Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.56 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

TỔNG QUAN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI......................................................................................2
1.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài...............................................................................................................2
2.Các hình thức đầu tư nước ngoài trực tiếp..............................................................................................2
3.Tác động của đầu tư nước ngoài trực tiếp................................................................................................5
3.1 Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài trực tiếp..........................................................................5
3.2 Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài trực tiếp..........................................................................6
I.TÁC ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004-2011........................6
1.Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2004-2011....................................................................6
2. Phân tích tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn..............................10
2.1 Tác động tích cực FDI........................................................................................................................10
2.1.1 Bổ sung vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế..........................................................................10
2.1.2 Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế........................................................................................11
2.1.3 Góp phần vào phát triển công nghệ của Việt Nam..................................................................13
2.1.4 Thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước.......................................15
2.1.5 Cải thiện cán cân thanh toán....................................................................................................16
2.2 Tác động tiêu cực FDI.......................................................................................................................16
2.2.1 Gây bất bình đẳng và phân tầng xã hội....................................................................................16
2.2.2 Góp phần gia tăng ô nhiễm môi trường:..................................................................................17
2.2.3 “Bóp chết” các doanh nghiệp trong nước:...............................................................................17
2.2.4 Khánh kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên:...............................................................................17
2.2.5 Gây tham nhũng và thúc đẩy đô la hóa nền kinh tế................................................................20
2.2.6 Gia tăng nợ xấu ngân hàng trong nước....................................................................................20
2.BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM................21
1.Mục đích quản lý FDI...............................................................................................................................21
2.Bài học kinh nghiệm trong quản lý FDI...................................................................................................21
3.Giải pháp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam...............................................21


TỔNG QUAN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI


1.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Theo Tổ chức Thương mại Thế giới, định nghĩa về FDI như sau: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở
một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý
là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà
đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những
trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là
"công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1997 cũng đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước
ngoài hoặc bất kì tải sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh
theo quy định của luật này”.
Theo Luật đầu tư 2005: Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư thông qua việc
mua cổ phần, cố phiếu, các giấy tờ có giá khá, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các
định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư.
Qua các định nghĩa trên, ta có thể thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự di chuyển
vốn từ một nước này sang một nước khác. Có sự dịch chuyển này là do chênh lệch về năng
suất cận biên của vốn giữa các nước. sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí
sản xuất thấp hơn.
2.

Các hình thức đầu tư nước ngoài trực tiếp

Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, phổ biến là
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các hình

thức như sau:
2.1 Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài
 Theo hình thức này, nhà đầu tư được đầu tư để thành lập các tổ chức kinh tế sau đây:
 Doanh nghiệp tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp;
 Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính
khác theo quy định của pháp luật;
 Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở dịch vụ khác có
hoạt động đầu tư sinh lợi;
 Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật.


2.2 Thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo Luật hợp tác xã;
hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật
 Nhà đầu tư trong nước có dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế thì thực
hiện thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, pháp luật có liên
quan và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định
108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2009.
 Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và thực hiện
thủ tục đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và
Nghị định này. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.
2.3 Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài.
 Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư trong nước để đầu tư thành lập
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
 Doanh nghiệp thành lập theo quy định tại khoản 1 Điều này được liên doanh với nhà đầu
tư trong nước và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập tổ chức kinh tế mới theo
quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
 Doanh nghiệp thực hiện đầu tư theo hình thức liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp

luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
2.4 Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT
 Nhà đầu tư được ký kết hợp đồng BCC để hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân
chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác.
 Đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của
mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên thỏa thuận và ghi
trong hợp đồng.
 Hợp đồng BCC trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và một số tài nguyên
khác dưới hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm được thực hiện theo quy định của Luật
đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
 Nhà đầu tư ký kết hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để thực hiện các dự án xây dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa và vận hành
các dự án kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp
thoát nước, xử lý chất thải và các lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quy định.


 Chính phủ quy định lĩnh vực đầu tư, điều kiện, trình tự, thủ tục và phương thức thực hiện
dự án đầu tư; quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp
đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT.
 Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà
đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây gọi tắt là các bên
hợp doanh) thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi,
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh.
 Hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí và
một số tài nguyên khác theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm thực hiện theo quy
định của pháp luật có liên quan và Luật Đầu tư.
 Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau để tiến
hành đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế và
pháp luật có liên quan.
 Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận thành lập

ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều phối không phải là cơ
quan lãnh đạo của các bên hợp doanh.
 Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để làm đại
diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
 Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài khoản,
tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi
các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
2.5 Đầu tư phát triển kinh doanh
Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức sau đây:
 Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh;
 Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.
2.6 Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư được
góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại Việt Nam
 Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với một số lĩnh vực, ngành,
nghề do Chính phủ quy định.
 Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp để tham gia
quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.


Doanh nghiệp nhận sáp nhập, mua lại kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị
sáp nhập, mua lại, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
 Nhà đầu tư khi góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam phải:
thực hiện các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về tỷ lệ góp vốn,
hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường; tuân thủ các quy định về điều kiện tập
trung kinh tế của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về doanh nghiệp; đáp ứng điều
kiện đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
2.7 Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của Luật đầu tư, pháp luật về

cạnh tranh và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.8 Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
3.

Tác động của đầu tư nước ngoài trực tiếp

3.1 Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài trực tiếp
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng với cả nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận
đầu tư, cụ thể:
Đối với các nước tiếp nhận vốn đầu tư (Host countries):
 FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng phục vụ cho chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế cao, đặc biệt là với các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển vốn là những
nước còn nghèo, tích luỹ nội bộ thấp, nên để có tăng trưởng kinh tế cao thì các nước này
không chỉ dựa vào tích luỹ trong nước mà phải dựa vào nguồn vốn tích luỹ từ bên ngoài,
trong đó có FDI.
 FDI có ưu điểm hơn các hình thức huy động vốn nước ngoài khác, phù hợp với các nước
đang phát triển. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây dựng các dây chuyền sản xuất tại
nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này sẽ cho phép các nước đang phát
triển tiếp cận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại. Tuy nhiên, việc có tiếp cận
được các công nghệ hiện đại hay chỉ là các công nghệ thải loại của các nước phát triển lại
tuỳ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ động hoàn thiện môi trường đầu tư
hay không.
 FDI giúp giải quyết tốt vấn đề việc làm và thu nhập của dân cư. Vai trò này của FDI
không chỉ đối với các nước đang phát triển mà cả với các nước phát triển, đặc biệt là khi
nền kinh tế bước vào giai đoạn khủng hoảng theo chu kỳ. FDI đóng góp tích cực vào việc
nâng cao chất lượng lao động và phát triển nhân lực, FDI làm thay đổi cơ bản năng lực,
kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua hoạt động đào tạo và quá trình làm
việc của lao động. Làm việc trong các doanh nghiệp FDI đòi hỏi người lao động phải có
kiến thức và khả năng đáp ứng yêu cầu cao về cường độ và hiệu quả công việc.



