nhân luật, song trình độ không đồng đều.
- Do sự thay đổi vai trò, chức năng ngành kiểm sát theo quy định trong
Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng như sự thay đổi quy định trong Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quy chế nghiệp vụ ngành, VKSND có chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, sự thay đổi
về chức năng đã kéo theo sự thay đổi lớn trong cơ cấu tổ chức bộ máy của
Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, hình thức thu gọn đầu mối, tập trung
nhân lực vào bộ phận kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự theo chế độ làm việc thông khâu, một kiểm sát viên phải theo vụ án từ
giai đoạn đầu cho đến khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Việc thay
đổi quy định như vậy, đã làm cho công tác kiểm sát chặt chẽ hơn và THQCT
tại phiên tòa tốt hơn, nhưng sự bất cập lớn đó là nguồn nhân lực chưa đủ để
đảm đương một khối lượng công việc lớn. Mặt khác công tác kiểm sát
THQCT trong giai đoạn điều tra không được chuyên sâu.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy thiếu đồng bộ, dàn trải, công tác quản lý, chỉ
đạo điều hành chưa tập trung, thống nhất, hiệu quả công tác chưa cao.
- Thực hiện cải cách tư pháp, theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW và
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị cho thấy rằng một số cán bộ điều tra
còn hạn chế nhưng một số cán bộ, Kiểm sát viên chưa theo kịp được tình
hình, không bám sát được hoạt động điều tra và không chỉ đạo được hoạt
động điều tra. Đây là một trong những điểm hạn chế của một số cán bộ, kiểm
sát viên VKSND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
- Số lượng cán bộ, kiểm sát viên chưa đáp ứng được với yêu cầu khối
lượng công việc hiện nay, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều,
14
chưa ngang tầm với nhiệm vụ được phân công. Số cán bộ, đa số kiểm sát viên
trẻ mới ra trường cũng nhiều hăng hái, nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm,
chưa được đào tạo về nghiệp vụ công tác, chưa có nhiều kỹ năng trong công
việc giải quyết án, do đó đã hạn chế rất lớn đến hiệu quả và chất lượng của
công việc.
- Là VKSND cấp huyện, tuy số lượng biên chế không ít nhưng số
lượng Kiểm sát viên còn ít, trong khi đó họ phải kiêm nhiệm nhiều phần công
việc (như thủ quĩ, văn phòng, công tác Đảng ...), do đó lực lượng bị dàn
mỏng, nên không tập trung làm tốt chuyên môn, không thể tham gia đầy đủ
các hoạt động của CQĐT, việc này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả THQCT,
KSĐT các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng, thời gian qua Viện Kiểm sát nhân
dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã có rất nhiều cố gắng và cũng đã đạt
được những kết quả tốt trong hoạt động THQCT, KSĐT các vụ án hình sự
trên địa bàn. Tuy nhiên, qua tổng kết hoạt động của đơn vị cho thấy, bên cạnh
những kết quả đạt được, hoạt động THQCT, KSĐT các vụ án hình sự vẫn còn
bộc lộ nhiều hạn chế. Điều này do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nhận
thức về hoạt động THQCT, kiểm sát các hoạt động tư pháp, vị trí, vai trò của
VKSND trong hoạt động THQCT, KSĐT các vụ án hình sự cho đến thực tiễn
hoạt động THQCT, KSĐT các vụ án hình sự, cũng như công tác tổ chức cán
bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật,...
