Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN VẬN DỤNG LÝ THUYẾT KIẾN TẠO TRONG VIỆC DẠY HỌC NHÓM BÀI HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 NÂNG CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.41 KB, 31 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH – NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG LÝ THUYẾT KIẾN TẠO TRONG VIỆC DẠY HỌC
NHÓM BÀI HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TRONG
SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 NÂNG CAO

Người thực hiện: Trần Thị Hà Dung
Chức vụ : Giáo Viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HÓA, NĂM 2015
i


ii


MỤC LỤC
3.3.Nội dung và tổ chức thực nghiệm
3.3.1. Nội dung thực nghiệm

Trang
5
5

iii



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LTKT

Lí thuyết kiến tạo

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

THPT

Trung học phổ thông

THCS

Trung học cơ sở

DH

Dạy học

TN

Thực nghiệm

ĐC


Đối chứng

SGK

Sách giáo khoa

DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
iv


3.3.Nội dung và tổ chức thực nghiệm
3.3.1. Nội dung thực nghiệm

5
5

v


A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, vai trò của giáo dục luôn chiếm vị trí hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc và nhân loại. Vì vậy, việc đổi
mới toàn diện giáo dục ở các bậc học, cấp học là vấn đề thời sự và cấp bách hiện
nay. Việc đổi mới phải được tiến hành ở tất cả các yếu tố của quá trình giáo dục và
ở mọi cấp độ từ vĩ mô đến vi mô bao gồm: quan điểm giáo dục, mục tiêu giáo dục,
nội dung, phương pháp, phương tiện và kiểm tra đánh giá quá trình giáo dục.
Trong đó đổi mới quan điểm giáo dục được coi là điểm xuất phát và là “sợi
chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình giáo dục. Điều này đã được xác định trong Nghị quyết
29 của hội nghị TW8 khóa XI (04/11/2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

và đào tạo. Nghị quyết nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều ghi nhớ
máy móc. Tập trung cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực”. Như vậy, có thể
hiểu cốt lõi của vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học là hướng tới việc học
tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động, ỷ lại vào giáo viên, điều này
sẽ không đảm bảo đào tạo con người theo yêu cầu mới của thời đại.
Để phát huy được tối đa tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá
trình học tập, có nhiều phương pháp dạy học theo xu hướng hiện đại đã được đề
xuất và vận dụng như: DH khám phá, DH hợp tác, DH phân hóa, DH phát hiện
và giải quyết vấn đề… Cùng với việc nghiên cứu và vận dụng các phương pháp
dạy học này, các nhà lí luận DH đã quan tâm đặc biệt đến lí thuyết kiến tạo. Bởi
lẽ, tư tưởng cơ bản của lí thuyết kiến tạo là người học tự xây dựng kiến thức trên
cơ sở sử dụng và xem xét lại kiến thức, kinh nghiệm sẵn có của mình. Những
hiểu biết, kinh nghiệm có thể được bổ sung hoàn thiện, phát triển hoặc có thể
phải thay đổi trong quá trình học tập, từ đó giúp người học nắm vững được hệ
thống tri thức một cách bền vững và có khả năng vận dụng tri thức để giải quyết
vấn đề một cách có hiệu quả.
Nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn
11 Nâng cao là một nội dung rất quan trọng bởi lẽ, nó giúp cho giáo viên và học
sinh nắm được khái niệm đọc - hiểu văn bản và cách đọc một văn bản đồng thời tự
khai thác, khám phá bất kỳ một tác phẩm trong chương trình sách giáo khoa hay
các văn bản khác mà ta bắt gặp trong đời sống. Tuy nhiên, việc dạy và học nhóm
bài đọc - hiểu còn nhiều hạn chế ít được giáo viên chú trọng bởi lẽ cả giáo viên và
học sinh đôi khi còn mơ hồ về khái niệm đọc - hiểu, bản chất của đọc - hiểu cũng
như cách thức tiến hành đọc - hiểu một văn bản. Đặc biệt bản thân học sinh chưa
thấy rõ vai trò quan trọng của nhóm bài này nên chưa cảm thấy hứng thú trong quá
trình học tập. Ý thức được điều đó và dựa vào nội dung chương trình sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 11 Nâng cao, tôi đã mạnh dạn vận dụng lí thuyết kiến tạo trong

việc dạy học nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn
11 Nâng cao và thực tế các tiết học đã đạt được kết quả tốt.
1


B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
1.1. Kiến tạo là gì?
Kiến tạo là động từ chỉ hành động của con người tác động lên một đối tượng,
một hiện tượng, hay một quan hệ, để biến đổi đối tượng cũ, tạo nên một đối
tượng mới theo nhu cầu của bản thân. Quả vậy, Từ điển Tiếng Việt xác định,
kiến tạo nghĩa là “xây dựng nên” [35; tr 940].
1.2 Vai trò của lí thuyết kiến tạo trong dạy học
Lí thuyết kiến tạo xuất phát từ một quan điểm của J.Piaget (nhà tâm lý học
lỗi lạc người Thụy Sỹ) về cơ cấu nhận thức. Theo quan điểm này thì nhận thức
của con người dù ở bất cứ cấp độ nào cũng đều thực hiện các thao tác trí tuệ
thông qua hai hoạt động là đồng hóa và điều ứng các kiến thức và kỹ năng đã có
để phù hợp với môi trường học tập mới.
Lí thuyết kiến tạo nhấn mạnh đến vai trò chủ động của học sinh trong quá
trình học và sự tiếp thu tri thức cho bản thân mình. Học sinh không học bằng
cách tiếp cận tri thức do người khác truyền cho “mà bằng cách đặt mình vào
môi trường học tập tích cực, chủ động đồng hóa và điều ứng các kiến thức và kĩ
năng đã có để phát hiện vấn đề từ đó xây dựng nên những hiểu biết mới” [5; tr
382]. Thông qua việc tích cực giải quyết các tình huống học tập đó mà người
học tự xây dựng nên những hiểu biết của bản thân. Lí thuyết kiến tạo nhấn mạnh
đến vai trò của các kinh nghiệm đã có của người học và sự tương tác giữa các
kinh nghiệm này với môi trường trong quá trình học tập của học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề
Lí thuyết kiến tạo đã được ứng dụng rộng rãi trong việc dạy học các môn
học tự nhiên như: Toán; Vật lí; Hóa học; Sinh học nhưng đối với bộ môn Ngữ

văn, thực sự chưa có công trình chuyên sâu nào, việc vận dụng lí thuyết kiến tạo
bước đầu mới chỉ được đề cập trong luận văn như: “Vận dụng lí thuyết kiến tạo
vào quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá học phần ngữ pháp Tiếng Việt”
(Nguyễn Hữu Cảnh); “Vận dụng lí thuyết kiến tạo vào dạy học truyện ngắn “Vợ
nhặt”ở nhà trường trung học phổ thông” (Nguyễn Ngọc Hiền). Do vậy việc vận
dụng lí thuyết kiến tạo vào giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông là vấn đề mới mẻ cần được giáo viên vận dụng trong giảng dạy nhằm tạo
được hiệu quả cao trong các giờ dạy.
Vấn đề đọc - hiểu đều được đề cập đến trong hai bộ sách giáo khoa Ngữ
Văn THPT. Tuy nhiên, bộ sách giáo khoa Ngữ Văn THPT Nâng cao trình bày
vấn đề đọc - hiểu một cách hệ thống hơn thông qua nhóm bài về lý thuyết đọc hiểu. Cụ thể: Lớp 10 - 4 tiết, lớp 11 - 5 tiết, lớp 12 - 2 tiết. Mặc dù số lượng tiết
học không nhiều, song nó đã cung cấp những kiến thức lý thuyết nền tảng về
vấn đề đọc - hiểu, đồng thời từng bước định hình kỹ năng đọc - hiểu văn bản cho
học sinh.
Nhận thức được vai trò của nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản song
giáo viên và học sinh đôi khi còn mơ hồ về khái niệm đọc - hiểu, bản chất của
đọc - hiểu cũng như cách thức tiến hành đọc - hiểu một văn bản. Đặc biệt bản
2