 FDI có tác động làm năng động hoá nền kinh tế, tạo sức sống mới cho các doanh nghiệp
thông qua trao đổi công nghệ. Với các nước đang phát triển thì FDI giúp thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu sản xuất, phá vỡ cơ cấu sản xuất khép kín theo kiểu tự cấp tự túc.
 FDI cho phép các nước đang phát triển học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng quản lý dây chuyền
sản xuất hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như ý thức lao động công nghiệp
của đội ngũ công nhân trong nước.
Vai trò của FDI đối với các nước xuất khẩu vốn (Home countries):
 Giúp các doanh nghiệp khắc phục xu hướng tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm dần, tăng
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
 Kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm khi ở thị trường trong nước đã chuyển sang giai đoạn
suy thoái, giúp nhà đầu tư tăng doanh số sản xuất ở nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi
thế so sánh.
 Phá vỡ hàng rào thuế quan ở các nước có xu hướng bảo hộ.
 Bành trướng sức mạnh về kinh tế và chính trị.
3.2 Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài trực tiếp
Bên cạnh những mặt tích cực, đầu tư nước ngoài trực tiếp cũng có mặt trái của nó. Đối
với các nước tiếp nhận vốn đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa
phương, làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài.
Mặt khác, FDI cũng chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan, làm mất tác dụng của
công cụ này trong bảo hộ thị trường trong nước. FDI còn tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh
nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các
doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra, FDI còn có tác động xấu tới việc phân hoá đội ngũ cán bộ, tham nhũng.
Còn đối với các nước nước xuất khẩu vốn, FDI cũng có những bất cập: vốn đầu tư chảy
ra nước ngoài sẽ làm giảm tăng trưởng GDP và việc làm trong nước. Và khi các công ty lớn
đầu tư ra nước ngoài sản xuất.
I.

TÁC ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN 2004-2011

1.

Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2004-2011

Việt Nam là một nước đang phát triển nên nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế rất cao.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào
Việt Nam trong những năm qua đã tăng lên đáng kể và có đóng góp nhất định cho sự tăng
trưởng kinh tế của đất nước.


Cùng với sự nỗ lực chỉ đạo, điều hành, của các cơ quan quản lý hoạt động FDI từ Trung
ương đến địa phương trong việc tạo môi trường đầu tư - kinh doanh hấp dẫn, cởi mở, minh
bạch và thông thoáng, phù hợp với cam kết quốc tế về giảm thiểu các khó khăn, vướng mắc
cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó còn là sự tích cực, chủ động trong thu hút và quản lý FDI bằng
nhiều biện pháp theo hướng đơn giản thủ tục hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho
các dự án đầu tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát
huy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Theo đó, cơ cấu vốn đầu tư khu
vực FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã thay đổi, từ 17,08% năm 2004 tăng lên 29,8%
năm 2008 và 9 tháng đầu năm 2011 con số này là 25,28%.
Tính đến năm 2010, Việt Nam hiện có 12.213 dự án đầu tư trực tiếp của 90 quốc gia
và vùng lãnh thổ đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư gần 193 tỉ USD. Riêng năm 2008,
Việt Nam thu hút được 71,726 tỉ USD, trong đó giải ngân được 11,500 tỉ USD; trong các
năm 2009 và 2010 kết quả đạt được trong lĩnh vực này thứ tự là 23,107 tỉ USD (vốn thực
hiện gần 10 tỉ USD) và 18,595 tỉ USD (thực hiện được 11 tỉ USD); còn 9 tháng đầu năm
2011 thu hút được 9,903 tỉ USD (thực hiện được 8,2 tỉ USD), tăng 2% so với cùng kỳ năm
2010.
Theo bảng số liệu ta thấy tổng vốn đầu tư khu vực FDI năm 2006 tăng 18,0 nghìn tỷ
đồng, cao gấp 1,38 lần so với năm 2005; trong khi năm 2005 chỉ tăng 2,8 nghìn tỷ đồng, tức

tăng 1,06 lần so với năm 2004. Nguyên nhân là do việc ban hành Luật Đầu tư 2005 đã tạo
bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam để tạo thêm hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ
thấp mức thuế, đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống
ngang bằng mức giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực
đầu tư, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực trước đây
chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị, ngân hàng… cũng góp phần
tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn ở Việt Nam.
Năm 2008, mặc dù ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới khiến nền kinh tế nước ta
gặp phải nhiều bất ổn, như chỉ số giá tiêu dùng cao, môi trường kinh doanh kém thuận lợi so
với năm trước... năm 2008 vẫn đi qua với kết quả “ngoạn mục” về thu hút và sử dụng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của cả nước, đạt khoảng 71 tỉ USD - mức cao nhất từ trước
tới nay. Kết quả này đạt được là nhờ môi trường đầu tư - kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục
được cải thiện và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao bởi việc hoàn thiện khung pháp luật
về đầu tư ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực. Chính sách phân cấp việc cấp
giấy chứng nhận đầu tư và quản lý hoạt động FDI về địa phương đã tạo thế chủ động và tích
cực cho cơ quan quản lý đầu tư các cấp trong thu hút và quản lý FDI bằng nhiều biện pháp
theo hướng giảm thiểu thủ tục hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu


tư đã được cấp phép nhanh chóng đi vào hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát huy tính tự chủ
và trách nhiệm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến đầu tư đã đổi mới cả về
phương thức lẫn nâng cao chất lượng thông qua nhiều hoạt động, như triển khai thực hiện
Quyết định số 109/2007/QĐ-TTg, ngày 17-7-2007 của Thủ tướng Chính phủ, về việc ban
hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007 2010; thành lập nhóm hỗ trợ dự án tiềm năng quy mô lớn, ảnh hưởng lớn tới địa phương; ban
hành Danh mục dự án quốc gia kêu gọi FDI giai đoạn 2006 - 2010; xuất bản các tài liệu cập
nhật, đĩa CD... liên quan tới hoạt động FDI; tổ chức nhiều hội thảo xúc tiến đầu tư ở trong và
ngoài nước, kết hợp với các chuyến thăm và làm việc của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước;
chú trọng hướng thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia nhằm thu hút các dự án lớn, công

nghệ cao hướng vào xuất khẩu.
Một điều dễ nhận thấy là dòng vốn FDI vào Việt Nam trong vài năm trở lại đây không
chỉ thay đổi về lượng (vốn đầu tư) mà cả về chất (chiều sâu đầu tư) thông qua sự có mặt của
các tập đoàn nổi tiếng trong lĩnh vực điện tử, như: Intel, Compal, Foxconn, Samsung... Đặc
biệt trong năm 2008 còn xuất hiện dự án của các tập đoàn lớn, như Good Choi (Hoa Kỳ),
Berjaya (Ma-lai-xi-a) v.v.. Điều này cho thấy, sau một thời gian nghiên cứu thị trường Việt
Nam các tập đoàn nước ngoài đã quyết định đầu tư quy mô lớn, xem Việt Nam như một mắt
xích trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Các dự án lớn nói trên sẽ kéo theo nhiều nhà sản xuất và
cung cấp sản phẩm phụ trợ phục vụ sản xuất.
Năm 2009, vốn đăng ký FDI giảm mạnh từ 71,726 tỷ USD xuống còn 23,107 tỷ USD,
giảm 48,619 tỷ USD. Điều này có thể lý giải bởi một số lý do giải thích từ chính quyền như
cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang diễn biến phức tạp; các quốc gia khác trong khu
vực đã tăng lên chỉ số năng lực cạnh tranh của họ mà có thể thu hút dòng FDI; các lý do khác
như điều kiện cơ sở hạ tầng, công tác kiểm tra, giám sát quy hoạch chưa được quan tâm đúng
mức nên xảy ra tình trạng một số địa phương cấp mới một loạt dự án sử dụng nhiều đất (như
sân gôn, khu công nghiệp, khu đô thị, khu vui chơi giải trí), tình trạng ô nhiễm không khí,
nguồn nước, rác thải tại một số khu công nghiệp - khu chế xuất đến mức rất nghiêm trọng,
ảnh hưởng tới môi trường sinh thái; thiếu lao động có tay nghề cao, việc chuyển dịch cơ cấu
lao động trong khu vực nông nghiệp - nông thôn còn chậm, điều kiện làm việc và sinh hoạt
của người lao động còn hạn chế, nhất là tình trạng đình công kéo dài không được giải quyết
triệt để cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường đầu tư - kinh doanh.
Năm 2010, trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, nền kinh tế trong nước và quốc tế
còn nhiều biến động phức tạp, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn đạt
được kết quả đáng khích lệ. Vốn FDI chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010,
cao hơn năm 2009 (năm 2009 chiếm 25,5%). Trong năm 2010, Việt Nam đã thu hút được
18,59 tỷ USD vốn FDI đăng ký (gồm cả cấp mới và tăng vốn), bằng 82,2% so với cùng kỳ
2009. Điều đó cho thấy môi trường đầu tư của Việt Nam luôn thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài.



