Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VINH QUANG

HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI THANH NIÊN
THẤT NGHIỆP HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VINH QUANG

HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI THANH NIÊN
THẤT NGHIỆP HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Công tác xã hôi
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ


HÀ NỘI, 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI
VỚI THANH NIÊN THẤT NGHIỆP............................................................... 10
1.1. Thanh niên thất nghiệp: Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu ........................ 10
1.2. Khái niệm hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp và vai trò của
công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho thanh niên thất nghiệp.................... 14
1.3. Nguyên tắc, nội dung các hoạt động của công tác xã hội trong hỗ trợ việc
làm đối với thanh niên thất nghiệp ................................................................... 18
1.4. Thể chế về hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp ....................... 22
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động hỗ trợ việc làm đối với thanh niên
thất nghiệp ........................................................................................................ 24
Chương 2. THỰC TRẠNG HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI THANH NIÊN
THẤT NGHIỆP TẠI HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH............... 27
2.1. Khái quát và khách thể nghiên cứu ........................................................... 27
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động hỗ trợ việc làm đối với
thanh niên thất nghiệp tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định .......................... 42
2.4. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ...................................................................... 50
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ
HỘI TRONG HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI THANH NIÊN THẤT
NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH ..... 52
3.1. Định hướng thực hiện công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với thanh
niên thất nghiệp................................................................................................. 52
3.2. Giải pháp thực hiện các hoạt động của công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối
với thanh niên thất nghiệp từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.............. 55
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 72
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 76


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tên đầy đủ

Chữ viết tắt
BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

Bảo hiểm xã hội

CTXH

Công tác xã hội

HTVL

Hỗ trợ việc làm

TN

Thanh niên

TNTN


Thanh niên thất nghiệp

LĐ- TB- XH

Lao động- Thương binh- Xã hội

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

NN

Nhà nước


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng kết quả thống kê trình độ học vấn của thanh niên thất nghiệp
và cơ cấu giới tính ........................................................................................... 30
Bảng 2.2. Thống kê về thu nhập của thanh niên thất nghiệp trước khi bị thất
nghiệp .............................................................................................................. 31
Bảng 2.3: Kết quả khảo sát bằng bảng hỏi đối với thanh niên thất nghiệp về sự
hỗ trợ việc làm của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong huyện .................... 33
Bảng 2.4. Kết quả khảo sát về tính hiệu quả của hoạt động truyền thông nâng
cao nhận thức cho thanh niên thất nghiệp của các cơ quan Nhà nước ........... 34
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát đánh giá của thanh niên thất nghiệp về tính hiệu
quả của hoạt động dịch vụ xã hội .................................................................... 41


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Biểu 2.1. Thống kê đặc điểm nghề nghề nghệp của thanh niên thất nghiệp... 31
Biểu 2.2. Thống kê tình trạng hôn nhân của thanh niên thất nghiệp .............. 32
Biểu 2.3. Thống kê nhu cầu của thanh niên thất nghiệp ................................. 32
Biểu 2.4. Kết quả khảo sát về những trở ngại của thanh niên thát nghiệp khi
tiếp cận các dịch vụ tham vấn, tư vấn việc làm .............................................. 37


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp là vấn đề xã hội rất phổ biến hiện nay, nó tồn tại ở nhiều quốc
gia, từ những nước phát triển đến những nước đang phát triển và những nước
kém phát triển.
Tỷ lệ thất nghiệp ở mỗi nước cũng khác nhau, các nước đang phát triển có
tỷ lệ thất nghiệp rất cao so với lực lượng lao động và số dân vì nền kinh tế chú
trọng vào phát triển công nghiệp và dịch vụ, các nước phát triển có nền kinh tế
hiện đại thì tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn. Hiện nay, thế giới đang bước vào thời kì
phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, con người luôn mở rộng và tìm tòi nhiều cách
thức, giải pháp mới cho việc nuôi sống xã hội, ai cũng có thể kiếm cho mình một
việc làm, tuy nhiên, việc làm đó đem lại thu nhập để có thể giải quyết được các
nhu cầu tối thiểu cho con người hay không là một vấn đề nan giải. Thế giới còn
rất nhiều người thất nghiệp, họ không có bất kỹ sự hỗ trợ xã hội nào nên việc
thỏa mãn nhu cầu tối thiểu được đặt ra cấp bách. Theo thống kê của tổ chức Lao
động quốc tế (ILO), trong số 200 triệu người thất nghiệp trên toàn thế giới, có tới
73,3 triệu là TN. Thất nghiệp là một lực cản mạnh mẽ đối với bất kỳ quốc gia,
vùng lãnh thổ nào trên con đường xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hiện
đại. Thất nghiệp luôn đi kèm với tệ nạn xã hội, an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội của một quốc gia.
Đối với Việt Nam, thất nghiệp là một thách thức rất lớn. Mặc dù chúng ta
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước đã và đang tiến hành kể từ sau năm 1986 đến nay. Nền kinh tế mở
cửa thu hút đầu tư trong và ngoài nước, các hình thức đầu tư kinh tế tư nhân
phát triển mạnh mẽ cùng với các hình thức kinh tế NN, nước ngoài đã tạo ra
nhiều ngành nghề, nhiều việc làm mới, đem lại thu nhập cao, ổn định cho xã hội.
Nền kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, quy mô nền kinh tế ngày càng
lớn, đời sống người dân ngày càng được cải thiện đáng kể. Việt Nam đang vươn
lên trở thành một nước có mức thu nhập trung bình so với thế giới. Tuy nhiên,
cho đến nay tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam vẫn còn cao (hiện khoảng 2,23%).
Trong đó tỷ lệ thất nghiệp của TN ở độ tuổi từ 15 đến 24 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao
1