thân học sinh chưa thấy rõ vai trò quan trọng của nhóm bài này nên chưa cảm
thấy hứng thú trong quá trình học tập. Qua thực tế cho thấy cả giáo viên và học
sinh đều ít hứng thú khi dạy và học nhóm bài này bởi lẽ do tính chất của bài học
thiên về lý thuyết khô cứng nên việc dạy và học vô cùng khó khăn. Bởi vậy việc
tìm ra giải pháp để khắc phục tình trạng trên là điểu tôi trăn trở trong quá trình
trực tiếp giảng dạy.
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
3.1 Giải pháp thực hiện
Trong dạy học kiến tạo, chủ thể học tập chính là HS - trung tâm của quá
trình dạy học. LTKT đề cao quá trình nhận thức của người học để có thể tự kiến

tạo kiến thức cho riêng mình. Chủ thể của quá trình học tập cần phải tích cực
sáng tạo trong tư duy với các cách thức tiến hành như: hăng hái phát biểu ý kiến,
tích cực tham gia thảo luận trao đổi với GV và HS, chủ động tham gia giải quyết
các tình huống có vấn đề.
Để có thể kiến tạo nên chủ thể học tập tích cực và sáng tạo, khi dạy học
nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản trong SGK Ngữ văn 11 Nâng cao, GV
cần phải biết sử dụng linh hoạt các phương pháp, biện pháp dạy học như: Dạy
học nêu vấn đề, dạy học nhóm, dạy học khám phá có hướng dẫn, dạy học theo
định hướng đối thoại,…
Mỗi phương pháp đều có ưu điểm và hạn chế. Vì vậy, GV cần phải biết
cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo để phát huy hết mặt tích cực, hạn chế yếu kém
của mỗi phương pháp trong từng tình huống dạy học cụ thể. Và đặc biệt trong
dạy học nhóm bài này, GV cần phải biết cách chuyển hóa các phương pháp, biện
pháp đó thành các chiến thuật đọc - hiểu cụ thể. Bởi lẽ, đây sẽ là những cách
thức làm cho HS hoạt động, có nhu cầu, hứng thú trong học tập chứ không thụ
động, ỉ lại ở GV.
Chiến thuật đọc - hiểu là “những biện pháp, những thủ thuật, những cách
thức, thao tác nhất định nhằm dẫn dắt quá trình nhận thức của học sinh để
chiếm lĩnh, kiến tạo ý nghĩa của văn bản một cách tích cực, chủ động hiệu quả”
[14; tr 57]. Chiến thuật là “bước đệm”, “là cây cầu nối không thể thiếu để bạn
đọc học sinh trở thành một độc giả độc lập” thuần thục, có kĩ năng và sáng tạo.
Để phát huy vai trò chủ động tích cực của HS trong dạy học nhóm bài hướng
dẫn đọc - hiểu, GV cần phải hướng dẫn HS sử dụng các chiến thuật đọc - hiểu để
phù hợp với đặc điểm của nhóm bài này. Các chiến thuật GV sử dụng cụ thể
như:
+ Chiến thuật KWL
Chiến thuật KWL là sơ đồ liên hệ các kiến thức đã biết liên quan đến bài
học, các kiến thức muốn biết và kiến thức học được sau bài học. Trong đó
K(Know) - Những điều đã biết; W (Want to know) - Những điều muốn biết; L
(Learned) - Những điều đã học được) [20; tr 73].

+ Chiến thuật “Tổng quan về văn bản”
Đây là chiến thuật tiến hành nhằm quan sát khái quát, tổng thể để phỏng
đoán và đánh giá sơ bộ nội dung, hình thức của văn bản trước khi bước vào hoạt
3


động đọc [4; tr 70]. Người đọc có thể chú ý đến: nhan đề, lời đề từ, tác giả, hoàn
cảnh ra đời, thể loại, phong cách nhà văn,… để tạo tâm thế đọc, kích thích
những tri thức cần thiết để hoạt động đọc có thể diễn ra dễ dàng hơn.
+ Chiến thuật “Đánh dấu và ghi chú bên lề”
Đọc - hiểu văn bản là quá trình trước hết người đọc làm việc với cấu trúc
ngôn từ để giải mã, nắm bắt thông tin. Để nắm bắt được vấn đề “cốt lõi” mà tác
giả muốn gửi gắm, muốn trình bày, người đọc cần nắm được các từ “chìa khóa”
những chi tiết nghệ thuật quan trọng có trong văn bản. “Đánh dấu” là cách
người đọc học tiến hành “gạch chân các từ ngữ, các chi tiết, hình ảnh quan
trọng trong văn bản”. Điều này sẽ giúp người học hiểu được nội dung của văn
bản cũng như nắm bắt được ý tưởng then chốt và cách thức tổ chức, triển khai
nội dung của tác giả.
+ Chiến thuật “Cộng tác ghi chú”
Chiến thuật này được sử dụng phối hợp với chiến thuật “Đánh dấu và ghi
chú bên lề”. Chiến thuật này được GV tiến hành chia nhóm (nhóm nhỏ hoặc
nhóm lớn). Các thành viên trong nhóm chuyển bản ghi chú cá nhân của mình về
văn bản tới thành viên khác. Lần lượt từng cá nhân đọc các ghi chú của bạn và
thêm các ghi chú khác của mình vào sau đó luân phiên chuyển tiếp. Quá trình
này cứ được tiếp tục cho đến khi bạn đọc ban đầu nhận được lại phiếu ghi chú cá
nhân của mình khi đã có đầy đủ ý kiến cộng tác của các bạn trong nhóm.
Nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản trong SGK Ngữ văn 11 Nâng cao
với đặc điểm của nội dung đó là sự tổng kết những kiến thức đã học để hình
thành và củng cố những kĩ năng cho HS. Do vậy, việc áp dụng chiến thuật này
sẽ giúp học sinh gợi nhớ đến kiến thức, kinh nghiệm đã có của mình để khái

