Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Các nội dung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.44 KB, 5 trang )

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là hợp
đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, là sự
thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua
bán. Dù Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về Hợp đồng mua bán hàng hóa
song có thể các định bản chất pháp lí của Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại trên
cơ sở điều 428 của Bộ luật Dân sự về hợp đồng mua bán tài sản. Do đó, Hợp đồng mua bán
hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của HĐMBTS, dù vẫn mang những nét đặc thù
riêng. Hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu
là thương nhân. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương
nhân Việt Nam hoặc là thương nhân nước ngoài. Bên cạnh chủ thể là thương nhân, các tổ
chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hóa (trong trường hợp các chủ thể chọn Luật thương mại để điều chỉnh hoạt động của
mình)
Thứ hai, về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập theo cách thức nào mà
cả hai bên thể hiện được sự thỏa thuận mua bán hàng hóa giữa các bên. Theo điều 24 Luật
thương mại 2005: “Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ th ể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp
luật quy định phải dược lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Thứ ba, về đối tượng, hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Tuy nhiên
không thể hiểu theo nghĩa thông thường, hàng hoá là sản phẩm lao động của con người, được
tạo ra nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của con người hay chỉ bao gồm máy móc, thiết bị,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị
trường, nhà ở dùng để kinh doanh đưới hình thức cho thuê, mua, bán (khoản 3 Điều 5 Luật
Thương Mại 1997). Luật Thương mại 2005 quy định :
“Hàng hoá bao gồm :
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đât đai.”
Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hoá hiện đang
tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép


lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng hoá đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như
cổ phiếu, trái phiếu…
Thứ tư, về nội dung, hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ cả các bên
trong quan hệ mua bán, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng
hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên
bán.
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Khi giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, các bên giao kết phải tuân thủ theo các
thủ tục giao kết dưới đây:
1. Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán:
Đề nghị giao kết hợp đồng có bản chất là hành vi pháp lí đơn phương của một chủ thể, có
nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo những điều kiện xác định. Từ
quy định của Điều 390 BLDS 2005, có thể định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng trong thương
mại là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên


đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể. Về nguyên tắc, hình thức của đề nghị hợp đồng
phải phù hợp với hình thức của hợp đồng. BLDS 2005 không quy định về hình thức của đề
nghị hợp đồng, song có thể dựa vào quy định về hình thức của hợp đồng để xác định hình
thức của đề nghị hợp đồng, theo đó đề nghị hợp đồng có thể được thể hiện bằng văn bản, lời
nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các hình thức này. Trường hợp pháp luật quy định
hình thức của hợp đồng phải bằng văn bản thì hình thức của đề nghị hợp đồng cũng phải bằng
văn bản.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến một hoặc nhiều chủ thể đã xác định. Hiệu lực của nó
thông thường do các bên tự ấn định. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu
lực của đề nghị hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề
nghị nhận được đề nghị đó. Căn cứ xác định bên được đề nghị đã nhận được đề nghị giao kết
hợp đồng là khi: Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú hoặc trụ sở của bên được đề nghị. Đề
nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị. Bên được đề nghị biết
được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.

Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời hạn đề nghị hợp
đồng có hiệu lực, nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng
thì hợp đồng hình thành và ràng buộc các bên. Nếu các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo
hợp đồng thì phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận phù hợp
với quy định của pháp luật.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng
trong các trường hợp như: Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút
ngắn lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị. Điều kiện thay đổi hoặc
rút ngắn lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi
hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này
trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi
bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp: bên nhận được đề
nghị trả lời không chấp nhận. Hết thời hạn trả lời chấp nhận, thông báo về việc thay đổi hoặc
rút lại đề nghị có hiệu lực, theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận đề nghị trong thời hạn
chờ bên được đề nghị trả lời.
2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề
nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng được xác định khác nhau trong các trường hợp cụ thể như sau:
Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi
thực hiện trong thòi hạn đó. Nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết
thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường
hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lí do khách quan mà bên đề nghị biết
hoặc phải biết về lí do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề
nghị.
Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trường hợp qua điện thoại hoặc qua các
phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận,

trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể
rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng. Nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với
thời điểm bên đề nghị nhận được trả chấp nhận giao kết hợp đồng.


3. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán
Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận.
Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định khác nhau phụ thuộc vào cách thức giao kết và
hình thức của hợp đồng. Theo quy định của BLDS 2005 – Điều 404, có thể xác định thời
điểm giao kết hợp đồng trong kinh doanh theo các trường hợp như sau:
- Trường hợp hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm bên sau cùng kí tên vào văn bản.
- Trường hợp hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản (thông quan các tài liệu giao
dịch): thời điểm đạt được sự thỏa thuận được xác định theo lý thuyết (tiếp nhận), theo đó hợp
đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
- Trường hợp hợp đồng được giao kết hợp đồng bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng
là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những
biện pháp, chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp
đồng bằng lời nói.
Sự im lặng của các bên được đề nghị đến khi hết thời hạn trả lời cũng có thể là căn cứ xác
định hợp đồng đã được giao kết, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng (khoản 2, điều 404 BLDS).
III. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU
1.Hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
Hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán nói riêng có hiệu lực là hợp đồng được pháp
luật thừa nhận có giá trị ràng buộc các bên trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã
được thỏa thuận. Một hợp đồng chỉ được coi là có hiệu lực nếu đồng thời thỏa mãn các dấu
hiệu sau:
Thứ nhất, các bên phải hoàn toàn tự nguyện khi giao kết hợp đồng;
Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và

không trái đạo đức xã hội;
Thứ ba, chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự;
Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật nếu pháp luật có
yêu cầu hợp đồng phải được xác lập bằng một hình thức nhất định.
Như vậy, một hợp đồng mua bán hàng hóa mà vi phạm một trong bốn điều kiện trên sẽ bị
vô hiệu, nhưng tùy theo sự vi phạm nội dung gì mà sẽ rơi vào vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu
tương đối.
2. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng là hợp
đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên
các hợp đồng vô hiệu có sự khác nhau về tính chất và mức độ ảnh hưởng đến các lợi ích mà
pháp luật cần bảo vệ. Việc quy định cụ thể các trường hợp hợp đồng vô hiệu có ý nghĩa quan
trọng trong việc xử lý một cách hợp lý và hiệu quả các hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp
khác nhau, bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng cũng như lợi ích của các chủ thể có liên
quan. Theo quy định của bộ luật dân sự 2005, các trường hợp hợp đồng kinh doanh vô hiệu


được áp dụng theo các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu nói chung, theo đó một hợp đồng
mua bán hàng hóa vô hiệu trong những trường hợp chủ yếu sau:
- Vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội: Điều cấm của
pháp luật là những quy định của pháp luật có nội dung không cho phép chủ thể thực hiện
những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với
người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Biểu hiện cụ thể của vi
phạm điều cấm trong hợp đồng là các bên thỏa thuận với nhau để thực hiện những công việc
mà pháp luật không cho phép thực hiện như: sản xuất, tiêu thụ hàng giả; mua bán, vận chuyển
hàng cấm; cung ứng dịch vụ bị cấm thực hiện; dịch chuyển tài sản trái phép hay những thỏa
thuận gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba…Theo cách hiểu thông thường, nội dung hợp
đồng gồm toàn bộ cam kết của các bên được thể hiện dưới dạng điều khoản. Nhưng khi xem
xét về nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không, cần lưu ý điều
khoản đối tượng của hợp đồng. Khi nội dung của điều khoản này vi phạm điều cấm của pháp