so với lực lượng lao động trong độ tuổi chiếm khoảng (6,47%). Kết quả giải
quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp giữa các nhóm tuổi, giữa các vùng miền,
giữa khu vực thành thị và nông thôn còn thấp, nguồn lực thực hiện chính sách và
chương trình hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và hỗ trợ
việc làm cho TNTN nói riêng còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp, chỉ đạo, điều
hành ở các cấp, cơ chế trao quyền còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa khơi dậy
được tiềm năng thế mạnh của địa phương, sự tham gia chủ động, tích cực, sáng
tạo của người dân, của cộng đồng cùng nhau đẩy lùi nạn thất nghiệp, tạo việc
làm cho người lao động trong xây dựng nền kinh tế bền vững, xã hội ấm no. Việc
thực hiện các chính sách giải quyết việc làm, xóa bỏ tình trạng thất nghiệp ở TN
còn chồng chéo, thiếu tính hệ thống. Nhiều chính sách chưa khuyến khích được
người lao động, TNTN phấn đấu vươn lên trong lao động và tìm kiếm việc làm
bền vững, chưa khơi dậy được sự sáng tạo của thanh niên trong lao động và tiếp
thu những nghề nghiệp mới một cách chủ động [45]. .
Người lao động nói chung, TNTN nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản như tư vấn, tham
vấn việc làm, dịch vụ hỗ trợ tâm lí, pháp lí và y tế,... Bên cạnh đó, hoạt động
công tác xã hội trong HTVL đối với người lao động, TNTN còn rất hạn chế.

Việc vận dụng các phương pháp công tác xã hội, cung cấp các dịch vụ CTXH
để hỗ trợ người lao động, TNTN thoát khỏi tình trạng thất nghiệp vẫn còn khó
khăn thách thức.
Trong thời đại mà các vấn đề xã hội được giải quyết không chỉ bằng các
chính sách xã hội của NN mà còn cần phải có một đội ngũ nhân lực có chuyên
môn cao, khéo léo, linh hoạt để tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó,
nổi lên là vấn đề thất nghiệp ở TN thì lực lượng NVCTXH được coi là những
người đảm đương nhiệm vụ to lớn trong giúp đỡ họ tự giải quyết vấn đề để họ
vượt qua những khó khăn trong cuộc sống bằng những kiến thức và kỹ năng
chuyên môn .
Mục đích của CTXH, dịch vụ CTXH trong HTVL đối với TNTN là nhằm
giúp đỡ cá nhân, gia đình và cộng đồng nơi mà có nhiều vấn nạn thất nghiệp
nâng cao năng lực tự tìm kiếm việc làm, tự trang bị kỹ năng, kiến thức nghề
2


nghiệp để thoát khỏi tình trạng thất nghiệp, giúp họ đối mặt, tự thân vượt qua
những rủi ro khi bị mất việc làm và bị rơi vào tình trạng thất nghiệp... Hơn nữa,
còn thúc đẩy các điều kiện xã hội để cá nhân, gia đình có người thất nghiệp tiếp
cận được các chính sách, nguồn lực xã hội, đáp ứng nhu cầu cơ bản.
Huyện Hoài Nhơn nằm ở phía bắc tỉnh Bình Định, có diện tích: 412,95
km2, dân số 235.813 người. Mật độ dân 751 người/km². Lực lượng lao động từ
15 tuổi trở lên: 131.655 người, số lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên:
131.026 người, số lao động có việc làm trong độ tuổi lao động: 111.666 người.
Năm 2016, huyện Hoài Nhơn có 629 TNTN, trong đó có 50 người trong độ tuổi
từ 20 đến 24 tuổi [45]. Nguyên nhân thất nghiệp của TN trong độ tuổi này là do
tự nghỉ việc làm cũ để tìm việc làm mới, tự ý nghỉ việc để được hưởng BHTN, bị
chủ lao động chấm dứt hợp đồng lao động do tay nghề chưa đáp ứng yêu cầu
công việc, công ty ngừng hoạt động do thiếu vốn kinh doanh.
Muốn đạt được hiệu quả cao trong hoạt động HTVL nói chung và HTVL

cho TNTN nói riêng nhằm giúp TNTN có việc làm ổn định, có thu nhập đáp
ứng nhu cầu đời sống hàng ngày, đẩy lùi vấn nạn thất nghiệp và các tệ nạn xã hội
thì mỗi địa phương trong tỉnh phải có chương trình HTVL cụ thể phù hợp với
từng đối tượng theo độ tuổi và theo giới tính, trên từng địa bàn dân cư; xây dựng
và cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính chuyên nghiệp nhằm trợ giúp TNTN
có việc làm bền vững, từng bước nâng cao chất lượng sống và cải thiện tình
trạng hiện tại một cách đáng kể.
Vấn đề đặt ra là, với thực trạng thất nghiệp của TN hiện nay trên địa bàn
huyện Hoài Nhơn, các cơ quan chính quyền NN, các tổ chức chuyên môn nghiệp
vụ liên quan có những chính sách, cách thức nào, bện pháp nào để hỗ trợ việc
làm cho TNTN, trong đó, có việc vận dụng các phương pháp, cung cấp các dịch
vụ CTXH để HTVL cho TNTN, từ đó tạo những điều kiện, tiền đề thuận lợi để
giúp họ thoát ra khỏi tình trạng thất nghiệp cùng với gia đình hộ vươn lên cải
thiện chất lượng cuộc sống.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài:“Hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất
nghiệp huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” làm luận văn thạc sĩ ngành Công tác
xã hội của mình.
3