Trong 9 tháng đầu năm 2011, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá thực tế ước
tính đạt 679,9 nghìn tỷ đồng, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 171,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,3% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2010. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê
Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 22/9/2011 đạt 9,9035 tỷ
USD, bằng 72,1% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 8,2378 tỷ USD của 675 dự án
được cấp phép mới (giảm 31,5% về vốn và giảm 29,6% về số dự án so với cùng kỳ năm
trước); vốn đăng ký bổ sung 1,6657 tỷ USD của 178 lượt dự án được cấp phép từ các năm
trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chín tháng năm 2011 ước tính đạt 8,2 tỷ
USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.
Theo lĩnh vực đầu tư, có thể thấy việc thu hút FDI vào các ngành công nghiệp nặng,
công nghiệp nhẹ, dầu khí chiếm lượng vốn cao; trong khi ngành nông lâm nghiệp, tài chính
ngân hàng, thủy sản lại thu hút được lượng vốn rất nhỏ. Có thể thấy ngành công nghiệp nặng
luôn luôn chiếm tỷ trọng thu hút vồn FDI lớn nhất. Năm 2007, ngành công nghiệp nặng
chiếm 37% trong tổng vốn đầu tư, năm 2006 tăng lên là 54,25%. Tuy nhiên, từ năm 2007 trở
lại đây nguồn vốn FDI trong ngành công nghiệp nặng giảm dần, năm 2007 FDI cho công
nghiệp nặng chỉ chiếm 19,47%, năm 2008 là 32,25%. Theo bảng số liệu trên, có thể thấy
ngành xây dựng văn phòng, căn hộ và ngành xây dựng khu đô thị mới đang tăng lượng vốn
FDI đầu tư . Như trong năm 2006, ngành xây dựng văn phòng căn hộ, tỷ trọng FDI đầu tư
chỉ chiếm 6,32% nhưng đến năm 2008 đã tăng lên con số 15,92% với số vốn đầu tư xếp thứ
3 trong các ngành.
Đến năm 2009, có sự thay đổi chỉ tiêu trong việc sắp xếp các nhóm ngành thu hút vỗn đầu tư
FDI. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Theo lĩnh vực đầu tư, nguồn FDI dành cho lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp
tục tăng, trong khi ngành bất động sản giảm nhanh. Năm 2010 FDI dành cho ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2861,2 triệu USD. Và mới 9 tháng đầu năm 2011, nguồn FDI
dành cho lĩnh vực này đã là 4911,84 triệu USD. Trong khi đó, ngành bất động sản thu hút
nguồn FDI lớn nhất năm 2009 đã giảm 529,7 triệu USD, và chỉ còn 3 tháng nữa là hết năm
2011, nguồn FDI dành cho lĩnh vực này chỉ có 307,19 triệu USD. Do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế tòan cầu, nguồn FDI dành cho lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống cũng

giảm mạnh, thay vào đó lĩnh vực sản xuất, phân phối, điện khí, nước , điều hòa dang dần
dành được sự quan tâm.
Trong các ngành kinh tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài chín tháng năm 2011, ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo có số vốn đăng ký lớn nhất với 4911,8 triệu USD, bao gồm
3847,6 triệu USD vốn đăng ký mới và 1064,2 triệu USD vốn tăng thêm, chiếm khoảng 48%
tổng vốn FDI vào Việt Nam trong 9 tháng đầu năm; ngành sản xuất và phân phối điện, khí
đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 2525,3 triệu USD vốn đăng ký mới;
ngành xây dựng đạt 689,3 triệu USD, bao gồm 547,5 triệu USD vốn đăng ký mới và 141,8


triệu USD vốn tăng thêm. Đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, đã 2 tháng nay không thấy có
thay đổi trong thống kê số vốn đăng ký mới và tăng thêm.
2. Phân tích tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn
2.1 Tác động tích cực FDI
2.1.1 Bổ sung vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
FDI góp phần giải quyết các vấn đề liên quan tới vốn đầu tư để đảm bảo cho tốc độ
tăng trưởng cao và bền vững:
Một là, tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của
Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. Hiện nay, tỷ lệ huy động của Việt Nam
khoảng 22% GDP, trong khi đó tỷ lệ vốn đầu tư phải 30-35% GDP. Khoản lệch này nếu
không tìm được nguồn vốn nước ngoài thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Hai là, tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất
nước đã dẫn đến sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài. Cả hai vấn đó có thể được giải
quyết bằng cách thu hút vốn nước ngoài, trong đó có FDI.
FDI góp phần làm tăng tổng vốn đầu tư, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động, góp phần thu ngân sách nhà nước và ổn định kinh tế vĩ mô.
Vào thời điểm cuối thế kỷ 20, FDI được đẩy mạnh tại Việt Nam với mục tiêu: cung cấp
vốn, công nghệ, kỹ năng, việc làm, thị trường, những yếu tố này kết hợp với nguồn lực sẵn
có trong nước góp phần đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp với mức thu nhập
trung bình vào năm 2010.

Theo ghi nhận, từ năm 2000, đóng góp của FDI vào sự phát triển của các ngành công
nghiệp Việt Nam là rất ấn tượng, cả về tỷ lệ việc làm , đầu tư và xuất khẩu, góp phần quan
trọng trong tăng trưởng sản lượng công nghiệp.
Nhưng trong khi dòng vốn tiếp tục đổ vào, thì số việc làm được tạo ra tuy có tăng
nhưng lại chủ yếu là thâm dụng lao động rẻ mạt, không có kỹ năng.
Sự gia nhập WTO của Việt Nam càng đẩy nhanh dòng vốn. Kể từ năm 2007, tổng số
FDI đăng ký tăng từ 10 lên 60 tỉ USD, thực hiện từ khoảng 4 tỉ trong năm 2006 lên 12 tỉ
USD vào cuối năm 2008.
Nguồn vốn FDI tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho
người dân, cải thiện và đổi mới các hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao trình độ tay
nghề cho người lao động phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Thứ nhất: trực tiếp tạo việc
làm bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào các doanh nghiệp có vốn FDI. Thứ hai,
FDI gián tiếp tạo ra việc làm thông qua các doanh nghiệp cung cấp hoàng hóa và dịch vụ cho
các doanh nghiệp có vốn FDI. Vấn đề nâng cao thu nhập, người lao động làm việc trong các
công ty có vốn FDI thường cao hơn so với làm tại các doanh nghiệp trong nước, vì sản lượng


sản xuất tại các doanh nghiệp FDI thường cao hơn với các doanh nghiệp trong nước, lao
động có chất lượng cao hơn, và công ty FDI có thị trường rộng lớn và quy mô lớn.
2.1.2 Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
FDI là một nhân tố tích cực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ông
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Đối với một nước có trình độ phát triển chưa cao, thu
nhập thấp thì nguồn vốn FDI là vô cùng quan trọng.
Cụ thể:
+ Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp:
Hiện nay, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào trong ngành nông nghiệp là chưa cao,
chưa có những tác động đáng kể vào Nông- lâm – ngư nghiệp (chiếm tỷ trọng khoảng 6,7%
tỷ trọng vốn đầu tư FDI đăng ký cả nước) nhưng vẫn là nguồn lớn hỗ trợ cho nông nghiệp
nước nhà.
Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ

trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn,
nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và
áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập.
Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng
năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian
gần đây.
Các dự án đầu tư FDI vào nông nghiệp tuy không lớn nhưng đã tạo ra công ăn việc làm,
thu nhập ổn định, giúp hàng vạn hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn nguyên liệu
thường xuyên cho dự án hoặc theo mùa vụ (trồng mía đường, khoai mì… , góp phần quan
trọng thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo. Tính trung bình, ĐTNN vào nông nghiệp nói
chung tạo ra tỷ lệ việc làm gián tiếp so với việc làm trực tiếp rất cao 34,5/1. Đặc biệt, ở một
số địa phương, dự án ĐTNN tạo việc làm cho khoảng 1/4 dân cư trên địa bàn. Tuy nhiên, dù
số lao động trong nông nghiệp và nông thôn vẫn chiếm tỉ cao tới gần 60% so với lao động
chung của cả nước nhưng số lao động qua đào tạo nghề trong lĩnh vực Nông - lâm - ngư
nghiệp chỉ chiếm 13% trong số đó. Đòi hỏi trong thời gian tới phải tăng cường công tác đạo
tạo lao động nông thôn đáp ứng nhu cầu phát triển ngành nông nghiệp và tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.
+ Công nghiệp:
Đầu tư FDI đem đến cho nền công nghiệp nước ta nhiều lợi ích:
Đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần
nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong cơ
cấu công nghiệp cả nước đang ngày càng được củng cố. Điều này được thể hiện thông qua tỷ
trọng của đầu tư nước ngoài trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần từ 16,9%


(1991) lên 23,65% (1995), 26,5% (1996) lên tới 41,3% năm 2000, và 36,4% (2006) và
43,8% giá trị sản lượng công nghiệp (2007) tương đương với khu vực doanh nghiệp nhà
nước. Tốc độ tăng trưởng cao của khu vực công nghiệp có vốn FDI đã đóng góp đáng kể vào
việc nâng cao tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp. Chất lượng của các dự án FDI vào
lĩnh vực công nghiệp đang có sự cải thiện rõ rệt. Có thêm nhiều dự án quy mô lớn, áp dụng

công nghệ hiện đại, nhiều dự án đầu tư theo các nhóm liên kết ngành- đây cũng là cơ sở thúc
đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển trong thời gian tới. Vì với lợi thế về máy móc
thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường ổn định, được khuyến khích bằng các cơ chế,
chính sách ngày cáng thông thoáng, khu vực có vốn FDI trong công nghiệp đã và đang phát
triển khá nhanh và ổn định, luôn có xu hướng tăng nhanh hơn các khu vực khác.
Việc đầu tư nước ngoài trong công nghiệp phát triển nhanh cũng đã tạo ra một môi
trường kinh doanh cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp
lại các doanh nghiệp nhà nước. Khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp cũng được
nâng cao thông qua việc áp dụng các công nghệ, máy móc và thiết bị sản xuất hiện đại,
phương pháp quản lý tiên tiến từ các dự án FDI, tạo điều kiện ra đời và thay đổi diện mạo
của nhiều ngành công nghiệp như khai thác dầu khí, sản xuất, lắp ráp ôtô, điện tử và công
nghệ thông tin, thiết bị kỹ thuật điện và điện gia dụng, chế biến thực phẩm và đồ uống, các
ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực như dệt may, giày dép... thu hút hàng hàng trăm ngàn
lao động...
Ngoài ra, đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp đã gián tiếp đào tạo cho Việt
Nam một đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ mới, cũng như
các kỹ năng quản lý tiên tiến, kỷ luật công nghiệp chặt chẽ.
+ Dịch vụ:
Ngành dịch vụ càng ngày càng chiếm một thị phần lớn của thương mại toàn cầu. Khu
vực dịch vụ bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau từ du lịch, qua tài chính cho đến lĩnh vực y tế,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục...
FDI vào Việt Nam ngày càng nhiều va dòng vốn đang có sự chuyển dịch cơ cấu “chảy”
mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước trong năm 2007 vừa
qua, trong đó tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn
phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn đầu tư
nước ngoài trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện
(18%).
Tổng cục Du lịch cho biết, đến cuối tháng 12/2008, cả nước đã có 190 dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào các khu du lịch và khách sạn, với tổng vốn đăng ký đầu tư là 4,46
tỷ USD.Tăng 140% so với năm 2007.

Các chuyên gia cho rằng lĩnh vực du lịch-dịch vụ đang là "điểm nóng" thu hút đầu tư
nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Các nhà đầu tư nước ngoài


dường như không muốn chậm chân trước những cơ hội kinh doanh lớn trong lĩnh vực này
khi mà Việt Nam đã đứng trước cánh cửa rộng mở của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Cơ cấu đầu tư trong thời gian qua rất khả quan, các nhà đầu tư nước ngoài đang
dành sự quan tâm rất lớn cho các dự án xây dựng khu vui chơi, nghỉ dưỡng, khách sạn, sân
golf quy mô lớn và chất lượng dịch vụ cao. Các nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về vốn FDI
vào các dự án du lịch là Singapore với 20 dự án và tổng vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD; Ðài
Loan có 15 dự án với 784 triệu USD; Hồng Kông có 41 dự án với 642 triệu USD; tiếp đến là
Hàn Quốc, Malaysia, Pháp, Nhật Bản.
2.1.3 Góp phần vào phát triển công nghệ của Việt Nam
Công nghệ có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, giúp các nước đang phát
triển theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước công nghiệp phát triển dựa vào lợi thế
của nước đi sau (kế thừa những thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loại). Hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa họccông nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và nâng cao năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu
tư. Tác động tích cực của FDI đối với phát triển công nghệ qua:
 Chuyển giao công nghệ: để công nghệ mới và tiên tiến phục vụ hoạt động sản xuất thì
cần phải chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển.
Do hoạt động chuyển giao công nghệ ngày càng phức tạp do vậy chuyển giao công
nghệ thông qua FDI là một kênh chuyển giao hiệu quả và chi phí thấp. Chuyển giao
công nghệ thông qua FDI đã làm cho khoảng cách công nghệ giữa nước đi đầu và
nước tiếp nhận đầu tư được thu hẹp. Hình thức chuyển giao được thực hiện thông
qua: Chuyển giao bên trong (hình thức chuyển giao giữa công ty mẹ và công ty con),
chuyển giao bên ngoài (giữa các công ty khác nhau liên doanh với doanh nghiệp trong
nước; hỗ trợ công nghệ…).
 Hoạt động phổ biến công nghệ: Hoạt động FDI tạo ra hiệu ứng tích cực đối với các
doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư thông qua cạnh tranh sẽ thúc đẩy việc cải
thiện và nâng cao công nghệ trong nước; di chuyển lao động từ nơi có trình độ công

nghệ cao đến các nước đang phát triển góp phần chuyển giao công nghệ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những phương thức quan trọng nhất trong việc
chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Chuyển giao công nghệ thông qua đầu
tư trực tiếp nước ngoài tạo ra nguồn lợi mà ta không có được khi sử dụng những phương
thức chuyển giao khác. Ví dụ, một nguồn đầu tư không chỉ bao gồm công nghệ đơn thuần mà
còn bao gồm “cả gói”, kể cả kinh nghiệm quản lý và khả năng kinh doanh cũng được chuyển
giao qua các chương trình đào tạo và phương thức học thông qua thực hành. Hơn nữa, nhiều
công nghệ và những bí quyết khác được chi nhánh của các doanh nghiệp đa quốc gia (MNE)
sử dụng thường không có sẵn trên thị trường, mà chỉ có ở trong chính các doanh nghiệp đó.
Đồng thời, kể cả nếu một số công nghệ đã có sẵn trên thị trường, thì chúng chỉ có thể được