Đánh giá đầy đủ, đúng đắn thực trạng hoạt động THQCT, KSĐT ở giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự là một vấn đề quan trọng để tìm ra nguyên nhân
của những ưu điểm cũng như của những tồn tại, làm cơ sở cho việc xác định
những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, hiệu quả hoạt động thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát. Để đánh giá được đúng đắn, đầy đủ thực trạng
công tác THQCT, KSĐT ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Dựa vào các báo
cáo sơ kết, tổng kết công tác từ năm 2011 đến năm 2015 của Viện Kiểm sát
nhân dân thành phố Vinh được thể hiện như sau:
15
Hoạt động THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
THQCT, KSĐT vụ án hình sự của CQĐT trong nhiều năm qua đã có nhiều tiến
bộ. Đứng trước tình hình tội phạm luôn gia tăng trên nhiều lĩnh vực, viện kiểm
sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát được khối lượng tương đối lớn các
vụ án hình sự, năm sau tăng hơn năm trước về tỷ lệ vụ án. Quán triệt Nghị quyết
08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, hoạt động thực hành
quyền công tố và KSĐT ở giai đoạn điều tra đã có những chuyển biến mạnh mẽ
và tích cực đạt được kết quả trên các lĩnh vực chủ yếu sau:
2.2.2. Tình hình Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự của VKSND thành phố Vinh
2.2.2.1. Tình hình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn sẽ trực tiếp hạn chế một số
quyền công dân đối với người bị áp dụng. Thời gian qua cho thấy việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đã phát huy tác dụng trong công tác đấu tranh
phòng ngừa, tuy nhiên trong thực tiễn vẫn còn xảy ra những trường hợp bắt
giam, giữ oan, sai. Để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam, BLTTHS đã quy định vai trò quyết định trong
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thuộc cơ quan
VKSND trong giai đoạn điều tra nên việc bắt, giam, giữ, gia hạn tạm giữ, tạm
giam bị can đều phải được VKSND phê chuẩn, nhằm bảo đảm việc bắt, giữ,
giam người có căn cứ, đúng pháp luật, góp phần phục vụ tốt công tác điều tra,
khám phá các vụ án hình sự và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ
Tạm giữ được hiểu là biện pháp ngăn chặn do cơ quan có thẩm quyền
áp dụng với nội dung là hạn chế quyền tự do trong thời hạn do luật TTHS quy
định đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm đảm bảo cho CQĐT có thời gian
16
tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để có cơ sở quyết định việc khởi tố
bị can. Trong bất kỳ mọi trường hợp tạm giữ nào, CQĐT đều phải gửi quyết
định tạm giữ cho VKS cùng cấp để VKS thực hiện chức năng kiểm sát như tại
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi
ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định
tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”1.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 12 giờ kể
từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định
tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ
hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ
và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”2.
Trách nhiệm của VKS phải bảo đảm không được để xảy ra việc áp
dụng biện pháp tạm giữ oan, sai. Điều đó đòi hỏi việc thực hiện chức năng
kiểm sát nhà tạm giữ tại cơ quan Công an phải thường xuyên như Quy chế về
công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam quy định: “Viện kiểm sát các cấp phải
kiểm sát hàng ngày tại nhà tạm giữ của cơ quan Công an” với mục đích cho
việc áp dụng biện pháp tạm giữ của CQĐT đúng theo quy định của pháp luật.
Như vậy sau khi có quyết định tạm giữ, VKS phải kiểm tra tính có căn cứ của
việc ra quyết định tạm giữ, nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc
không cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu
CQĐT ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Trong
trường hợp việc áp dụng biện pháp tạm giữ của CQĐT là cần thiết cho hoạt
động điều tra ban đầu thì VKS cũng phải kiểm sát chặt chẽ thời hạn tạm giữ,
nếu hết thời hạn tạm giữ mà CQĐT không có cơ sở để chứng minh được
1
2
Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003, khoản 3, Điều 86 - Tạm giữ.
Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày 27/11/2015, khoản 4, Điều 117 - Tạm giữ.
17
người bị tạm giữ đã thực hiện hành vi phạm tội thì VKS phải yêu cầu CQĐT
trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Trong thời điểm từ ngày 01/12/2010 đến 30/11/2015, thành phố có
3.529 người bị bắt, tạm giữ hình sự. Đã khởi tố chuyển tạm giam 2.230 người,
khởi tố áp dụng biện pháp ngăn chặn khác 1.077 người, trả tự do xử lý hành
chính 33 người. Tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự trung bình trong các năm đạt gần
95%. (Biểu số 1).