Với đề tài này, tôi muốn có được những đánh giá khách quan về thực
trạng hoạt động HTVL cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động HTVL đối
với TNTN trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, từ đó, đề xuất một số giải pháp dưới
góc độ CTXH nhằm nâng cao chất lượng HTVL đối với TNTN, giúp cho TNTN
có việc làm và có đời đời sống ngày càng tốt hơn, tận dụng được sức mạnh, tiềm
năng của thanh niên vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhà.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hỗ trợ việc làm đối với TNTN là một vấn vấn đề rất quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghiên cứu về các hoạt
động và giải pháp HTVL ở Việt Nam hiện nay đã được quan tâm trên nhiều

lĩnh vực khoa học khác nhau. Dưới đây là một số nghiên cứu về vấn đề việc
làm có liên quan đến vấn đề giải quyết việc làm đã được thực hiện dưới nhiều
góc độ như sau:
Nghiên cứu của Nguyễn Quang Hiển về “Thị trường lao động – Thực
trạng và giải pháp” được thực hiện vào năm 1995, đã hệ thống hóa các khái
niệm “việc làm”, đề ra các giải pháp và định hình nên các chính sách HTVL
đối với người lao động, người thất ngiệp. Tác giả cho rằng vấn đề việc làm,
giải quyết việc làm và nạn thất nghiệp là những vấn đề rất nan giải không chỉ
ở Việt Nam mà còn là vấn đề rất phức tạp của thế giới.
Dưới góc độ nghiên cứu về chính sách lao động việc làm, đề tài “Chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” do Nguyễn Hữu Dũng tiến hành nghiên
cứu vào năm 1997 đã nghiên cứu chính sách giải quyết việc làm ở nước ta trên
cả hai mặt lý luận và thực tiễn. Tác giả đã đưa ra hệ thống phương pháp luận,
phương pháp tiếp cận về việc làm, và cho ra hệ thống các khái niệm về việc làm,
lao động. Bên cạnh đó, tác giả công trình đã tiến hành nghiên cứu thực trạng,
nguyên nhân của thực trạng, đánh giá thực trạng đó để đưa ra các giải pháp về
mặt chính sách cho lao động nông thôn trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Cũng bàn về vấn đề trên theo hướng đề xuất các chính sách giải quyết việc
làm, trong bài “Chính sách lao động - việc làm nhìn từ góc độ kinh tế vĩ mô”của
tiến sĩ Nguyễn Minh Phong được đăng trên Tạp chí tài chính điện tử, số 96, ngày
4


15 tháng 06 năm 2011, tác giả đã chỉ ra được thực trạng thực hiện chính sách giải
quyết việc làm của NN đối với người lao động, đồng thời khái quát được bức tranh
tổng thể về việc làm, về tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở cả hai khu vực
thành thị và nông thôn. Qua bức tranh đó, tác giả đã đúc rút ra những bài học về
chính sách lao động, việc làm nhìn từ góc độ kinh tế. Tác giả đã đưa ra các bài học
về giải pháp giải quyết việc làm thông qua các chính sách việc làm trên các mặt lý

luận và thực tiễn phải được thực hiện một cách đồng bộ.
Dưới góc độ kinh tế học, đề tài cấp bộ “Giải pháp giải quyết việc làm và
tăng thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên”do tác
giả Đồng Văn Tuấn làm chủ nhiệm được thực hiện trong hai năm 2010 và năm
2011 đã đi sâu nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân của thực trạng, các yếu tố tác
động tới việc làm và thu nhập của nông dân, các giải pháp giải quyết việc làm cho
người lao động theo góc độ kinh tế học. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã hệ thống hoá
các lí luận về vấn đề giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn.
Đề tài cho rằng, thực trạng khó khăn trong giải quyết việc làm cho người lao động
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản là điều
kiện về hạ tầng kỹ thuật, về điều kiện tự nhiên và về bản thân người lao động. Từ
đó, tài đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cơ bản như giải pháp về giảm nghèo,
phát triển kinh tế nông nghiệp, đưa khoa học công nghệ vào sản xuất, giải pháp về
vốn, giải pháp về hợp tác sản xuất kinh doanh, giải pháp về xóa đói giảm nghèo.
Dưới góc độ tâm lí học xã hội, có đề tài cấp bộ “Việc làm, thu nhập và động
cơ làm việc của thanh niên nước ta hiện nay” do giáo sư Vũ Dũng thực hiện đã
được đúc kết thành sách có tên “Việc làm, thu nhập của thanh niên hiện nay - Nhìn
từ góc độ tâm lý học” xuất bản năm 2012. Đây là công trình nghiên cứu dưới góc
độ khoa học tâm lý về lao động, việc làm và thu nhập của thanh niên nước ta trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tác giả đã tổng hợp tình
hình nghiên cứu về thanh niên, về việc làm và thu nhập của thanh niên, những vấn
đề việc làm, học tập, nghề nghiệp, quan điểm của Đảng và NN về TN, việc làm và
lao động, chỉ ra bức tranh về bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của nước ta tác
động đến việc làm và thu nhập của TN. Bên cạnh đó, tác giả đã nghiên cứu sâu các
khía cạnh tâm lý của việc làm, thu nhập của thanh niên nước ta trong giai đoạn từ
5


năm 2001 đến năm 2010. Từ nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra hệ thống lí luận và
giải pháp HTVL và thu nhập của TN trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020.