sử dụng một cách có giá trị hơn hoặc ít tốn kém hơn ở chính công ty đã phát triển ra công
nghệ đó so với các công ty khác.
Những kênh chính để chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
thường trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hiện tượng lan tỏa, bao gồm:
 Liên kết theo chiều dọc: Các doanh nghiệp đa quốc gia có thể chuyển giao công nghệ
cho các công ty cung ứng cho họ hàng hóa trung gian, hoặc cho những khách hàng
mua sản phẩm của họ.
 Liên kết theo chiều ngang: Các công ty bản địa trong cùng một ngành công nghiệp
hoặc cùng một giai đoạn sản xuất có thể áp dụng công nghệ thông qua mô phỏng,
hoặc buộc phải cải tiến công nghệ của họ vì sự cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp
đa quốc gia ngày càng tăng.
 Di trú lao động: Công nhân được đào tạo hoặc đã từng làm việc cho chi nhánh của
doanh nghiệp đa quốc gia có thể chuyển giao kiến thức của mình cho các công ty bản
địa khác khi chuyển sang công ty khác hoặc tự thành lập cơ sở kinh doanh.
 Quốc tế hóa nghiên cứu và phát triển: Khi được đặt ở nước ngoài, hoạt động nghiên
cứu và phát triển của các công ty đa quốc gia có thể đóng góp cho việc tạo ra khả
năng sản sinh kiến thức bản địa xuất phát từ thuộc tính hàng hóa phần nào có tính
chất chung có liên quan tới các hoạt động của họ.

Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nâng
cao trình độ công nghệ của sản xuất. Trong hầu hết các ngành, công nghệ tiên tiến nước
ngoài đã được đưa vào dưới dạng đổi mới đồng bộ hay từng dây chuyền công nghệ. Thực
tiễn “chiến lược đón đầu công nghệ”- một ưu thế của kẻ đi sau, các ngành bưu chính viễn
thông, thăm dò khai thác dầu khí, đã tiếp nhận được những công nghệ tiên tiến so với khu
vực và thế giới. Một số ngành khác cũng cải thiện được phần lớn dây chuyền sản xuất, phù
hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh trong nước như: may mặc, giầy da, chế biến thủy
sản…Ngoài ra còn phải kể đến sự vực dậy của công ty Gang thép Thái Nguyên thông qua
một loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Trung Quốc, Đài Loan… Như vậy, sự nâng cao trình độ công nghệ tại một số ngành then
chốt của nền kinh tế quốc dân cũng như tại các doanh nghiệp đã góp phần nâng cao trình độ
của nền công nghệ Việt Nam thời gian qua.
Có thể nói công nghệ chuyển giao vào Việt Nam chủ yếu là phần cứng của công nghệ
dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với thế giới, các công nghệ này có độ lạc
hậu ít nhất từ 1-2 thế hệ. Nhưng so với nền công nghệ Việt Nam, đây là những trang thiết bị
tương đối đồng bộ và có trình độ cơ khí hóa cao hơn công nghệ trong nước. Các nhà đầu tư
nước ngoài đã đưa vào Việt Nam các trang thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hóa cao, như
các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài kỹ thuật số… Nhìn chung, các trang
thiết bị khá phù hợp với giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước


và góp phần tăng thu nhập quốc dân, đổi mới công nghệ sản xuất và giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động.
Nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, nói chung chất lượng sản phẩm đã được nâng
cao rõ rệt. Người tiêu dùng trong nước bớt đi tâm lý “sính dùng hàng ngoại”. Một số sản
phẩm đã chiếm được cảm tình của khách hàng trong nước và ngoài nước như: hàng may
mặc, dày da, quạt điện, bánh kẹo, bàn ghế… Việc đầu tư chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài đã hạn chế đến mức tối đa việc nhập khẩu một số lượng lớn các sản phẩm: bia, gạch ốp
lát, xi măng, sắt thép xây dựng… Đồng thời cũng giảm nhập khẩu các bộ phận linh kiện, chi
tiết cho các sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp (đèn hình, xe máy, tổng đài điện tử

số…). Đến nay chất lượng sản phẩm của các doanh ngiệp Việt Nam đã được thế giới biết đến
và công nhận thông qua việc cấp chứng chỉ ISO cho một số doanh nghiệp. Đây là một nhân
tố quan trọng giúp sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc
tế.
2.1.4 Thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước
FDI góp phần nâng cao năng lực quản lý, tiếp thu công nghệ, trình độ tay nghề cho
người lao động, thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
FDI tác động tới các doanh nghiệp (DN) Việt Nam qua bốn kênh chính:
Tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, từ đó buộc các DN trong nước phải đầu tư đổi
mới công nghệ; lưu chuyển lao động từ DN FDI đến các DN trong nước; chuyển giao công
nghệ cho DN trong nước; liên kết giữa DN FDI và DN trong nước để sản xuất sản phẩm. Tuy
nhiên, việc tác động có các mức độ rất khác nhau và tùy thuộc từng loại hình DN.
Sự xuất hiện của dòng vốn FDI tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với DN trong nước:
 Chỉ có 31% nguyên liệu sản xuất các DN FDI hiện đang sử dụng được mua từ các DN
trong nước, còn lại phần lớn là nhập khẩu hoặc mua lại từ các DN FDI khác.
 Khu vực FDI hiện đang góp 100% sản lượng một số sản phẩm công nghiệp như dầu
khí, ôtô, máy giặt, máy điều hòa, tủ lạnh, điện tử; 60% cán thép; 28% ximăng; 33%
máy móc thiết bị điện, điện tử; 25% thực phẩm đồ uống...
 Trong năm năm 2001-2005, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt
33,8 tỉ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất
khẩu dầu thô, tỉ lệ này đạt gần 55%. Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm
nội địa (GDP), 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Một trong những tác động lớn nhất của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam là tác động đến việc di chuyển lao động và chuyển giao công nghệ giữa DN FDI và DN
trong nước. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy tác động này đã không hoặc rất ít diễn ra.
Vậy nguyên nhân của nó là do di chuyển lao động có tay nghề và kỹ thuật cao hiện nay chủ
yếu diễn ra trong nội bộ các DN FDI hơn là giữa DN FDI với các DN trong nước. Cụ thể chỉ


có 4,6% DN trong nước thuộc nhóm ngành chế biến thực phẩm cho biết là có tiếp nhận lao