quát lên thành phương pháp, cách thức, kĩ năng đọc - hiểu văn bản.
3.2. Cách tổ chức thực hiện
- Chúng tôi lựa chọn và tiến hành thực nghiệm bài “Đọc tiểu thuyết và
truyện ngắn” (tiết 52 - tuần 13) trong số nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản
của SGK Ngữ văn 11 Nâng cao.
- Địa bàn thực nghiệm được lựa chọn là trường THPT Ba Đình - Nga Sơn Thanh Hóa. Chúng tôi chọn 2 lớp 11C, 11K với sĩ số tương ứng là 45 và 46 học
sinh, làm hai lớp thực nghiệm và đối chứng.
- Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi tiến hành dạy song song các lớp
thực nghiệm (dạy bằng thiết kế bài học đã được đề xuất) và đối chứng (dạy học
bằng bài soạn thông thường của giáo viên) trong cùng một khoảng thời gian,
cùng nội dung bài: “Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn”.
- Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi quan sát thái độ, ý thức và kết quả
học tập của học sinh các lớp thực nghiệm và đối chứng để đánh giá một cách
khách quan chất lượng của mỗi giờ học. Sau tiết dạy, chúng tôi trao đổi để rút
kinh nghiệm cho những nghiên cứu trong đề tài luận văn.
- Cuối đợt thực nghiệm sư phạm, chúng tôi tiến hành kiểm tra như nhau đối
với cả hai nhóm về mức độ nắm vững kiến thức và vận dụng của học sinh, so
4


sánh tỷ lệ giữa hai nhóm để rút ra kết luận về giả thuyết khoa học đã được đề
xuất.
3.3.Nội dung và tổ chức thực nghiệm
3.3.1. Nội dung thực nghiệm
Dạy học bài:”Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn” theo quan điểm lí thuyết
kiến tạo.
3.3.2. Giáo án thực nghiệm:
Tiết 51: ĐỌC TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN
I. Mục tiêu bài học
Học sinh nắm được:

- Đặc điểm chung của thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn.
- Từ hiểu biết về thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn để xác lập cách đọc - hiểu
hai thể loại này, vận dụng vào đọc - hiểu các văn bản tiểu thuyết, truyện ngắn cụ
thể.
II. Phương pháp và chuẩn bị cho bài học
Bài học tập trung vào:
- Đặc điểm của tiểu thuyết và truyện ngắn, cụ thể phân tích trên các phương
diện: Hình tượng nhân vật; Cốt truyện, chi tiết; Sự miêu tả hoàn cảnh; Kết cấu;
Lời kể.
- Các định hướng, cách thức đọc - hiểu tiểu thuyết và truyện ngắn.
Cách thức triển khai bài học.
Đây là bài học thuộc tuần 13, tiết 51 học kì I của chương trình Ngữ văn lớp
11 Nâng cao. Kiến thức của bài học được thể hiện trong SGK khá chi tiết trong
gần 3 trang giấy (gồm cả phần kết quả cần đạt). Phần luyện tập dung lượng ít
hơn, 1 trang giấy với 2 bài tập gắn với các nội dung lí thuyết đã trình bày. Khi
học bài học này, HS đã có những hiểu biết và kinh nghiệm trong quá trình đọc
các văn bản tiểu thuyết và truyện ngắn trước đó. Trong phạm vi của 1 tiết học,
với nội dung kiến thức nhiều như vậy, điều quan trọng đó là: người học cần tự
khái quát các đặc điểm chung của tiểu thuyết và truyện ngắn để từ đó chỉ ra cách
thức đọc - hiểu phù hợp với các đặc trưng được khái quát trên cơ sở đó luyện tập
để củng cố và khắc sâu thêm kiến thức.
- Để giờ học được tiến hành phù hợp với điều kiện thời gian cho phép, quá
trình làm việc đạt hiệu quả cao, GV yêu cầu học sinh chuẩn bị trước một phần
phiếu học tập ở nhà và sẽ sử dụng kết quả đọc - hiểu văn bản của mình trong quá
trình học tập trên lớp. GV chuẩn bị máy chiếu đa vật thể để trực quan nội dung
làm việc của học sinh.
- GV hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo yêu cầu.
+ Dựa vào kiến thức và kinh nghiệm của bản thân, học sinh tự hoàn thiện
mục (1) và (2) trong phiếu học tập số 1 theo yêu cầu sau:
(1) Những điều em biết về tiểu thuyết, truyện ngắn và các kiến thức, hiểu biết

khác theo em có liên quan đến nội dung bài học (Ví dụ: Kiến thức về đọc - hiểu văn
bản văn học, kiến thức về văn bản văn học,…)?
(2) Điều em muốn biết từ bài học này là gì?
5


Lưu ý: Học sinh có thể sử dụng các ký hiệu, viết tắt để xác định nội dung
cần điền vào phiếu học tập theo những chỉ dẫn trên.
Đây là cách giáo viên giúp học sinh tự huy động kiến thức nền, khởi động
giản đồ nhận thức (Schema) của từng cá nhân làm cơ sở để đồng hóa và điều
ứng những kỹ năng mới. Ý tưởng của phiếu học tập sẽ giúp học sinh chủ động,
tự giác trong việc xác định động cơ, mục tiêu bài học và chủ động, tự giác, tích
cực đạt đến mục tiêu đó trong suốt giờ học.
Mẫu phiếu số 1: Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn
(1) Điều em đã biết có
liên quan đến bài học

(2)Điều em muốn biết
từ bài học

(3) Điều em thu hoạch
được qua bài học

+ Em hãy đọc toàn bộ văn bản “Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn” trong
SGK, sau đó hãy gạch chân các luận điểm, các từ ngữ em cho là quan trọng, ghi
chú bên lề sách những ký hiệu nếu thấy cần thiết (các khái niệm em băn khoăn,
các câu hỏi đặt ra khi đọc, liên tưởng, suy nghĩ của em khi đọc,…)
III. Tiến trình giờ học
Hoạt động 1: Khởi động và tạo tâm thế học tập tích cực từ kết quả làm
việc cá nhân của học sinh trước giờ học

GV mời học sinh chia sẻ kết quả học tập của học sinh trong phiếu học tập
số 1.
(Ví dụ, qua quan sát cô thấy các em hoàn thành phiếu học tập rất chu đáo.
Vậy em nào có thể chia sẻ với cả lớp kết quả làm việc của mình? GV gọi 2-3 em
trình bày), sau đó chọn một vài phiếu học tập để trình chiếu.
GV chốt vấn đề: Qua những chia sẻ của các em về nội dung của phiếu học
tập, cô thấy các em đã kể tên được rất nhiều tác phẩm cụ thể thuộc thể loại
truyện ngắn và tiểu thuyết mà các em đã được học trong chương trình, có thể
thấy trí nhớ của các em rất tốt. Các em đã bổ sung nguồn tri thức đọc - hiểu có
liên quan đến thể loại rất thú vị. Qua quan sát cô thấy các em đã trình bày khá
tốt được 4 bước đọc - hiểu văn bản văn học nói chung. Nhìn chung, các em
chuẩn bị bài ở nhà rất tích cực. Nhưng nội dung của chúng ta hôm nay là một
bài mới - bài “Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn”. Vậy các em muốn biết được
điều gì qua bài học này? (chiếu 1-2 phiếu học tập cột 2 của học sinh). Muốn biết
được điều đó chúng ta sẽ cùng tìm hiểu nội dung bài học hôm nay.
VD minh họa phiếu của học sinh số1:
Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn
(3) Điều em
(1) Điều em đã biết có liên
(2) Điều em muốn biết từ bài
thu hoạch
quan đến bài học
học
được qua
bài học
- Em đã học các tiểu thuyết, - Em nghĩ không biết đọc tiểu
truyện ngắn như: Chuyện chức thuyết và truyện ngắn có giống
phán sự đền Tản Viên, Hoàng nhau không?
6



Lê nhất thống chí, Số đỏ, Hai
đứa trẻ, Chữ người tử tù, Chí
Phèo,…Em còn đọc thêm các
tác phẩm như: Tốt - tô - chan,
Cô bé bên cửa sổ, Chuyện của
Pi,…
- Em thấy thích đọc các truyện
và tiểu thuyết hiện đại vì gần
gũi và dễ hiểu.
VD Phiếu của học sinh số 2:

- Em muốn biết cách đọc hai thể
loại này như thế nào?
- Em muốn được giới thiệu thêm
các tác phẩm mới để tìm đọc.