Những công trình nghiên cứu trên tuy nghiên cứu về việc làm và HTVL dưới
nhiều góc độ khác nhau cho nhiều đối tượng, tuy nhiên, chưa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu hoạt động HTVL đối với một đối tượng yếu thế của xã hội là TNTN
dưới góc độ của CTXH, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về
hoạt động HTVL theo hình thức cung cấp dịch vụ công tác xã hội về việc làm. Do
vậy, với đề tài này tác giả không chỉ muốn tìm hiểu thực trạng hoạt động HTVL đối
với TNTN, thực trạng cung cấp các dịch vụ CTXH trong HTVL trên địa bàn huyện
mà còn muốn góp phần tìm ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng hiệu quả của
hoạt động CTXH trong HTVL đối với TNTN huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Việc nghiên cứu hoạt động HTVL đối với TNTN huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình sẽ bổ sung thêm vào những nghiên cứu về hoạt động hỗ trợ việc làm nói
chung, những nghiên cứu về việc làm và HTVL đối với TNTN nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn (thông qua thực tiễn tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) về hoạt
động HTVL đối với TNTN. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động HTVL đối với TNTN nói riêng và đối với người lao
động nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ sau
đây:
- Làm sáng tỏ những vấn lý luận về hoạt động HLVL đối với TNTN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, nhu cầu của TNTN huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định
- Phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động HTVL đối với TNTN huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động HTVL đối với TNTN
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
6



- Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp HTVL từ góc nhìn CTXH để trợ
giúp cho TNTN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hỗ trợ việc làm đối với thanh niên
thất nghiệp huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Khảo sát TNTN độ tuổi từ 20 tuổi đến 24 tuổi, đội
ngũ nhân lực HTVL, cán bộ quản lý trong lĩnh vực HTVL.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề lí luận và thực trạng
các yếu tố tác động đến hoạt động HTVL đối với TNTN. Từ đó, đưa ra một số
định hướng và giải pháp HTVL đối với TNTN dưới góc độ CTXH
Phạm vi về thời gian: Đề tài “Hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất
nghiệp huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” thực hiện từ tháng 03 năm 2017 đến
tháng 8 năm 2017.
Địa bàn nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực tiễn trong phạm vi huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình định.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tôi chủ yếu sử dụng các thuyết chính
sau:
Thuyết về nhu cầu con người; Thuyết về quyền con người; Thuyết nhận
thức hành vi; thuyết hệ thống sinh thái để làm cơ sở lý luận dẫn dắt đề tài.
Bên cạnh đó, tôi nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ những đánh
giá thực trạng các hoạt động HTVL đối với TNTN huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Đinh, đưa ra những kết luận và đề xuất các hoạt động công tác xã hội trong
HTVL đối với TNTN hiệu quả và thiết thực hơn.


7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Tổng hợp những đề tài, những công trình nghiên cứu có uy tín, những báo
cáo trong hoạt động hỗ trợ giải quyết việc làm và một số công trình nghiên cứu
về HTVL đối với TNTN dưới góc độ CTXH. Từ đó, phân tích cách cách thức,
phương pháp HTVL nhằm cung cấp những tài liệu tham khảo có giá trị trong
việc giúp định hình cách thức giải quyết vấn đề nghiên cứu của đề tài.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin chi tiết về thực trạng,
cách thức thực hiện, các yếu tố tác động đến đến hoạt động HTVL và có được
thông tin về hoạt động CTXH trong HTVL đối với TNTN.
Tiến hành phỏng vấn một số lãnh đạo trung tâm dạy nghề, lãnh đạo
trường trung cấp nghề, lãnh đạo Phòng LĐ- TB- XH huyện, lãnh đạo huyện
Đoàn, phỏng vấn TNTN độ tuổi từ 20 đến 24 tuổi, phỏng vấn đội ngũ nhân
lực HTVL của huyện.
Qua phỏng vấn sâu, giúp người nghiên cứu có được các thông tin thực
tế về hoạt động HTVL từ nhiều phía, từ đó, thu thập được nguồn thông tin
khách quan, chính xác làm cơ sở cho việc xây dựng phương pháp, cách thức
HTVL cho TNTN dưới góc độ CTXH.
5.2.3. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp này là một trong những phương pháp cơ bản của khoa
học Xã hội học. Sử dụng phương pháp bảng hỏi để thu thập thông tin chi tiết
về nhận thức của TNTN đối với vấn đề việc làm và vấn nạn thất nghiệp; thu
thập thông tin về nhu cầu của TNTN huyện Hoài Nhơn hiện nay; thu thập
thông tin đối với TNTN về các vấn đề xã hội mà họ gặp khó khăn do thất
nghiệp gây ra. Bên cạnh đó, sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin

về nghề nghiệp của TNTN trước khi họ bị thất nghiệp; thu thập thông tin về
trình độ học vấn của TNTN đối với nghề nghiệp mà họ đã từng làm việc; thu
thập thông tin về nhận thức của TNTN đối với sự quan tâm của cán bộ HTVL
cho TNTN ; thu thập thông tin về nhận thức của TNTN đối với các hoạt động
tập huấn kỹ năng, phương pháp HTVL cho TNTN được sử dụng bởi các cơ
8


quan chức năng của huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; điều tra về thu nhập
của TNTN trước thời điểm họ rơi vào tình trạng thất nghiệp; điều tra thông tin
về các chế độ chính sách của Nhà nước mà họ được hưởng trước và sau khi
thất nghiệp.
Qua việc điều tra bằng phương pháp này, người nghiên cứu có được
những thông tin vừa mang tính khác quan từ khách thể nghiên cứu, đông thời,
những thông tin thu thập được cũng đáp ứng được yêu cầu cầu của người
nghiên cứu về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp thêm vào hệ thống lí luận và làm
cơ sở dữ liệu bổ ích cho việc đánh giá, phân tích lí luận Công tác xã hội trong hỗ
trợ việc làm đối với TNTN nói riêng và người thất nghiệp nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ ra được thực trạng về thất nghiệp của
TN, thực trạng CTXH trong HTVL và các tác động đến hoạt động CTXH trong
HTVL đối với TNTN. Từ đó, xây dựng các được các giải pháp HTVL đối với
TNTN dưới góc độ CTXH tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, mục danh từ viết tắt, phụ lục, các
bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của đề tài bao gồm ba
chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hỗ trợ việc làm đối với thanh niên
thất nghiệp
Chương 2: Thực trạng hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp tại
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
Chương 3: Định hướng và giải pháp thực hiện công tác xã hội trong hỗ
trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình Định