động từ DN FDI. Lý do có thể là tiền lương của khu vực DN FDI cao hơn nên DN trong
nước chưa có sức hút đối với lao động tay nghề cao từ các DN FDI.
Về kênh chuyển giao và phổ biến công nghệ giữa DN FDI và DN trong nước cũng
không hoặc ít diễn ra. Ngoài các nguyên nhân khách quan như khuôn khổ luật pháp về sở
hữu trí tuệ chưa đầy đủ, hiệu lực thấp, còn nguyên nhân chủ quan từ phía các DN trong nước.
Các DN trong nước phần lớn qui mô còn nhỏ, thiếu năng lực về tài chính để thanh toán các
hợp đồng chuyển giao công nghệ, trình độ lao động thấp dẫn đến khả năng hấp thụ công
nghệ thấp. Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ lao động có kỹ năng của các DN trong nước thấp
hơn rất nhiều so với tỉ lệ lao động có kỹ năng của DN FDI.
2.1.5 Cải thiện cán cân thanh toán
Tác động tích cực của FDI trước tiên là dòng ngoại tệ vào làm tăng tài khỏan vốn giúp
nâng cao khả năng thanh khoản của tài khoản quốc gia. Dòng tiền FDi của năm 2007 là 6,4
tỷ USD và năm 2008 là 7 tỷ USD, tăng vọt so với các năm trước giúp làm bội thu cán cân
thanh toán tài khoản vốn. Tuy nhiên, so với các nước Đông Nam Á thì thu hút vốn FDI của
Việt am chỉ đứng thứ 4 sau Singapore (22,7 tỷ USD), Thái Lan (10,1 tỷ USD), Malaysia (8,1
tỷ USD); và trong các năm này, xu hướng dòng vốn FDI không tập trung vào các ngành công
nghiệp chế biến và nông nghiệp, mà tập trung vào các ngành bất động sản, khách sạn, nhà
hàng (chiếm 63%) nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao. Sự dịch chuyển dòng vốn FDI như vậy cần
được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ đi kèm với FDI và năng lực
xuất khẩu trong tương lai.
FDI lại gắn với thương mại, thúc đẩy ngoại thương cũng như quan hệ ngoại giao đối
với nhiều nước trên thế giới.. FDI giúp mở cửa thị trường xuất khâu, tạo điều kiện cho các
sản phẩm nước ta ngày càng đạt đến chuẩn quốc tế.
Các doanh nghiệp FDI đã tạo nên giá trị xuất khẩu lớn (kể hay không kể dầu khí),
chiếm trên dưới 50% giá trị xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, nếu xét kỹ, các doanh nghiệp FDI
mới tạo ra được nhiều bán thành phẩm, như lắp ráp máy tính, trong mạng lưới sản xuất toàn
cầu. Đồng thời, các doanh nghiệp FDI ngày càng hướng vào khai thác thị trường gần 100
triệu dân có dung lượng đang ngày càng mở rộng của Việt Nam. Chính vì vậy, nhiều doanh
nghiệp FDI cũng góp phần vào việc tăng nhập siêu, do cơ chế “gia công” còn lớn, tỷ lệ “nội
địa hóa” như với công nghiệp ô tô còn thấp, mà cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính những

năm 2008-nay đang cho thấy rõ điều đó.
2.2 Tác động tiêu cực FDI
2.2.1 Gây bất bình đẳng và phân tầng xã hội
Tăng trưởng kinh tế đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, trong đó có cả
người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Tuy nhiên, vẫn còn những khác biệt, không công
bằng, do có những nhóm xã hội được hưởng lợi nhiều hơn và những nhóm hưởng lợi ít


hơn,thậm chí bị rủi ro, mất mát. Phân tầng xã hội trong 2 thập kỷ đổi mới và hội nhập quốc
tế ngày càng gia tăng, dù rằng xã hội Việt Nam đang phát triển tương đối công bằng so với
các nước khác có cùng trình độ phát triển kinh tế. Đó chính là do sự quá tập trung nguồn vốn
FDI, ODA vào các vùng kinh tế trọng điểm. Việc chuyển đổi sử dụng đất cho các dự và đầu
tư nước ngoài cũng khiến cho hàng vạn lao động bị ảnh hưởng trực tiếp do bị mất đất sản
xuất.
2.2.2 Góp phần gia tăng ô nhiễm môi trường:
Cùng với những lợi ích do FDI mang lại, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức,
trong đó đặc biệt nghiêm trọng là nạn "xuất khẩu" ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển
trên thế giới đang ngày càng gia tăng. Theo Tổng cục Môi trường Vịêt Nam, hiện đang có
tình trạng chuyển các ngành gây ô nhiễm môi trường nặng nề từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển thông qua FDI.Việc “xuất khẩu” ô nhiễm này mang lại cho các tập đoàn
đa quốc gia một lợi thế cạnh tranh mới nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân của tình
trạng này là do chi phí để khắc phục ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển rất cao. Do
vậy, chính phủ ta cần có những giám sát và quản lý chặt chẽ đối với các dự án đầu tư FDI,
kiên quyết không chấp nhận các dự án FDI gây ô nhiễm môi trường.
2.2.3 “Bóp chết” các doanh nghiệp trong nước:
Một trong những mặt tích cực như đã trình bày của FDI là thúc đẩy tính cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp. Thế nhưng, nó còn là nguy cơ của sự phá sản của nhiều công ty nội địa
với năng lực còn hạn chế. Các doanh nghiệp có vốn FDI thường có công nghệ khoa học tiên
tiến hơn, tính hiệu quả cao hơn, dẫn đến giá thành có thể rẻ hơn và chất lượng lại được nâng
cao. Nếu các doanh nghiệp Nhà nước không có sự điểu chỉnh đúng đắn và hợp lý thì sẽ bị

“biến mất” trên thị trường.
2.2.4 Khánh kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên:
Sự đầu tư, khai thác của những tập đoàn đa quốc gia đến từ nhiều nước có thể gây ra
nạn cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước ta trong tương lai. Hiện tượng này có thể
xảy ra nhất không chỉ ở tài nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản mà còn có cả nguồn
lao động vốn được coi là dồi dào và rẻ tiền.
Tuy nhiên cần nhận thấy rằng những tác động tiêu cực của FDI không phải là thuộc tính
riêng của FDI và chúng thường là hệ quả của các chính sách và chất lượng quản lý kinh tế
của nhà nước đã tạo kẽ hở, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
FDI nói riêng khai thác triệt để mà không phải bận tâm nhiều đến hậu quả pháp lý của các
hành động của mình.
Con số vốn FDI đăng ký và vốn FDI thực hiện qua từng tháng, quý và năm luôn thu hút
sự chú ý đặc biệt của nhiều người. Rất thường xuyên, những con số này được coi đồng nghĩa
với thước đo thành công của chính sách phát triển kinh tế cũng như môi trường kinh doanh
của Việt Nam. Bởi vậy, việc duy trì và không ngừng làm cho những con số này tăng lên là


điều đặc biệt quan trọng đối với các cấp chính quyền, và cũng vì vậy mà người ta có xu
hướng chạy đua, châm trước, và đưa ra quá nhiều ưu đãi để kéo nhà đầu tư nước ngoài đổ
tiền của vào Việt Nam nói chung và từng địa phương nói riêng. FDI thường được nhìn nhận
như một liều thuốc đại bổ cho nền kinh tế thiếu dinh dưỡng và không mấy ai mảy may nghĩ
đến mặt trái của tấm huy chương FDI.
Một trong những tác động của FDI là thâm hụt mậu dịch và những hậu quả. Cụ thể, lĩnh
vực xây dựng trong ngành dịch vụ chiếm tới 22,7 tỷ đôla trong tổng số vốn đăng ký mới, là
lĩnh vực có tỷ trọng lớn nhất (38,4%), trên cả lĩnh vực công nghiệp nặng (32,9%). Hai lĩnh
vực này đã chiếm trên 70% tổng vốn đăng ký mới. Nếu xét đến vốn thực hiện thì tình hình
cũng gần tương tự, với hai ngành trên chiếm sấp xỉ 70%. Điều đáng chú ý là trong lĩnh vực
công nghiệp nặng thì hai dự án thép Vinashin Lion và Hưng Nghiệp Fomosa đã có số vốn
đăng ký lên tới 17,6 tỷ đôla.
Điều có thể rút ra từ những con số này là chúng sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng

thâm hụt cán cân mậu dịch của Việt Nam, do bản chất của những loại hình doanh nghiệp này
là hướng vào thị trường nội địa hoặc có doanh thu chủ yếu là nội tệ (do không phải là loại
hình doanh nghiệp xuất khẩu, trong khi phải nhập vật tư và thiết bị để xây dựng). Hai dự án
thép nói trên có thể hướng tới xuất khẩu một phần sản lượng của mình, nhưng điều này có lẽ
chỉ xảy ra một thời gian sau, sau khi hoàn thành và đi vào sản xuất với sản lượng dư thừa so
với sức tiêu thụ trong nước. Vả lại, việc họ có xuất khẩu được hay không còn phụ thuộc vào
tính cạnh tranh quốc tế, là điều khó có thể nói chắc được vào thời điểm ban đầu này, lại rơi
đúng vào thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu, chưa kể đến uy tín và thương hiệu của các chủ
đầu tư trong các dự án này là hoàn toàn không tồn tại trong ngành sản xuất thép thế giới.
Trong khi đó, hiện tại, các doanh nghiệp FDI đang có xu hướng tạo ra thêm thâm hụt
mậu dịch, với tỷ trọng xuất khẩu/doanh thu nhỏ hơn nhập khẩu/doanh thu và và khoảng cách
này đã tăng lên trong thời gian 2007- 2008. Khối doanh nghiệp FDI đã nhập siêu tới hơn 4 tỷ
đôla trong 11 tháng của 2008, tăng mạnh so với con số 1,8 tỷ cùng kỳ năm 2007. Lưu ý rằng
con số nhập siêu trên 4 tỷ đôla (của 11 tháng) là một con số rất lớn nếu so với mức thâm hụt
mậu dịch chung (mục tiêu) là khoảng 10 tỷ đôla trong năm 2008.
So sánh mức thâm hụt với vốn đầu tư thực hiện, ta sẽ thấy một điều lo ngại nữa là mức
thâm hụt này đã tăng quá mạnh giữa hai năm 2007 và 2008, lên tới 40,4% trong năm 2008 so
với mức 25,6% năm 2007. Điều đó có nghĩa là nếu nói chính xác thì vai trò của FDI trong
việc tài trợ cho thâm hụt mậu dịch ở Việt Nam là hạn chế hơn nhiều nếu so với việc chỉ nhìn
vào con số tuyệt đối mà nhà đầu tư nước ngoài đã giải ngân. Vai trò này càng hạn hẹp hơn
nếu rạch ròi nêu ra rằng một phần trong con số vốn đầu tư thực hiện là phần đóng góp của
đối tác Việt Nam trong các liên doanh, mà đa phần bằng quyền sử dụng đất hoặc các giá trị
vô hình, hữu hình khác, nhưng không phải là ngoại tệ, và càng không phải là ngoại tệ mang
từ bên ngoài vào Việt Nam.


Trong hai năm 2007 và 2008, Việt Nam phải nếm trải tiêu cực do dòng vốn nước ngoài
đổ vào quá lớn. Dường như đấy chính là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao
trong năm 2008, do ngân hàng Nhà nước mất khả năng kiểm soát, thanh lọc, theo nhận định
của World Bank. Theo phân tích thì 189,6 ngàn tỉ VND, tức 58% tổng vốn đầu tư của khu

vực kinh doanh gồm cả các doanh nghiệp nhà nước là FDI, đầu tư chứng khoán hoặc vay nợ
nước ngoài.
Tỷ lệ FDI trong khu vực không tham gia vào thương mại quốc tế ngày một tăng, chẳng
hạn như bất động sản và du lịch (CIEM 2008). Trong năm 2008, ước tính khoảng 30% tổng
vốn đầu tư đã thực hiện nằm trong ngành bất động sản và khách sạn, so với 13% trong ngành
công nghiệp nhẹ và 3% trong ngành nông nghiệp và thực phẩm. Những khu vực này không
tạo được nhiều việc làm và có xu hướng khá thâm dụng nhập khẩu, gây áp lực lên cán cân
thanh toán của Việt Nam.
Thực trạng trên dẫn tới hệ luỵ là lạm phát hai con số, đã tác động trực tiếp đến chi phí
sinh hoạt và tiền lương thực tế. Thu nhập thực tế giảm mạnh trong năm 2008, thậm chí trước
cả sự suy giảm cầu thế giới đối với hàng hoá của Việt Nam có nguy cơ đe doạ đến việc làm.
Nhằm đối phó với tình hình trên, tháng 1.2009, chính phủ đã tăng tiền lương tối thiểu đối với
các doanh nghiệp trong nước. Số liệu của tổng cục Thống kê cho thấy lương danh nghĩa tối
thiểu tăng 38% chỉ đủ để đưa tiền lương thực tế trở về với xu hướng trước đó của nó.
Các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng thâm dụng lao động nhất, tạo ra số việc làm
nhiều hơn các doanh nghiệp khác. Năm 2007, theo báo cáo của UNDP, các công ty nhận cả
những công nhân không biết chữ và đã mở các lớp xoá mù chữ nhằm đảm bảo công nhân có
thể đọc các thông báo an toàn và những chỉ dẫn cơ bản. Các doanh nghiệp này luôn tìm cách
khai thác triệt để nguồn lao động rẻ mạt, mà không chú trọng đào tạo trình độ và kỹ năng cho
người lao động.
Một mối quan ngại xa hơn nữa là vốn đầu tư nước ngoài chỉ tập trung vào những ngành
có công nghệ tương đối thấp. Mặc dù, vốn hoá lợi thế so sánh là điều rất ý nghĩa đối với Việt
Nam, song từ khía cạnh phát triển các ngành công nghiệp trong nước, cần xem xét sự xuất
hiện của các doanh nghiệp nước ngoài là cơ hội để thúc đẩy sự phát triển của ngành công
nghiệp nội địa. Cơ chế lan truyền được thực hiện thông qua các mối liên hệ sản xuất giữa các
doanh nghiệp nước ngoài và trong nước và thông qua tác động ngoại ứng hay tác động lan
toả, như chuyển giao kỹ năng và công nghệ. Những nghiên cứu đã được thực hiện cho thấy
tác động của FDI đến ngành công nghiệp nội địa là rất nhỏ. Nhận thấy sự thiếu hụt của các
“ngành công nghiệp phụ trợ” quan trọng, Ohno cho rằng nếu các doanh nghiệp Việt Nam
không tận dụng được lợi thế của các công ty đa quốc gia lớn thì nền kinh tế sẽ phải nỗ lực rất

nhiều mới có thể đạt được những mục tiêu đầy tham vọng của mình.
Phân tích của các chuyên gia kinh tế cũng cho thấy không có lý do gì để mong đợi các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ thúc đẩy các ngành nội địa – một trong những lý do Việt Nam
đã tuyên bố khi hướng tới FDI. Theo Lall, họ có xu hướng bị thu hút bởi các đặc trưng hiện