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện
pháp ngăn chặn, chỉ áp dụng đối với người đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi
tố bị can. Nhưng không phải tất cả mọi trường hợp bị khởi tố bị can đều bị áp
dụng biện pháp tạm giam, mà việc áp dụng biện pháp tạm giam phải có căn
cứ theo quy định của BLTTHS. Trong giai đoạn điều tra, việc áp dụng biện
pháp tạm giam của CQĐT đều chịu sự kiểm sát chặt chẽ của VKS thông qua
quyền phê chuẩn của VKS, lệnh tạm giam của CQĐT phải được Viện trưởng
VKS phê chuẩn trước khi thi hành. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giam được thực hiện chủ yếu thông qua
việc nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu liên quan đến việc đề nghị áp dụng biện
pháp tạm giam mà CQĐT chuyển cho VKS. Trong thời hạn 3 ngày VKS phải
quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định tạm giam của CQĐT,
“Trong thời hạn không quá ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tam giam, đề
nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện
trưởng VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn”1.
Từ ngày 01/12/2010 đến 30/11/2015, thành phố có 2.862 người bị tạm
giam (trong đó: tạm giữ chuyển tạm giam 2.230 người, bắt tạm giam 632 người).
Đã giải quyết 2.524 người, gồm: xét xử sơ thẩm 2.029; áp dụng biện pháp ngăn
1
Quốc hội (), Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003, khoản 3, Điều 88.
18
chặn khác 494 người; đình chỉ do bị can chết 01 người. (Phụ lục - biểu số 2).
2.2.2.2. Tình hình kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường
Trên địa bàn Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, từ ngày 01/12/2010 đến
30/11/2015, qua công tác khám nghiệm hiện trường chưa khởi tố hết các vụ
án. Điều đó chứng tỏ công tác xử lý tại hiện trường còn nhiều bất cập, yếu
kém. Thực trạng công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường của VKSND
Thành phố Vinh trong hơn 5 năm qua được thể hiện như:
Sau khi nhận được thông báo về vụ việc hình sự cần tiến hành khám
nghiệm, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân huyện phải chủ động bố trí, phân
công KSV tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với tất cả các
vụ việc mà CQĐT tiến hành khám nghiệm nên phần lớn tất cả các cuộc khám
nghiệm đều có kiểm sát viên tham gia, giám sát chặt chẽ, yêu cầu Điều tra
viên khám nghiệm tỷ mỉ, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Những vụ việc có
hậu quả rất nghiêm trọng, không quả tang hoặc phức tạp, thì lãnh đạo Viện kiểm
sát nhân dân không trực tiếp tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
mà có trường hợp lãnh đạo còn cử những cán bộ, Kiểm sát viên năng lực hạn
chế đến kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, vì vậy
hiệu quả công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường trên địa bàn không cao.
Kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản vật chứng:
kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản được quy
định tại các điều 75, 140, 141, 142, 144, 145, 146, 147, 148 của BLTTHS sửa
đổi 2003 và các văn bản pháp luật hiện hành hướng dẫn về bảo quản, giao
nhận, xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ. Tại các Điều luật này không quy
định Viện kiểm sát phải tham gia mà chỉ quy định: Viện kiểm sát phê chuẩn
Lệnh khám xét khẩn cấp trước khi thi hành (Điều 141, khoản 1), nếu trong
trường hợp không thể trì hoãn thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xong
phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát (Điều 141, khoản 2); Viện
19
kiểm sát phê chuẩn Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại Bưu
điện trước khi thi hành, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi lý
do vào biên bản và sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát
(Điều 144)... Do đó, Viện kiểm sát chưa kịp thời nắm bắt, nắm bắt không đầy
đủ, không chính xác diễn biến hoạt động khám xét của CQĐT nên bị động
trong quá trình giải quyết vụ án.
Nội dung này đã được khắc phục tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
cụ thể:
Tại Điều 193 quy định: “1... Lệnh khám xét của những người được quy
định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải
được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.
2. Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền quy định
tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời
hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo
bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.
3. Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện
kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát
viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên
phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi ro
vào biên bản khám xét....”
2.2.2.3. Tình hình kiểm sát trong quá trình CQĐT tiến hành các hoạt
động điều tra cụ thể
- Kiểm sát việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan tới vụ án. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh chủ động tham gia.
Trong 5 năm qua, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã trực tiếp
20
hỏi cung đối với các trường hợp bị can chối tội, án phức tạp, án tranh chấp
quan điểm. Từ đó, kiểm sát viên kịp thời nắm bắt những vướng mắc của vụ án
để chỉ đạo điều tra một cách kịp thời và sát đúng.
2.2.2.4. Tình hình kiểm sát hoạt động đối chất, nhận dạng của CQĐT
Hoạt động đối chất, nhận dạng là những hoạt động điều tra cần thiết để
giải quyết những mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng
hoặc để xác định người, vật, ảnh của một người nào đó liên quan đến vụ án.
Qua nhận dạng đối chất để làm rõ sự thật vụ án.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi năm 2003 chỉ quy định
trong trường hợp cần thiết thì Kiểm sát viên có thể tiến hành đối chất (Điều
138, khoản 5). Như vậy, Kiểm sát viên không tham gia đối chất khi CQĐT
tiến hành mà tự mình tiến hành đối chất. Hay việc nhận dạng không quy định
phải có sự tham gia của Kiểm sát viên. Từ đó, tạo nên sự tùy tiện, thiếu khách
quan trong quá trình tiến hành của CQĐT, có thể sẽ dẫn đến sai lệch trong quá
trình giải quyết vụ án.
Nội dung này đã được khắc phục tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
cụ thể:
Tại Điều 189, khoản 1 quy định: “Trường hợp có mâu thuẫn trong lời
khai giữa hai người hay nhiều người mà đã tiến hành các biện pháp điều tra
khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn thì Điều tra viên tiến hành đối
chất. Trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện
kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên
phải có mặt để kiểm sát việc đối chất ...”
Tại Điều 190, khoản 1 quy định: “...Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều
tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát
việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng...”
2.2.2.5. Tình hình kiểm sát chặt chẽ việc trưng cầu giám định
Trưng cầu giám định và hoạt động giám định là những hoạt động tố
tụng quan trọng trong quá trình điều tra, khám phá vụ án. Hoạt động kiểm sát
21
việc trưng cầu giám định của CQĐT và hoạt động kiểm sát việc giám định
của giám định viên là những hoạt động không thể coi nhẹ trong quá trình
THQCT, KSĐT của Kiểm sát viên. Khi có phát sinh trưng cầu giám định,
CQĐT chuyển Quyết định trưng cầu cho Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát.
Tuy nhiên, luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2003 không quy định việc CQĐT
phải chuyển quyết định trưng cầu giám định, không quy định về định giá tài
sản. Do đó, dẫn đến sự tùy tiện của CQĐT, chuyển quyết định cho Viện kiểm
sát chậm dẫn đến không phát hiện kịp thời những sai sót trong quá trình trưng
cầu giám định, định giá tài sản.
Nội dung này đã được khắc phục tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
cụ thể:
Tại Điều 205, khoản 3 quy định: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc
gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho
tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho
Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.”
Tại Điều 215, khoản 3 quy định: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
văn bản yêu cầu định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá phải giao hoặc gửi
văn bản yêu cầu định giá tài sản, hồ sơ, đối tượng yêu cầu định giá tài sản cho
Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu; gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản cho
Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra”.
2.2.2.6. Tình hình Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án
Mặc dù trong giai đoạn điều tra, truy tố các cơ quan tiến hành tố tụng
đã có sự phối hợp chặt chẽ, song còn nhiều nguyên nhân khác nhau như về
nhận thức, trình độ hoặc vì lý do khách quan nên số vụ án, đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án vẫn còn. Trong 5 năm qua, cơ quan CSĐT quyết định đình chỉ