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ VIỆC LÀM ĐỐI VỚI THANH
NIÊN THẤT NGHIỆP
1.1. Thanh niên thất nghiệp: Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thanh niên thất nghiệp
1.1.1.1. Thanh niên thất nghiệp
Theo Luật Thanh niênsố 53/2005/QH11 của Quốc hội:“Thanh niên là những
người có độ tuổi từ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi’’ [30].
Tại Điều 20 Công ước số 102 (1952) của Tổ chức lao động quốc tế (gọi tắt là
ILO) về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội định nghĩa: “Thất nghiệp là sự ngừng
thu nhập do không có khả năng tìm được một việc làm thích hợp trong trường hợp
người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” [37].
ILO còn đưa đưa ra khái niệm “Người thất nghiệp” trong Công ước số 168
(1988) như sau:“Người thất nghiệp bao gồm toàn bộ số người ở độ tuổi làm việc
theo quy định trong thời gian điều tra, có khả năng làm việc, nhưng không có việc
làm và vẫn đang đi tìm kiếm việc làm” [40].
Từ hai định nghĩa trên về khái niệm thất nghiệp và người thất nghiệp của
ILO, chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của “người thất nghiệp” đó là: Người trong độ
tuổi lao động, người có khả năng lao động, người hiện tại không có việc làm, người

vẫn đang tìm việc làm mới. Đây là các tiêu chí chung, cũng là đặc điểm về người
thất nghiệp mang tính khái quát cao đã được nhiều quốc gia lấy làm cơ sở để định
nghĩa cho khái niệm “người thất nghiệp” và tính tỷ lệ thất nghiệp tại quốc gia mình.
Quan điểm của ILO đã góp phần đưa ra một cái nhìn toàn diện về vấn nạn
thất nghiệp như một trong những vấn đề của quyền con người trước nhu cầu vươn
tới một cuộc sống no đủ, có ích, được đảm bảo an ninh thu nhập và không ngừng
nâng cao năng lực phát triển của mọi thành viên xã hội, dù họ sống ở quốc gia nào.
Tại hội nghị Quốc tế về thống kê lao động lần thứ 13 tại Genevơ năm 1982
về Thống kê dân số hoạt động kinh tế, việc làm, thất nghiệp đã thống nhất đưa ra
khái niệm về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp bao gồm toàn bộ số người ở độ tuổi
10


quy định trong thời gian điều tra có khả năng làm việc, không có việc làm và đang
đi tìm kiếm việc làm”.
Một trong số các nhà kinh tế đưa ra lý thuyết về thất nghiệp đó là
Samuelson- nhà kinh tế học người Mỹ. Samuelson đã phân tích cung và cầu về lao
động để thấy rõ bản chất của thất nghiệp. Từ đó, ông đã phân ra một số dạng thất
nghiệp như sau:
Thất nghiệp tự nguyện: “Là những người lao động có nhu cầu làm việc
nhưng lại không muốn làm việc với mức lương thịnh hành trên thị trường lúc đó”
[47].
Thất nghiệp không tự nguyện: “Là những người không có việc làm, muốn
làm việc với mức lương đang thịnh hành nhưng không thể tìm được việc làm do cầu
về lao động thấp” [47].
Sau khi phân tích những biến động của thị trường lao động và các biến động
của nền kinh tế, Samuelson còn phân ra ba loại thất nghiệp, đó là:
Thất nghiệp tạm thời: “Là dạng thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không
ngừng của con người giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau
của cuộc sống. Ông cho rằng trong một nền kinh tế có đầy đủ việc làm, nhưng vẫn

có thể luôn có một bộ phận người lao động di chuyển từ nơi này sang nơi khác do
nhu cầu của cuộc sống và chưa thể có việc làm ngay” [47].
Thất nghiệp có tính cơ cấu: “Là dạng thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân
đối giữa cung và cầu lao động. Trong một nền kinh tế biến động, cầu về một loại
lao động nào đó tăng lên, trong khi mức cầu về một loại lao động khác lại giảm đi,
nhưng mức cung lao động lại không được điều chỉnh đồng thời nên xảy ra tình
trạng thất nghiệp cơ cấu” [47].
Thất nghiệp chu kỳ: “Là dạng thất nghiệp xảy ra khi mức cầu chung về lao
động thấp. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm, thất nghiệp sẽ tăng lên ở khắp mọi
nơi trong toàn bộ nền kinh tế. Khác với thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu,
thất nghiệp chu kỳ phản ánh sự rệu rã, suy thoái của một nền kinh tế” [47].
Ở Việt Nam, khái niệm “người thất nghiệp” đã được định nghĩa tại Khoản 4,
11


Điều 3 của Luật BHXH năm 2006, theo đó, người thất nghiệp “là người đang đóng
bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng
chưa tìm được việc làm” [31].
Luật BHXH chỉ tính người thất nghiệp trong phạm vi những lao động đóng
BHXH bắt buộc. Như vậy, khái niệm này chỉ có ý nghĩa rất bó hẹp và hạn chế hơn
nhiều so với các định nghĩa của ILO. Khái niệm này đã bỏ qua một lực lượng lao
động đang tìm kiếm việc làm và không tham gia đóng BHXH nhưng chưa có việc
làm tại thời điểm của một cuộc điều tra.
Để đáp ứng yêu cầu của đề tài, đúc kết từ quan điểm về thất nghiệp và khái
niệm người thất nghiệp trên, tôi đưa ra khái niệm “người thất nghiệp” và “thanh
niên thất nghiệp” như sau:
Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động bao gồm những
người hiện đang mất việc làm có tham gia đóng BHXH hoặc không tham gia đóng
BHXH trong thời gian cùng một cuộc điều tra về việc làm và đang tích cực tìm kiếm
việc làm mới.