tại của một quốc gia mà hiếm khi có chủ ý hoạt động nhằm phát triển quốc gia đó. Nói cách
khác, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ quan tâm xây dựng các chiến lược của mình sao cho
phù hợp với nền kinh tế địa phương, có cân nhắc đến nguồn tài nguyên nội địa, quy mô và
thị hiếu thị trường nội địa và chất lượng của lao động và các đầu vào sẵn có, sản phẩm đầu ra
của các doanh nghiệp nội địa.
Do vậy, vấn đề đặt ra là cần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế ở Việt Nam; thu hút FDI với mục tiêu quan trọng nhất không phải là số lượng vốn thu
nhận được, mà phải là hài hòa hiệu quả kinh tế- xã hội-môi trường, hài hòa lợi ích của nước
chủ nhà với lợi ích của nhà đầu tư.
2.2.5 Gây tham nhũng và thúc đẩy đô la hóa nền kinh tế
Việc cấp phép các dự án FDI vẫn còn tồn tại hiện tượng xin cho, từ đó phát sinh các
tiêu cực như phân hóa đội ngũ cán bộ quản lý vốn FDI và tạo cơ hội cho tham nhũng gia
tăng.
Lượng FDI lớn vào Việt Nam cùng sự quản lý không chặt chẽ dẫn đến một lượng lớn
ngoại tệ ra bên ngoài thị trường tự do là nguyên nhân góp phần làm tình trạng đô la hóa trong
nền kinh tế Việt Nam trầm trọng hơn.
2.2.6 Gia tăng nợ xấu ngân hàng trong nước
Theo thống kê của cơ quan chức năng, hiện có hơn 230 dự án của các doanh nghiệp Đài
Loan, Hàn Quốc được cấp chứng nhận đầu tư, giấy phép hoạt động nhưng đã giải thể, phá
sản. Trong đó, có một số chủ đầu tư doanh nghiệp FDI có khả năng là lừa đảo do chỉ xin giấy
chứng nhận đầu tư để vay vốn sau đó đã rút về nước không thực hiện dự án, chiếm đoạt vốn
vay. Hiện nay có 22 dự án tại 12 địa phương nợ ngân hàng không có khả năng trả với số tiền
gần 80 triệu USD, chủ yếu ở hai tỉnh Hải Dương và Phú Thọ.
Tập đoàn Kenmark đầu tư tại Hải Dương tháng 12/2006 với 6 dự án xây dựng nhà

xưởng cho thuê tại khu công nghiệp Việt Hòa với vốn đầu tư 500 triệu USD trong đó 30%
vốn tự có, 70% vốn vay. Trong khoản nợ vay có khoản nợ nhiều nhất là 30 triệu USD vay từ
BIDV, một số ngân hàng khác có dư nợ là SHB, Habubank với các khoản vay thời hạn
khoảng 6 năm.
Tuy nhiên từ năm 2010, tập đoàn này xin dừng dự án với lý do khủng hoảng kinh tế
toàn câu làm cho không thể tìm được đối tác thuê nhà xưởng.
Kenmark cũng đã mua bảo hiểm dự án nhưng chỉ từ từ 15/2/2008 đến 15/2/2011.
Năm 2011 tập đoàn Kenmark đang tiến hành bán lại dự án này để có thể thanh toán các
khoản nợ. Kenmark cũng xin giãn nợ để có thể trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu không
đạt được các thỏa thuận này thì các ngân hàng trong nước sẽ bị gia tăng nợ xấu.


2.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1.

Mục đích quản lý FDI

Phát huy tác động tích cực của đầu tư nước ngoài trực tiếp và hạn chế tác động tiêu cực
đối với các nước nhận vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp
2.

Bài học kinh nghiệm trong quản lý FDI

Chính phủ cần nhạy bén trong nắm bắt tình hình kinh tế, tạo lập môi trường chính trị ổn
định, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ đó xây dựng hệ thống chính sách đầu tư hấp
hẫn các nhà đầu tư nước ngòai.

Chủ động tìm kiếm các nhà đầu tư nước ngoài và chú trọng đào tạo nâng cao trình độ
nguồn nhân lực trong nước để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao.
Cần coi trọng công tác thẩm định các dự án đầu tư nước ngoài: tránh tình trạng tiếp
nhận các dự án công nghệ lạc hậu; dự án gây ô nhiễm môi trường; dự án đầu tư không hiệu
quả.
Nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng để quản lý chặt chẽ các khoản vốn vay các
doanh nghiệp FDI.
Cần quản lý chặt chẽ việc triển khai dự án: tiến độ, chất lượng, đảm bảo ô nhiễm môi
trường, trốn thuế (đặc biệt hoạt động chuyển giá để trốn thuế),…
->Những tác động tiêu cực của FDI không phải là thuộc tính riêng của FDI và
chúng thường là hệ quả của các chính sách và chất lượng quản lý kinh tế của Nhà nước
đã tạo kẽ hở, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng
khai thác triệt để mà không phải bận tâm nhiều đến hậu quả pháp lý của các hành động
của mình.
3.

Giải pháp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

3.1 Thu hút FDI
Năm 2011, tác động khủng hoảng nợ Châu Âu lan rộng khiến nguồn vốn dư thừa ở các
nước xuất khẩu vốn FDI giảm khiến nguồn FDI vào Việt Nam nói riêng và các nuớc đang
phát triển nói chung có xu hướng giảm. Để tạo thuận lợi thu hút vốn tốt cần hoàn thiện hệ
thống chính sách, minh bạch hóa các thủ tục đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, hòan thiện quy
hoạch các vùng,….Không chỉ chú trọng thu hút các nhà đầu tư ở Châu Á, cần hướng đến nhà
đầu tư ở Mỹ, Châu Âu,…do đây là khu vực đã có quan hệ thương mại lâu năm và có công
nghệ cao.
Dòng vốn FDI trong nước cũng đang có xu hướng chuyển dịch đầu tư từ Miền Bắc vào
Miền Nam. Điều này là do khu vực Miền Bắc có thể lấy giấy phép đầu tư dễ nhưng khó triển
khai dự án FDI trong khi khu vực Miền Nam thì ngược lại, khó lấy giấy phép và dễ triển



khai. Việc này cho thấy nhu cầu cải cách thủ tục hành chính tại khu vực Miền Bắc cấp thiết
hơn Miền Nam nếu không muốn để các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục rút vốn.
Hệ thống chính trị - kinh tế ổn định đã từng được coi là nhân tố tích cực trong thu hút
FDI tại Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp cùng việc
các chính sách kinh tế liên tục thay đổi do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới,
khủng hoảng nợ công Châu Âu liên tục tác động tới Việt Nam làm giảm thu hút FDI.
Để thu hút vốn vào các lĩnh vực mong muốn như nông nghiệp thì phải nâng cao trình
độ lao động cũng như canh tác để hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Nguồn nhân lực Việt Nam ngoài trình độ tay nghề chưa cao còn vấp phải các hạn chế
như thiếu kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm,…Vì vậy để thu hút
các dự án có hàm lượng công nghệ cao ngoài tạo môi trường kinh tế- chính trị, cơ sở hạ tầng
tốt,…cần lên chiến lược phát triển nguồn nhân lực bằng cách liên kết các trường đào tạo và
doanh nghiệp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Phát triển thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI có thể giảm
tỷ lệ nắm giữ sở hữu một phần doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã đi vào ổn định. Từ đó tạo
linh hoạt cho nguồn vốn FDI.
3.2 Giải quyết tác động tiêu cực của FDI
-

Quản lý vốn đầu vào:
Cấp phép đầu tư và quy định mức đầu tư.

Tăng cường tính minh bạch trong cấp phép các dự án đầu tư tránh xảy ra tình trạng tham
nhũng là nhân tố góp phần gây ra đô la hóa nền kinh tế.
Việc cấp phép đầu tư rất quan trọng vì nếu khâu thẩm định dự án không được chú trọng
sẽ dễ dẫn đến cho phép các dự án không hiệu quả và dự án gây ô nhiễm môi trường vào
trong nước.
-


Quản lý sử dụng vốn:

Giám sát hoạt động theo luật định và những cam kết song phương và đa phương. Các
công cụ tài chính: thuế, phí, và các chính sách “đòn bảy kinh tế” đối với quá trình sản xuất
kinh doanh và tác động đến môi trường .
Quản lý trong việc thoái vốn: Xây dựng hệ thống văn bản chính sách chặt chẽ trong
việc thoái vốn đầu tư.



×