(1) Điều em đã biết có liên
quan đến bài học

(2) Điều em muốn biết từ bài
học

- Qua việc đọc các truyện ngắn
và tiểu thuyết em thấy số lượng
câu chữ trong tiểu thuyết nhiều
hơn truyện ngắn.
- Trong tiểu thuyết em thấy có
nhiều nhân vật và sự việc hơn
trong truyện ngắn.

- Em đã được đọc và xem trên
Ti-vi các tác phẩm truyện ngắn
và tiểu thuyết được chuyển thể
thành phim như: Số đỏ, Làng
Vũ Đại ngày ấy (Chí Phèo, Lão
Hạc), Chị Dậu (Tắt đèn),
Hoàng Lê nhất thống chí, Tây
du kí, Thủy Hử, Tiếng chim hót
trong bụi mận gai, Hồng lâu
mộng,..

- Em muốn biết làm thế nào để
đọc và lĩnh hội được các nội dung
trong truyện ngắn và tiểu thuyết.
- Em nghĩ rõ ràng giữa tiểu thuyết
và truyện ngắn khác nhau nhưng
không biết chúng có những điểm
chung gì?
- Em muốn biết thêm về các tác
phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn
của Việt Nam và của nước ngoài
vì nó hay và hấp dẫn.

(3) Điều em
thu hoạch
được qua
bài học

GV chốt vấn đề: Như vậy không phải đến bài học này chúng ta mới đọc
tiểu thuyết và truyện ngắn, cô giáo cảm thấy vui mừng vì các em đã biết mở

rộng phạm vi đọc, những điều các em muốn biết sẽ dẫn chúng ta vào bài học
hôm nay.
Hoạt động 2: Tìm hiểu mục I - Đặc điểm chung của tiểu thuyết và
truyện ngắn.
Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung cụ thể của phần I; giáo viên nêu tính
chất của bài: Đây là bài lí luận văn học về thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn
nhằm mục đích hướng dẫn đọc các thể loại đó. Tiểu thuyết và truyện ngắn là hai
thể loại khác nhau nhưng yêu cầu của bài học chưa cần đi vào tìm hiểu sự khác
biệt mà chỉ yêu cầu biết được các đặc điểm chung của chúng.
7


Học cách đọc tiểu thuyết, truyện ngắn giúp học sinh biết cách tiếp cận
những văn bản thuộc thể loại này, các em có thể tự đọc lại các tác phẩm đã được
học, vận dụng kiến thức, kĩ năng vào đọc các sáng tác khác trong chương trình.
Qua phần chuẩn bị phiếu học tập 1 ở nhà, nhìn vào nội dung của ô 1, cô
thấy tất cả các em đều chỉ ra đúng tên các tác phẩm là tiểu thuyết, truyện ngắn.
Những tác phẩm này rất khác nhau. Mỗi một tác phẩm là một thông điệp thẩm
mĩ cụ thể. Nhưng chúng đều được các em xếp loại vào tiểu thuyết, truyện ngắn.
Vậy các em có thể lí giải được vì sao lại như vậy không?
- HS sẽ nhận ra các tác phẩm trên đều có: Hình tượng nhân vật; Cốt truyện,
chi tiết; Sự miêu tả hoàn cảnh; Kết cấu; Lời kể.
- Để đi vào tìm hiểu nội dung từng phần, GV chia lớp thành 5 nhóm và phát
phiếu học tập trắng sau đó HS tự hoàn thiện nội dung vào phiếu. Sau đó mỗi
nhóm lấy ví dụ để phân tích, trình bày, làm sáng tỏ nội dung.
- Nội dung cụ thể của từng nhóm được minh họa như sau:
1. Hình tượng nhân vật
Nhóm 1: Học sinh chọn nhân vật Chí Phèo và trình bày như sau:
Phương diện biểu hiện
Mối quan hệ của Ý nghĩa của

Ngoại hình, nội tâm, hành động,
các nhân vật &
nhân vật
Nhân biến cố, ngôn ngữ của nhân vật nhân vật với hoàn
trong tác
vật
cảnh xung quanh
phẩm
Chí - Ngoại hình: Cái đầu thì trọc
Phèo lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
Chí Phèo - Thị Nở - Chí Phèo là
mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai Chí Phèo - Bá
hiện thân của
mắt gườm gườm trông gớm chết;
Kiến
kiếp lương
cái ngực phanh đầy những nét
Chí Phèo - Hoàn
thiện bị chà
chạm trổ rồng phượng…
cảnh xã hội làng
đạp, bị làm
- Nội tâm: Có sự thay đổi qua từng
Vũ Đại.
biến dạng,
giai đoạn: Trước khi vào tù → Sau
nhưng luôn
khi ra tù → Khi gặp Thị Nở → Khi
khát khao trở
Thị Nở dừng yêu.

lại làm người
- Hành động : Chửi, say, ăn vạ,
- Tố cáo xã
đến với Thị Nở, đòi lương thiện;
hội áp bức,
giết Bá Kiến và tự sát.
vô nhân tính.
- Ngôn ngữ : Có cách nói riêng. Ví
- Sự đồng
dụ, Tiếng chửi của Chí Phèo: Hắn
cảm của nhà
vừa đi vừa chửi. Bao giờ cứ rượu
văn với các
xong là hắn chửi; Hắn chửi trời;
nạn nhân của
Hắn chửi đời; chửi cả làng Vũ
xã hội đó.
Đại.. chửi cả đứa chết mẹ nào đẻ
ra hắn.
2. Cốt truyện, chi tiết
Nhóm 2 lấy ví dụ để minh họa cho phần nội dung:
8


Tên tác
phẩm
“Chữ
người tử
tù”
(Nguyễn

Tuân)

“Hạnh
phúc của
một tang
gia” (Số
đỏ - Vũ
Trọng
Phụng).

Cốt truyện

Chi tiết

Viên Quản Ngục nhận được phiến trát về
6 tên tử tù bị án chém, trong đó người
đứng đầu là Huấn Cao. Huấn Cao là một
bậc văn võ song toàn.Viên Quản Ngục
muốn có được chữ của Huấn Cao nên
ông biệt đãi và trân trọng Huấn Cao.
Chính tấm lòng của Viên Quản Ngục
làm Huấn Cao cảm động. Ông chịu cho
chữ. Một cảnh tượng xưa nay chưa từng
có diễn ra trong ngục tối. Sau khi cho
chữ, Huấn Cao khuyên Viên Quản Ngục
về quê sống để giữ thiên lương cho cho
lành vững.
Sau ba ngày ngắc ngoải, cụ cố tổ hơn 80
tuổi chết thật. Cụ cố Hồng, vợ chồng
Văn Minh, ông phán mọc sừng, cậu Tú

Tân, cô Tuyết... cả bọn con cháu đều vô
cùng sung sướng. Người chết được quan
trên khám qua loa đã khâm liệm, gần
một ngày rồi mà chưa phát phục. Sau khi
cụ bà đi thu xếp việc việc cưới chạy tang
cho cô Tuyết không đi đến đâu, Văn
Minh hứa sẽ tìm cách lấy chồng cho
Tuyết một cách danh giá, thì cố Hồng
mới chịu cho phát phục. Bày con cháu
tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó,
gọi phường kèn, thuê xe đám ma. Bảy
giờ sáng ngày hôm sau thì cất đám. Đám
ma được tổ chức theo cả lối Tàu, lối Tây.
Đám ma là cơ hội để những nam thanh
nữ tú cười tình tứ với nhau, bình phẩm
nhau, chê bai nhau...