Thanh niên thất nghiệp là những người có độ tuổi từ mười sáu tuổi đến ba
mươi tuổi bao gồm những người hiện đang mất việc làm có tham gia đóng BHXH
hoặc không tham gia đóng BHXH trong thời gian cùng một cuộc điều tra về việc
làm và đang tích cực tìm kiếm việc làm mới.
1.1.1.2. Đặc điểm của thanh niên thất nghiệp
Một số đặc điểm về tâm lí:
TNTN luôn lo lắng về đời sống vật chất do mất khoản thu nhập từ việc làm.
Họ là những người luôn khao khát được làm việc, khao khát có thu nhập cao từ
công việc mới ổn định hơn, luôn muốn học nghề để có thể tăng cơ hội xin được việc
làm. Tuy nhiên, một bộ phận TNTN cũng rơi vào một số trạng thái tâm lí tiêu cực
sau như thiếu tự tin so với các bạn bè cùng lứa tuổi đang có việc làm ổn định nên
rụt rè trong giao tiếp và hay e ngại khi đề cập đến trình trạng việc làm của họ,
không quan tâm đến công việc mới vì nghĩ rằng không có cơ hội tìm việc mới. Họ
có tâm lí chán ghét học nghề vì phải bỏ ra một thời gian dài để học, chi phí cho học
12


nghề cao nhưng chưa chắc chắn có được vi
Đặc điểm kinh tế - xã hội: TNTN là những người không có thu nhập thiếu
hoặc không có vốn để tìm việc làm, sinh hoạt hàng ngày chủ yếu dựa vào gia đình
hoặc các khoản trợ cấp xã hội nếu như họ có tham gia BHTN. Họ ít hoặc không tham
gia vào các hoạt động xã hội, các hoạt động cộng đồng, giao lưu, hội họp.
1.1.2. Nhu cầu của thanh niên thất nghiệp
Nhà tâm lí học người Mỹ, Abraham Maslow (1943), đã đưa ra thuyết nhu
cầu rất nổi tiếng về các nhu cầu cơ bản của con người nói chung. Theo ông con
người đều có năm nhu cầu cơ bản từ thấp đến cao như sau:
Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người
như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục. Là nhu cầu cơ
bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu
những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Đặc biệt là với trẻ em

vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu
cơ bản này. Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới
mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ
không thể tiến thêm nữa.
Nhu cầu về an toàn: An toàn có nghĩa là được sống và làm việc trong một
môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển nhân cách bền vững và lành
mạnh của con người. An toàn về sức khỏe thể chất là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề
cho các khía cạnh khác như là an toàn về lao động, an toàn về môi trường và an
toàn về nghề nghiệp,..
Những nhu cầu về quan hệ tình cảm, được quan tâm thừa nhận: Con người
là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa
nhận. Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị
cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng
trung thành giữa con người với nhau.
Nhu cầu được tôn trọng: Bao gồm lòng tự trọng và được người khác tôn
trọng. Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin, có năng lực,
13


có bản lĩnh, độc lập, tự tin, tự trưởng thành, tự thể hiện khả năng và tự hoàn thiện
bản thân. Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín,
được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là được người
khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách
để làm tốt công việc được giao. Vì vậy, nhu cầu được tôn trọng là nhu câu không
thể thiếu đối với mỗi con người.
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách
phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới mức độ tối đa và hoàn
thành được mục tiêu nào đó.
Đối với thanh niên nói chung và TNTN nói riêng thì vẫn đảm bảo phải có
đầy đủ năm loại nhu cầu này. Song, với các đặc điểm tâm lí, đặc điểm về việc

làm đã được đề cập ở trên, tôi đưa ra các nhu cầu mà bất kì TNTN nào cũng cần
có như sau:
Nhu cầu có thu nhập hàng tháng để đảm bảo cho chi tiêu sinh hoạt hàng
ngày.
Nhu cầu có việc làm phù hợp với tay nghề và năng lực
Nhu cầu được học nghề, được giới thiệu việc làm, được tập huấn kỹ năng
nghề và nâng cao tay nghề.
Nhu cầu được quan tâm, được hỗ trợ tâm lí.
Nhu cầu được trợ giúp pháp lí.
1.2. Khái niệm hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp và vai trò của
công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm cho thanh niên thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm việc làm và hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm việc làm
Khái niệm việc làm cũng là một khái niệm được nhiều công trình nghiên cứu
khoa học, nhiều chuyên gia nghiên cứu tìm hiểu. Dưới đây, khái niệm này có nhiều
quan điểmđề cập đến như sau:
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất nhiều
định nghĩa nhằm làm sáng tỏ khái niệm “Việc làm”. Ở các quốc gia khác nhau, do
14


ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp… người ta
quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế không có một định nghĩa
chung về việc làm.
Theo Điều 13, Bộ luật Lao động Việt Nam:“Mọi hoạt động tạo ra thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [32].
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội , khái niệm“Việc làm” được hiểu như sa u:“Việc làm là trạng thái phù hợp về
mặt số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động để tạo ra hàng
hóa theo nhu cầu của thị trường” [41, tr. 262].