luật làm hợp đồng vô hiệu toàn bộ thì các điều khoản hợp pháp khác của hợp đồng cũng sẽ bị
vô hiệu theo. Để xác định nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay
không, cần lưu ý các quy phạm cấm đoán trong các văn bản pháp luật.
- Vô hiệu do giả tạo: khi các bên giao kết hợp đồng một cách giả tạo nhằm che giấu một
hợp đồng khác thì hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn hợp đồng bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp hợp đồng bị che dấu cũng vô hiệu theo quy định của pháp luật.
- Vô hiệu do nhầm lẫn: Một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
hợp đồng mà giao kết, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của
hợp đồng đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
- Vô hiệu do lừa dối: Lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng
nên đã giao kết hợp đồng đó. Khi một bên giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
- Vô hiệu do bị đe dọa: đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên
kia buộc phải giao kết và thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của mình hoặc của cha , mẹ, vợ, chồng, con của mình. Khi
một bên giao kết hợp đồng do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô
hiệu.
- Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình: người có
năng lực hành vi dân sự nhưng đã giao kết hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
- Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức: trong trường hợp pháp luật quy định hình
thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các bên không tuân theo thì theo yêu
cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc
các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà
không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Ngoài ra cần lưu ý về hai vấn đề: hợp đồng vô hiệu do chủ thể không đảm bảo điều kiện
về đăng kí kinh doanh và hợp đồng vô hiệu do người đại diện không đúng thẩm quyền ký kết.
Mặc dù BLDS 2005 không quy định cụ thể về trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa vô

hiệu do chủ thể hợp đồng không đảm bảo điều kiện về đăng kí kinh doanh, song có thể suy ra
trường hợp vô hiệu này từ các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Một trong các
bên kí kết hợp đồng không có đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện
công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu. Việc không đăng kí


kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng thể hiện chủ thể hợp đồng
không có năng lực chủ thể để thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh. Tuy nhiên,
đăng kí kinh doanh chỉ đòi hỏi bắt buộc với chủ thể là thương nhân. Vì vậy nếu pháp luật quy
định chủ thể trong một hợp đồng mua bán hàng hóa phải có đăng kí kinh doanh mà bên đó
không có đăng kí kinh doanh thì hợp đồng đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Để xác định hợp đồng
mua bán hàng hóa có bị vô hiệu do một bên không có đăng kí kinh doanh để thực hiện nội
dung đã thỏa thuận hay không, cần nghiên cứu kĩ nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
để xem các bên có những nghĩa vụ cụ thể gì? Việc thực hiện các nghĩa vụ đó có phù hợp với
đăng kí kinh doanh của từng bên hay không? Những hàng hóa các bên được quyền kinh
doanh?
Pháp luật dân sự cũng không quy định trường hợp hợp đồng vô mua bán hàng hóa vô
hiệu do được kí kết bởi người đại điện không đúng thẩm quyền. Song trường hợp này có thể
áp dụng quy định về đại diện và phạm vi đại diện để xác định hiệu lực của hợp đồng. Khi
người không có quyền đại diện giao kết, thực hiện hợp đồng, sẽ không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ đối với bên được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp của bên
được đại diện chấp thuận. Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch
được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc
biết mà không phản đối. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện ( hoặc vượt
quá phạm vi đại diện) có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch ( hoặc
đối với phần vượt quá phạm vi được đại diệ) đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện và việc vượt quá
phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Phạm vi đại diện cần phải được xác định đối với cả đại diên theo pháp luật và đại diện

theo ủy quyền. Nếu như văn bản ủy quyền là cơ sở cho phép xác định phạm vi đại diện của
người đại diện thì quy định pháp luật là cơ sở cho phép xác định phạm vi đại diện của người
đai diện theo pháp luật.
Tùy thuộc vào mức độ của sự vô hiệu hợp đồng, hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp
nói trên được phân chia thành: Hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần.
Hợp đồng vô hiêu toàn bộ là hợp đồng mà tất cả các nội dung của hợp đồng không có giá trị
pháp lý, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ và cũng không được hưởng các quyền theo
hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu từng phần là những hợp đồng có nội dung nào đó vi phạm điều
cấm của pháp luật và bị vô hiệu nhưng không làm ảnh hưởng đến các nội dung còn lại của
hợp đồng.
Cuối cùng khi một hợp đồng vô hiệu thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nhìn
chung, pháp luật các nước đều có quan điểm xử lý rất nghiêm khắc đối với các hợp đồng vô
hiệu, đặc biệt là đối với bên chủ thể đã có lỗi trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng vô
hiệu. Theo BLDS 2005, một hợp đồng bị vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của các bên từ thời điểm giao kết. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu được thực
hiện theo quy định sau:
+ Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật
thì hoàn trả bằng tiền ( trừ trường hợp tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật).
+ Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.



×