Cuộc gặp gỡ giữa Huấn
Cao và Viên Quản Ngục;
Cảnh Huấn Cao cho chữ.

Cái chết không thể tránh
khỏi của cụ già với hàng
loạt sự từ chối của các
nhà danh y, hay sự bất
lực của y học; Tiếng
khóc lộ liễu và hành vi
kín đáo của ông Phán
mọc sừng; Điệu bộ của
cô Tuyết,…


Qua ví dụ minh họa trên, HS tự rút ra kết luận: Cốt truyện là hệ thống sự kiện
(biến cố) xảy ra trong đời sống của nhân vật. Chi tiết là những biểu hiện cụ thể lắm
khi nhỏ nhặt, nhưng lại cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của
chúng, đồng thời thể hiện sự quan sát và nghệ thuật kể chuyện của tác giả.
2. Miêu tả hoàn cảnh
Nhóm 3 minh họa cho phần nội dung được GV giao nhiệm vụ.

9


Tên tiểu
thuyết,
truyện
ngắn
Lão Hạc

Hoàn cảnh

Tác dụng

Vợ mất sớm, con trai đi biền biệt. - Hoàn cảnh có tác dụng biểu
Cảnh đói kém, mất mùa dồn lão hiện cuộc sống nghèo khó và
Hạc vào đường cùng phải bán cậu số phận bất hạnh, đáng thương
Vàng - người bạn thân của lão và của người nông dân Việt Nam
rồi lão cũng kết liễu đời mình.
trước Cách mạng tháng tám.
Hai đứa - Cảnh chiều hôm nơi phố huyện: Bức tranh phố huyện êm ả
trẻ
“Tiếng trống thu không trên cái nhưng thấm đượm một nỗi

chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một buồn như chính nỗi buồn
vang ra để gọi buổi chiều”, Tiếng trong tâm hồn của cô bé Liên
ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve, đồng thời gợi cuộc sống buồn
mặt trời tàn, cái chõng nát, phiên tẻ, ngưng đọng và niềm khao
chợ vãn, những đứa trẻ nghèo lom khát ánh sáng của con người
khom nhặt nhạnh các thứ của người phố huyện.
bán hàng để lại…
Cảnh đêm tối….
Như vậy có thể thấy sự miêu tả hoàn cảnh có tác dụng biểu hiện địa vị, tâm
tình nhân vật và gây hứng thú cho người đọc.
4. Kết cấu
Nhóm 4 trình bày nội dung của phần 4 theo sơ đồ sau:
Điểm chung kết cấu tiểu thuyết và truyện ngắn

-Phần mở đầu và kết
thúc có sự phối hợp để
tạo ra ý nghĩa tác phẩm.
- Ví dụ: Truyện “Lão
Hạc” và “Chí Phèo”
của Nam Cao nếu mở
đầu bằng cái chết của
nhân vật chắc không bất
ngờ cho người đọc như
truyện vốn có.

-Là sự lựa chọn và sắp
xếp các chi tiết đời sống
có tác dụng làm nổi bật
ý nghĩa của tác phẩm.
- Ví dụ: Trong tác phẩm

“Chữ người tử tù” của
Nguyễn Tuân, chi tiết
nhân vật Viên Quản
Ngục có thái độ cư xử
khác thường (cho dọn
buồng giam, dâng rượu
thịt..), cam chịu khổ tâm
không dám giãi bày (bị
Huấn Cao đuổi ra khỏi
buồng giam và không
cho đặt chân đến nữa),

- Sự sắp xếp thứ tự các
chương, đoạn tạo sự chờ
đợi gây hứng thú cho
người đọc.
- Ví dụ: Trong truyện
“Chí Phèo” đoạn mở
đầu Chí Phèo “chửi” là
kĩ thuật vào giữa vấn đề
(chặt một khúc quan
trọng nhất trong cuộc
đời của nhân vật chính
để xây dựng truyện
ngắn; đặt số phận của
nhân vật vào đoạn “chói
sáng” nhất để chuẩn bị
cho một “thảm họa”).
10



cảm động nghẹn ngào
(được Huấn Cao cho chữ
và khuyên) có ý nghĩa đó
là: Ngục quan tiêu biểu
cho người tuy không sáng
tạo ra cái đẹp nhưng biết
quí trọng và thực lòng say
mê cái đẹp.

Người đọc sẽ băn khoăn
và đặt ra câu hỏi: Không
biết vì sao mà Chí Phèo
chửi nhiều thế? Phải
chăng cuộc đời của anh
ta có uẩn khúc gì đó!
Thứ tự của các đoạn sau
sẽ lí giải điều này…

5. Lời kể
Nhóm 5 trình bày nội dung đã chuẩn bị
Vị trí
Ví dụ minh họa
Cách dùng từ ngữ trong Hắn, thị; cách kể lại tiếng chửi
xưng hô, miêu tả thể hiện của Chí Phèo, lời kể không cho ta
điểm nhìn của người kể biết Chí Phèo chửi cụ thể bằng
trong việc hướng dẫn những lời lẽ nào (thô tục không
người đọc cảm thụ tác cần thiết) mà chỉ cho ta thấy tâm
phẩm
trạng phẫn uất của nhân vật…

Lời kể trong Ngôn ngữ trong truyện Lời kể trong Chí Phèo giàu kịch
tiểu thuyết và thường có tính mới mẻ, sáng tính và tính đối thoại.
truyện ngắn
tạo có cá tính của tác giả.
Phong cách lời văn của Trong “Hạnh phúc của một tang
tác giả thường có giọng gia” có giọng điệu mỉa mai và
điệu riêng.
giàu tính hài hước.
GV cần cho HS nhận xét, bổ sung phần trình bày của các nhóm và chốt lại
phần I .
Hoạt động 3: Tìm hiểu mục II - Cách đọc tiểu thuyết và truyện ngắn.
Ở phần này GV hướng dẫn HS: Đưa bảng có 2 cột, một cột nêu đặc điểm
của tiểu thuyết, truyện ngắn (HS đã hiểu tường tận phần này qua hoạt động
nhóm, vì vậy nội dung phần 1 được nêu cụ thể). Cột 2, HS suy nghĩ, căn cứ vào
thực tiễn đọc của bản thân để điền vào ô thứ 2 và phát biểu ý kiến.Trên cơ sở đó
GV tổng hợp vấn đề. Mẫu phiếu như sau:
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
Từ đặc điểm chung của tiểu thuyết, truyện ngắn cùng hoạt động đọc các tác
phẩm này trong và ngoài chương trình và nội dung đã ghi chú, đánh đấu bên lề
qua phần chuẩn bị bài ở nhà, em hãy ghi lại vắn tắt cách thức đọc- hiểu hai thể
loại đó vào ô thứ (2.1) trong phiếu học tập dưới đây. Trao đổi phiếu để bạn bên
cạnh chia sẻ, đóng góp ý kiến.
(Phiếu này sau khi làm việc cá nhân sẽ chuyển cho bạn bên cạnh để bổ sung
cùng kiến tạo bài học).
11