Từ các quan điểm trên, có thể hiểu, việc làm là hoạt động lao động của các
cá nhân trong xã hội nhằm mục đích tạo ra thu nhập (được trả công bằng tiền, hiện
vật, trao đổi công; tự làm để tạo thu nhập, tạo lợi ích cho gia đình không hưởng tiền
công/lương).
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra khái “Người có việc làm” được
tác giả Vũ Thị Việt Anh (2011) đề cập trong luận văn cao học“Giải quyết việc làm
cho người lao động dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắc Lắc” như sau:“Người có việc làm
là những người đang làm một việc gì đó, được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được
thanh toán bằng hiện vật hoặc người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự
tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình không nhận được tiền công hay
hiện vật” [1].
Từ các quan điểm về khái niệm“Việc làm” và khái niệm “Người có việc
làm” được trình bày ở trên, có một số điểm chung về khái niệm “Việc làm” được
đúc kết như sau:
Việc làm là công việc mà được trả tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó hoặc là công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền sử
dụng hoặc quyền sở hữu một phần hay toàn bộ tư liệu sản xuất để tiến hành công
việc đó.
Việc làm là công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao
dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó gồm có sản xuất nông nghiệp,
15


hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên khác trong gia
đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Theo quan điểm của người nghiên cứu dưới góc độ của Công tác xã hội, tôi
đưa ra quan điểm về khái niệm“Việc làm” như sau: “Việc làm là bất kỳ hoạt động
nào tạo ra của cải vật chất, tinh thần đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cho sinh hoạt
hàng ngày của con người mà không vi phạm pháp luật”
1.2.1.2. Khái niệm hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp

Kkhái niệm “Hỗ trợ” được tác giả Hoàng Phê định nghĩa trong cuốn Từ điển
tiếng Việt năm 2016 như sau: “Hỗ trợ được hiểu là sự giúp đỡ lẫn nhau làm giảm
bớt khó khăn, bổ sung thêm những biện pháp giải quyết các vấn đề khó khăn” [48].
Khái niệm “Hỗ trợ việc làm” được nhiều tác giả đề cập đến với nhiều tên
gọi khác nhau và đưa ra định nghĩa như sau:
Trong đề tài thạc sĩ “Pháp luật việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam
trong thời kì hội nhập” năm 2011 của tác giả Đinh Thị Nga Phượng, dưới góc nhìn
của Luật kinh tế về giải quyết việc làm, tác giả cho rằng: “Giải quyết việc làm là
quá trình tạo ra điều kiện và môi trường đảm bảo cho mọi người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động, đang có nhu cầu tìm việc làm với mức tiền công thịnh
hành trên thị trường đều có cơ hội làm việc” [49]. Với góc nhìn này, tác giả đã chỉ
ra việc giải quyết việc làm tức là giúp cho mọi người có nhu cầu việc làm có được
việc làm để hòa nhập với môi trường xã hội xung quanh như những người khác.
Quan điểm này của tác giả đồng với quan điểm chung của Công tác xã hội về hỗ trợ
cho con người đang thiếu hoặc khiếm khuyết về nhu cầu nào đó trong cuộc sống
cần được hỗ trợ. Dưới góc nhìn này, thực chất của khái niệm “Giải quyết việc làm”
đồng nghĩa với khái niệm “Hỗ trợ việc làm” mà đề tài “Hỗ trợ việc làm đối với
thanh niên thất nghiệp huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” nghiên cứu.
Như vậy, từ khái niệm“Hỗ trợ” và khái niệm “Giải quyết việc làm” được
các tác giả định nghĩa trên, tôi định nghĩa khái niệm “Hỗ trợ việc làm” dưới góc
nhìn của Công tác xã hội như sau: Hỗ trợ việc làm là quá trình tạo ra môi trường
thuận lợi nhằm sự giúp đỡ cá nhân, nhóm, cộng đồng gặp khó khăn về việc làm tự
16


tìm hiểu, đánh giá, xác định nhu cầu và vấn đề, từ đó, họ có thể tìm kiếm được việc
làm mới để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của chính họ, đảm bảo tăng thu
nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Từ những khái niệm việc làm, thất nghiệp, thanh niên thất nghiệp, tôi định
nghĩa khái niệm “Hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất nghiệp” như sau: “Hỗ trợ

việc làm đối với thanh niên thất nghiệp là hoạt động tìm hiểu, đánh giá, xác định
nhu cầu và vấn đề của thanh niên thất nghiệp, từ đó, đưa ra kế hoạch trợ giúp đối
tượng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội mà có thể giúp họ tự thân thoát khỏi
tình trạng thất nghiệp, có được việc làm để đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cuộc
sống, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của họ một cách bền vững từ hệ
thống dịch vụ đó.”
1.2.2. Vai trò của công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với thanh niên thất
nghiệp
Trong đề tài này, tôi nêu ra các vai trò của CTXH trong hỗ trợ việc làm đối
với TNTN như sau:
Vai trò kết nối: CTXH có vai trò kết nối TNTN tiếp cận được các dịch vụ
tham vấn, tư vấn về việc làm, về học nghề và các dịch vụ BHXH khác. Đồng thời,
NVCTXH kết nối TNTN với các tổ chức, đoàn thể xã hội để tìm sư trợ giúp vật
chất, tinh thần khi gặp khó khăn.
Vai trò giáo dục và hướng nghiệp: CTXH hỗ trợ các phương pháp, hình thức
học và đào tạo nghề cho các tổ chức, trường học, trung tâm đào tạo nghề nghiệp
thông qua các chương trình tập huấn nhân viên, giáo viên, học sinh và người lao
động,.. các kỹ năng nghề nghiệp.
Vai trò biện hộ: CTXH hỗ trợ cho TNTN các nhu cầu về pháp lí khi gặp khó
khăn trong tìm kiếm việc làm, xử lí hợp đồng lao động, hỗ trợ cho TNTN giải quyết
BHXH.
Vai trò đánh giá trường hợp: Hoạt động của CTXH trong HTVL đối với
TNTN bao gồm việc thực hiện vai trò là người đánh giá nhu cầu và vấn đề TN của
đối tượng. Từ việc đánh giá đó, NVCTXH có kế hoạch hành động trợ giúp để ĐT
17