(1)Đặc điểm chung
của tiểu thuyết,
truyện ngắn


(2) Cách đọc tiểu thuyết và truyện ngắn
2.1. Ý kiến của tôi

2.2. Chia sẻ của bạn

- Hình tượng nhân
vật
- Cốt truyện, chi tiết
- Sự miêu tả hoàn
cảnh
- Kết cấu
- Lời kể
Sau đó, giáo viên gọi 1-2 học sinh trình bày. Trên cơ sở đó GV chốt lại nội dung
như sau: Như vậy có 3 bước để tiến hành đọc tiểu thuyết và truyện ngắn đó là:
- Bước 1: Đọc - Nhận diện: Hình tượng nhân vật; Cốt truyện, chi tiết; Miêu
tả hoàn cảnh; Kết cấu; Lời kể.
Đối với hình tượng nhân vật, HS cần nắm được tên nhân vật, nhân vật
chính, nhân vật phụ, các chặng đời của nhân vật, kết cục của nhân vật,.. Với cốt
truyện, chi tiết: Các sự việc chính nào, các chi tiết nào về ngoại hình, các chi tiết
nào về hành động, các chi tiết nào về nội tâm, các chi tiết nào về ngôn ngữ, các
chi tiết nào về hoàn cảnh,…. Với sự miêu tả hoàn cảnh: Câu chuyện xảy ra ở
đâu, vào thời điểm nào (không gian, thời gian), trong điều kiện sống ra sao,…
Với kết cấu: Đâu là mở đầu, đâu là kết thúc; Các chi tiết được sắp xếp theo trật
tự như thế nào; Các chương, phần, đoạn được sắp xếp thế nào; Với lời kể: Đâu
là lời kể, ai là người kể, kể về việc gì,…
- Bước 2 : Đọc - Phân tích
(Bước này hoạt động đọc có thể trở đi trở lại nhiều lần, gắn với suy tưởng,
ngẫm nghĩ, đánh giá của độc giả):
+ Phân tích nhân vật là phân tích được về ngoại hình, nội tâm, hành động,

biến cố, ngôn ngữ của nhân vật; Mối quan hệ của các nhân vật với hoàn cảnh
xung quanh; Ý nghĩa của nhân vật trong tác phẩm.
+ Phân tích kết cấu (Từ việc nhận diện kết cấu phải phân tích, cắt nghĩa vì
sao tác giả lại mở đầu và kết thúc như vậy, sắp xếp các chương phần, đoạn…
như vậy? Việc thay đổi có làm mất mát gì không?)
+ Phân tích lời kể : Qua cách xưng gọi, cách miêu tả, điểm nhìn trần thuật,
các biện pháp tu từ có thể nắm bắt rất nhiều thông tin về tình cảm, thái độ,
khuynh hướng thẩm mĩ và phong cách độc đáo của nhà văn.
- Bước 3: Đọc - khái quát hóa ý nghĩa và bộc lộ suy ngẫm của bản thân.
Trên cơ sở hoạt động phân tích, người đọc khái quát được: Tác phẩm muốn
gửi đến người đọc thông điệp gì? Giá trị của thông điệp ấy ra sao? Với học sinh
ngày nay, thông điệp ấy bồi đắp, tâm hồn, tình cảm và giá trị sống, kĩ năng sống
cho chúng ta như thế nào?
- GV tóm tắt nội dung bằng cách cho HS điền thông tin vào bảng sau:
12


Đọc tiểu thuyết và
truyện ngắn

Các bước đọc tiểu thuyết và truyện ngắn

Hoạt động 4: Thể nghiệm đọc - hiểu truyện ngắn và tiểu thuyết.
Giáo viên cho học sinh thể nghiệm cách đọc qua việc tìm hiểu truyện ngắn:
“Hương ổi” (Nguyễn Phan Hách). Các câu hỏi và nội dung của câu trả lời được
học sinh trình bày trong phiếu học tập.
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3
Các bước
Nội dung đọc - hiểu của truyện ngắn “Hương ổi”.
đọc- hiểu

Đọc - nhận diện Nhân vật……………………………………………………
Cốt truyện, chi tiết…………………………………………
Hoàn cảnh………………………………….………………
Kết cấu……………………………………………………
Lời kể………………………………………………………
Đọc - phân tích
Nhânvật……………………………………………………
Kết cấu………………………………………………..……
Lời kể:……………………………………………………..
Đọc - khái quát Thông điệp nghệ thuật:…………………………………….
hóa ý nghĩa và Suy ngẫm của em về thông điệp nghệ thuật của truyện:
suy ngẫm
………………………………………………………
HS hoàn thành phiếu học tập để phát biểu. GV gợi ý để HS đạt được nội
dung cơ bản sau:
- Nhân vật trong chuyện là: Tôi; Cha của nhân vật tôi; Mẹ của nhân vật tôi;
Ngân; Mẹ Ngân; Cha Ngân.
- Kết cấu của truyện : Phần mở đầu và phần kết thúc của truyện có sự phối
hợp, các chi tiết đã có sự sắp xếp để tạo ra ý nghĩa của tác phẩm. Câu chuyện bắt
đầu bằng chi tiết Ngân sang nhà “tôi” chơi và cho một đĩa ổi chín. Truyện được
tiếp tục kể về câu chuyện hương ổi mà ở đó gắn với câu chuyện tình dang dở
của mẹ của Ngân và Cha của nhân vật tôi thời trai trẻ. Họ không đến được với
nhau và để rồi hương ổi cũng nhạt nhòa theo năm tháng. Theo thời gian con
người ta già nua và trở về với cát bụi. Cây ổi năm nào tỏa hương thơm ngát nay
cũng đã già cỗi khiến mẹ Ngân phải chặt nó để rồi bất chợt hương ổi tình đầu
thoang thoảng đâu đây… Đĩa ổi chín của ngày hôm nay được ươm lại từ giống
cũ hay phải chăng kỉ niệm của một thời cũng sẽ được sưởi ấm lại…
- Truyện được kể theo ngôi kể thứ nhất (nhân vật xưng Tôi). Điều này thú
vị ở chỗ, dường như nhân vật tôi là người thấu hiểu câu chuyện tình của người
cha. Đến bây giờ khi kể lại câu chuyện cũng là khi cô đã hiểu vì sao tuổi thơ của

cô “không bao giờ được ăn ổi nhà bên”!
- Hoàn cảnh được nói đến trong truyện đó là: Cha của nhân vật tôi và mẹ
Ngân không đến được với nhau là do “mẹ cha không ưng thầy kí nhật trình
nghèo”; Tuổi thơ của nhân vật tôi không bao giờ được ăn ổi vườn bên phải
13


chăng vì câu chuyện của cha; Mẹ của nhân vật tôi và cha của Ngân mất; Mẹ
Ngân chặt cây ổi…
- Ở phương diện đọc và suy ngẫm tác phẩm, GV định hướng cho học sinh
suy ngẫm về thông điệp của tác phẩm đó là: Trong cuộc sống chúng ta cần lưu
lại những khoảnh khắc, những kỉ niệm đẹp cho dù cuộc sống bị che phủ bởi lớp
bụi của thời gian.Từ hạt giống cũ của ngày hôm nay chúng ta hãy ươm thêm
những hạt giống mới cho tâm hồn mãi thêm xanh…
Chú ý: Nếu thời gian cho phép, GV cho học sinh làm việc thêm với ngữ liệu đọc
là truyện ngắn “Mùi của má” (Nguyễn Văn Vĩnh). Nếu không đủ thời gian GV
cho học sinh về nhà tham khảo.
Mùi của má
Chị Năm gánh hàng bán bên kia sông Hậu. Chiều, trời bão chị ngủ lại ở
nhà một người quen. Chạng vạng, ở nhà ai cũng lo lắng. Tối. Sau khi ăn bữa
cơm chiều muộn, anh Năm ru bé Tuấn ngủ trên võng, ba chị em Hồng Diệu nằm
nhớ má trên giường. Bỗng Hồng Tươi kéo chiếc áo sờn cũ của má đưa lên mũi
hít một hơi dài. Hồng Thắm, Hồng Diệu cũng giựt chiếc áo “Em hửi miếng…”,
“Tao hửi với…”.Chúng nó hít thật sâu mùi thân quen của má. Anh Năm nằm ru
con không thành lời. (“Tuyển tập 100 truyện ngắn mi-ni”)
Hoạt động 5: Giáo viên hướng dẫn HS tự tổng kết bài học.
- Giáo viên: Sau khi học xong bài “Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn”, em đã
thu hoạch được những kiến thức, kỹ năng gì? Hãy ghi những điều mình được
học vào mục (3), phiếu học tập số 1.
- Học sinh: Suy ngẫm và hoàn thành phiếu bài tập.

- Giáo viên: Dựa vào mục (3) của phiếu học tập1, học sinh tự trả lời câu hỏi
của chính mình trong mục (2).
(1) Điều em
(2)Điều em
đã biết có
muốn biết
(3) Điều em thu hoạch được qua bài
liên quan
từ bài học
đến bài học
- Đặc điểm chung của tiểu thuyết và truyện ngắn:
+ Hình tượng nhân vật.
+ Cốt truyện, chi tiết.
+ Sự miêu tả hoàn cảnh.
+ Kết cấu.
+ Lời kể
- Biết cách đọc - hiểu các tác phẩm thuộc thể loại
tiểu thuyết và truyện ngắn theo 3 bước…
- Không cảm thấy lúng túng khi học các văn bản
thuộc thể loại này vì đã tìm ra cách thức đọc hiểu hiệu quả.
14


- Giáo viên: Chiếu một vài phiếu học tập của học sinh, tổng kết và củng cố
những kiến thức học sinh cần nắm ở các phương diện.
+ Đặc điểm chung của tiểu thuyết và truyện ngắn.
+ Cách thức đọc hiểu tiểu thuyết và truyện ngắn.
+ Các kỹ năng mà học sinh cần nắm nhờ bài học này.
Hoạt động6: Củng cố và dặn dò
- GV yêu cầu HS Ôn tập lại kiến thức về đặc điểm và cách đọc tiểu thuyết

và truyện ngắn.
Giáo viên nhắc HS chuẩn bị bài: “Đời thừa” (Nam Cao)
3.3.3. Tiến hành dạy thực nghiệm theo giáo án
Để tiến hành kiểm chứng chúng tôi đã chọn một lớp thực nghiệm và một
lớp đối chứng căn cứ vào các tiêu chí giống nhau về:
+ Học lực hiện tại của học sinh 2 lớp.
+ Điều kiện cơ sở vật chất.
+ Số học sinh của hai lớp.
+ Trình độ giảng dạy của GV.
Cụ thể: Khi tiến hành dạy thực nghiệm tôi đã chọn 2 lớp 11C với sỹ số là
45 để dạy thực nghiệm và lớp 11K với sỹ số là 46 học sinh dạy đối chứng. Đây
là hai lớp có học sinh ngoan, ý thức học tập tốt, lực học của lớp khá và tương đối
đồng đều.
Trong quá trình thực nghiệm để đạt được tính khách quan, chính xác, chúng
tôi đã mời cô giáo tổ trưởng, các thầy cô trong tổ Ngữ văn cùng đến dự giờ
nhằm mục đích nhận xét, đánh giá và so sánh giờ dạy.
3.4. Kết quả thực nghiệm
Để đánh giá tính khách quan, hiệu quả của việc vận dụng LTKT vào dạy
nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn 11 Nâng
cao, chúng tôi dựa vào hai tiêu chí: Định tính và định lượng. Về định tính, chúng
tôi dựa vào nhận xét, đánh giá, góp ý của giáo viên và học sinh sau giờ dạy, còn
về định lượng, chúng tôi dựa vào kết quả của hai bài kiểm tra để đánh giá.
3.4.1. Về mặt định tính
Sau đợt dạy thực nghiệm chúng tôi đã điều tra để biết hứng thú của học
sinh với phương pháp dạy học được nghiên cứu bằng cách dùng phiếu điều tra
và đã nhận được một số ý kiến như sau:
Ý kiến của học sinh:
- Trong giờ học các em cảm thấy thoải mái hơn, các em được phát biểu ý
kiến, bày tỏ quan điểm của mình và làm việc nhiều hơn.
- Các em thích cách dạy như vậy vì các em được tự do suy nghĩ, không bị

buồn ngủ, được bày tỏ ý kiến của mình với bạn và được nghe các bạn giải thích
cho những điều mình chưa hiểu, ý kiến của các em được giáo viên và các bạn
tôn trọng.
- Không khí lớp học không đơn điệu, nhàm chán vì các hoạt động học tập
được tổ chức phong phú như: Làm việc theo nhóm, làm việc cá nhân.
15


- Kiến thức học tập mới không hoàn toàn xa lạ với các em nên các em tích
cực, hứng thú học tập hơn.
- Về nhà các em không mất nhiều thời gian ôn bài vì các em hiểu bài luôn
trên lớp.
Ý kiến của giáo viên
Qua tham khảo ý kiến của các giáo viên trong tổ đến dự giờ, các thầy cô
giáo đã đưa ra ý kiến của mình về giờ dạy. Các ý kiến đã chỉ ra ưu điểm cũng
như nhược điểm của việc vận dụng LTKT trong việc dạy nhóm bài hướng dẫn
đọc - hiểu nói chung và bài “Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn” nói riêng.
- Về ưu điểm:
+ Việc vận dụng LTKT vào dạy học nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn
bản, văn học đã phát huy được tính tích cực trong họat động nhận thức của học
sinh. Các em tự mình phát hiện và giải quyết được vấn đề. Các em chú ý quan
tâm đến những tri thức mà mình đã biết nhưng chưa có dịp đi sâu tìm hiểu. Do
vậy nhiều em đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến, quan điểm chủ quan của mình.
+ Giờ học đã chú ý nhiều đến kỹ năng thực hành của học sinh trong giờ
học, các em thực sự được làm việc.
+ Việc vận dụng LTKT vào giờ dạy học đã tạo được sự lôi cuốn, hứng thú
thực tế cho học sinh. Đa số các em hào hứng với cách học này.
+ Đa số học sinh nắm được nội dung bài học ngay ở trên lớp.
+ Giáo viên chuẩn bị nội dung bài dạy chu đáo, hệ thống câu hỏi đưa ra rất
khoa học, điều đó tạo điều kiện thuận lợi để học sinh kiến tạo tri thức học tập