tự giải quyết vấn đề.
Vai trò vận động các nguồn lực hỗ trợ cho TNTN: Trong HTVL đối với
TNTN, NVCTXH đóng vai trò là người vận động chính sách và các nguồn lực về

vật chất, nhân lực để hỗ trợ để ĐT tự giải quyết vấn đề.
1.3. Nguyên tắc, nội dung các hoạt động của công tác xã hội trong hỗ trợ việc
làm đối với thanh niên thất nghiệp
1.3.1. Các nguyên tắc công tác xã hội trong hỗ trợ việc làm đối với thanh niên
thất nghiệp
Trong hoạt động CTXH nói chung, NVCTXH phải tuân thủ các nguyên tắc
cơ bản của nghề khi tham gia trợ giúp cho ĐT. Các nguyên tắc đó giúp cho
NVCTXH thể hiện hành vi, thái độ và kỹ năng phù hợp trong quá trình trợ giúp,
đồng thời, giúp cho NVCTXH và ĐT giữ được mối quan hệ phù hợp trong suốt tiến
trình trợ giúp cho ĐT tự giải quyết vấn đề.
- Trong giáo trình “Nhập môn công tác xã hội”, tiến sĩ Bùi Thị Xuân Mai đã
đề cập đến các các nguyên tắc cơ bản của CTXH và nguyên tắc hành động của
NVCTXH được tóm tắt như sau như sau:
NVCTXH phải chú ý đến khả năng tiềm tàng và các mặt tích cực của ĐT
hơn là chú ý đến các mặt hạn chế, mặt tiêu cực.
NVCTXH giúp đỡ tối đa cho ĐT để tăng tính độc lập, tự chủ của đối tượng.
NVCTXH phải có trách nhiệm tạo ra một số thay đổi trong môi trường của
ĐT để hạn chế những tác động bất lợi cho ĐT.
NVCTXH phải hướng dẫn, giúp đỡ ĐT để họ học hỏi những hành vi mới có
lợi cho họ.
NVCTXH giúp ĐT bộc lộ tiềm năng và sức mạnh để họ sử dụng năng lực
thích hợp trong giải giải quyết vấn đề.
NVCTXH cần thấm nhuần việc đương đầu với những khó khăn là một điều
tất yếu trong cuộc sống con người.
NVCTXH giúp đỡ ĐT thấy được và hiểu được các hành vi để tạo ra sự thay
đổi
18


NVCTXH tôn trọng ĐT với bất kì thái độ, quan điểm và niềm tin nào của họ

để giúp hiểu được các giá trị, thái độ và niềm tin đó tác động như thế nào đến vấn
đề của họ, giúp họ tìm ra giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề.
NVCTXH cần đặt mình vào vị trí của ĐT để chấp nhận ĐT. Chấp nhận ở
đây không đồng nghĩa với việc đồng ý với những cư xử sai trái của đối tượng.
NVCTXH giúp ĐT tăng khả năng xác định ý thức họ làm cho các kinh nghiệm của
họ trong cuộc sống trở nên có giá trị và được khẳng định.
- Nguyên tắc hành động của NVCTXH: Chấp nhận ĐT, tạo điều kiện để ĐT
tham gia giải quyết vấn đề, tôn trọng quyền tự quyết của ĐT, đảm bảo tính khác biệt
của mỗi trường hợp, đảm bảo tính riêng tư, kín đáo các thông tin về trường hợp của
ĐT, tự ý thức về bản thân, đảm bảo mối quan hệ nghề nghiệp.
Vận dụng những nguyên tắc trên, để đáp ứng tính khách quan của quá trình
nghiên cứu của đề tài và đảm bảo tính phù hợp đối với ĐT là TNTN, tôi đưa ra một
số nguyên tắc hành động trong hoạt động HTVL đối với TNTN như sau:
NVCTXH phải thừa nhận nhu cầu việc làm là nhu cầu quan trọng nhất đối
với TNTN: TNTN họ là những đối tượng cần sự hỗ trợ không chỉ về vật chất mà còn
về tinh thần. Họ luôn khát khao có việc làm mới nhưng đồng thời cũng ngại tự đi
tìm việc làm, họ luôn có đòi hỏi khi được giúp đỡ vì nhu cầu của họ là có việc làm,
có thu nhập và cần sự quan tâm. Vì vậy, NVCTXH phải thừa nhận đáp ứng nhu cầu
việc làm cho họ được đặt lên hàng đầu hơn bất kì nhu cầu nào khác vì khi có việc
làm họ có thể co thu nhập và tự giải quyết các nhu cầu tối thiểu khác.
Chấp nhận mọi hoàn cảnh sống của TNTN: Dù họ là ai, ở đâu, giàu hay
nghèo thì cũng phải chấp nhận họ như là một người đang cần sự trợ giúp. TNTN là
những người mất việc làm nên đa số họ có hoàn cảnh và điều kiện sống hết sức khó
khăn, họ không có tài sản nên chỉ trông chờ vào sự trợ giúp mang tính hảo tâm từ
người khác. Vì vậy, khi HTVL cho họ, NVCTXH cần chấp nhận tình trạng sống
hiện có của họ và coi đó là điều tất yếu trong cuộc sống.
Chủ động tiếp cận TNTN để cung cấp dịch vụ CTXH trong HTVL: Hầu hết
THTN đều bị động trong việc tìm kiếm việc làm và tiếp cận các thông tin hỗ trợ xã
19



×