mới.
- Về nhược điểm:
+ Nhiều học sinh tích cực song vẫn có một số học sinh vẫn còn làm việc
riêng, chưa tự giác, còn có thái độ ỷ lại cho các bạn.
+ Cần có đầy đủ các phương tiện trực quan phục vụ cho tiết học.
+ Mất nhiều thời gian cho việc soạn giáo án.
3.4.2. Về mặt định lượng
Nhằm xác định trình độ kiến thức hiện có của học sinh cũng như trình độ
tiếp nhận kiến thức của các em lớp 11C và 11K trước và sau khi học các tiết học
thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành cho hai lớp làm 2 bài kiểm tra trong thời
gian 45 phút. (Đề bài trình bày trong phần phụ lục). Qua kết quả của bài kiểm
tra, chúng tôi so sánh kết quả của 2 lớp đối chứng và thực nghiệm.
- Để làm tốt các bài kiểm tra, HS đã được yêu cầu soạn bài “Đọc tiểu
thuyết và truyện ngắn”. Lớp đối chứng thì soạn bài theo thông lệ, HS lớp thực
nghiệm thì soạn theo yêu cầu của phần chuẩn bị bài.

16


Bảng 3.1. Kết quả kiểm tra đề 1
Giỏi
Khá
Trung bình

Kết quả
Lớp
Lớp TN
(45 HS)
Lớp ĐC
(46HS)


Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2

4.4

25

55.5

15

33.3


3

6.8

2

4.3

27

58.6

13

28.2

4

8.9

Biểu đồ 3.1. Kết quả kiểm tra đề 1 trước thực nghiệm

Bảng 3.2. Kết quả kiểm tra của đề 2
Kết quả
Lớp
Lớp TN
(45 HS)
Lớp ĐC
(46HS)


Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

4

8.8

29


64.4

11

24.4

1

2.4

2

4.3

25

54.3

14

30.4

5

11

17



Biểu đồ 3.2. Kết quả kiểm tra đề 2 sau thực nghiệm

Bảng 3.3. Kết quả trước và sau thực nghiệm của lớp được thực nghiệm
Giỏi

Kết quả

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

Trước TN


2

4.4

25

55.5

15

33.3

3

6.8

Sau TN

4

8.8

29

64.4

11

24.4


1

2.4

Biểu đồ 3.3. Biểu đồ kết quả trước và sau thực nghiệm của lớp được
thực nghiệm

18


3.5. Kết luận chung về thực nghiệm
3.5.1. Hiệu quả của thực nghiệm
Căn cứ vào kết quả kiểm tra trước sau thực nghiệm của 2 lớp ta có các nhận
xét sau:
Sau khi thực nghiệm kết quả của cả 2 lớp thực nghiệm và đối chứng có sự
thay đổi. Ở lớp thực nghiệm, bài làm tỉ lệ % giỏi đã được tăng lên đáng kể: 4.4%; tỉ
lệ học sinh yếu giảm đi 4.4% chỉ còn 1 em so với số lượng 3 em học sinh ban đầu;
Số lượng học sinh khá tăng lên 8,9% còn học sinh trung bình giảm đáng kể (8,9%)
Trong khi đó đối với lớp đối chứng trước và sau khi thực nghiệm: Tỉ lệ học
sinh giỏi vẫn giữ nguyên chiếm 4,3%, tỉ lệ học sinh khá cũng giảm 4,3%, tỉ lệ
học sinh trung bình tăng 2,2%, kết quả loại yếu của lớp đối chứng tăng lên 1 em
chiếm 2,1%. Kết quả này cho thấy rõ tác dụng của dạy học theo quan điểm kiến
tạo đã phân hóa học sinh một cách rõ rệt hơn. Quan điểm kiến tạo đã phát huy được
năng lực tư duy sáng tạo, khả năng linh hoạt của học sinh, điều này được thể hiện
qua tỉ lệ học sinh giỏi tăng. Học sinh phát huy được khả năng của mình, học sinh
học tập tự tin, mạnh dạn, thoải mái, không khí lớp học sôi nổi hơn.
3.5.2. Hạn chế của thực nghiệm
- Việc ghi chép của học sinh còn hạn chế.
- Một số học sinh còn ỉ lại cho các bạn khi làm việc theo nhóm.

- Đôi khi không đủ thời gian cho các nhóm báo cáo và tranh luận.
- Do thời gian tiến hành thực nghiệm không dài nên chưa thể khẳng định
kết quả thực nghiệm một cách chính xác tuyệt đối. Song các kết quả thu được từ
đợt thực nghiệm đã cho chúng tôi nhiều dẫn liệu để bổ sung và chỉnh lý việc dạy
học nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản trong SGK Ngữ văn 11 Nâng cao
theo quan điểm kiến tạo.

19


C- KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Quá trình tiến hành thực nghiệm với kết quả bước đầu tương đối khả quan,
điều đó khẳng định tính khả thi và hiệu quả của việc dạy học nhóm bài hướng
dẫn đọc - hiểu văn bản theo quan điểm kiến tạo. Việc dạy học theo quan điểm
của LTKT thực sự đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh trao đổi với giáo viên
và bạn bè, hình thành môi trường học tập sôi nổi, thân thiện, học sinh nâng cao
tính tích cực, hợp tác, tự lực xây dựng kiến thức.
Những kết quả thu được về mặt lý luận và thực tiễn cho phép chúng tôi rút
ra một số kết luận như sau:
1. Nhóm bài hướng dẫn đọc - hiểu văn bản trong SGK Ngữ văn 11 Nâng
cao có vai trò đặc biệt trong việc hình thành kỹ năng đọc - hiểu của học sinh.
Qua nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, giáo viên hoàn toàn có thể vận dụng
LTKT vào việc dạy học nhóm bài này nhằm phát huy vai trò của chủ thể học sinh
trong quá trình học tập để tạo nên tri thức cho bản thân, đặc biệt tư duy của học
sinh được phát triển hơn trong tiến trình học tập.
2. Để đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới quá trình dạy và học hiện nay, dạy
học theo quan điểm kiến tạo là quan điểm dạy học tích cực góp phần nâng cao
khả năng sáng tạo trong học tập, kích thích sự tìm tòi khám phá tri thức mới. Vì
vậy cần mở rộng việc thực nghiệm phương pháp dạy học này với các kiến thức
khác trong chương trình Ngữ văn phổ thông và mở rộng địa bàn thực nghiệm

sao cho kế thừa và phát huy những kết quả đạt được.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi rút ra được trong quá trình vận dụng
lí thuyết kiến tạo vào trực tiếp giảng dạy nhóm bài hướng dẫn đọc -hiểu văn bản
trong chương trình Ngữ văn 11 Nâng cao, rất mong được sự góp ý của các nhà
chuyên môn và đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh
hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 2 tháng 5 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

Trần Thị Hà Dung

20


×