Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Ảnh hưởng của biến đổi môi trường sông Năng đến sinh kế người Tày, Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 110 trang )

LÝ CẨM TÚ

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Lý Cẩm Tú

DÂN TỘC HỌC

ẢNH HƢỞNG CỦA BIẾN ĐỔI MÔI TRƢỜNG
SÔNG NĂNG ĐẾN SINH KẾ NGƢỜI TÀY, DAO
Ở XÃ BÀNH TRẠCH, HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

KHÓA II - THÁNG 10/2015

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Lý Cẩm Tú

ẢNH HƢỞNG CỦA BIẾN ĐỔI MÔI TRƢỜNG
SÔNG NĂNG ĐẾN SINH KẾ NGƢỜI TÀY, DAO
Ở XÃ BÀNH TRẠCH, HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Dân tộc học và Nhân học


Mã số: 60 31 03 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ BÍCH LAN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “Ảnh hưởng của biến đổi môi trường sông Năng
đến sinh kế người Tày, Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn” là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả của luận văn là hoàn toàn
trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng nhƣ số liệu của các tác giả
khác, cơ quan tổ chức khác có trích dẫn và chú thích rõ nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung luận văn của mình.

Hà Nội, tháng 8 năm 2017
Tác giả

Lý Cẩm Tú


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, trƣớc tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến ngƣời hƣớng dẫn: TS. Bùi Thị Bích Lan - Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm

Khoa học Xã hội Việt Nam. Với nhiều tài liệu, kinh nghiệm quý giá, TS. Bùi Thị
Bích Lan là ngƣời theo sát, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài cũng nhƣ
định hƣớng nghiên cứu sau này.
Tôi xin cám ơn các thầy cô thuộc Khoa Dân tộc học và Nhân học, Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Sự hỗ trợ và giảng dạy
nhiệt tình của các thầy cô đã giúp tôi có đƣợc không chỉ kiến thức mà còn cả kỹ
năng nghiên cứu khoa học.
Tôi xin cám ơn toàn thể các cán bộ Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam - nơi tôi đang công tác. Sự khuyến khích của lãnh đạo Viện,
sự ủng hộ của các anh chị đồng nghiệp là nguồn động viên to lớn giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi cũng xin cám ơn Sở Tài nguyên và Môi trƣờng tỉnh Bắc Kạn, Ủy ban
Nhân dân huyện Ba Bể, Đảng ủy cùng Ủy ban Nhân dân xã Bành Trạch và bà con
nhân dân xã Bành Trạch, huyện Ba Bể đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực
địa tại địa phƣơng để thu thập tƣ liệu cho luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, đặc biệt là bố tôi - TS.Lý
Hành Sơn, ngƣời không chỉ luôn ở bên quan tâm động viên mà còn cung cấp nhiều
tri thức, kỹ năng và thông tin quan trọng, là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của tôi trong
quá trình thực hiện đề tài và nghiên cứu khoa học.
Trong điều kiện hạn chế cả về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc sự góp ý, chỉ bảo của
quý Hội đồng.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ............................................................. 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 8
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ..................................... 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................ 11
7. Cơ cấu của luận văn.............................................................................. 12
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU......13

1.1. Cơ sở lý thuyết................................................................................... 13
1.2. Khái quát địa bàn nghiên cứu ............................................................ 17
CHƢƠNG 2. VAI TRÒ CỦA MÔI TRƢỜNG SÔNG NĂNG ĐỐI VỚI SINH KẾ
NGƢỜI TÀY VÀ DAO TRƢỚC NĂM 1986.........................................................26

2.1. Vai trò của môi trƣờng sông Năng đối với sinh kế ngƣời Tày ......... 26
2.2. Vai trò của môi trƣờng sông Năng với sinh kế ngƣời Dao ............... 36
CHƢƠNG 3. SINH KẾ NGƢỜI TÀY VÀ DAO DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI
MÔI TRƢỜNG SÔNG NĂNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY...................................47

3.1. Tình hình suy thoái môi trƣờng sông Năng....................................... 47
3.2. Biến đổi sinh kế của ngƣời Tày và Dao ở xã Bành Trạch ................ 54
3.3. Một vài nhận xét về dịch vụ hệ sinh thái sông Năng sau năm 1986 71
3.4. Kiến nghị và giải pháp....................................................................... 76
KẾT LUẬN.........................................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................
PHỤ LỤC............................................................................................................................


DANH MỤC HÌNH ẢNH
STT
Hình 2.1


Hình 2.2

Hình 2.3

Hình 2.4

Hình 2.5

Hình 2.6

Hình 2.7

Hình 2.8

Hình 3.1

Hình 3.2

Hình 3.3
Hình 3.4

Tên hình, bảng biểu
Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp đối với ngƣời Tày
ở thôn Nà Dụ trƣớc năm 1986
Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp đối với ngƣời Tày
ở thôn Pác Pìn trƣớc năm 1986
Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng trƣớc năm 1986 đối
với ngƣời Tày ở thôn Nà Dụ và phía Nam thôn Pác Pìn
Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng trƣớc năm 1986 đối
với ngƣời Tày ở phía Bắc thôn Pác Pìn

Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp của ngƣời Dao
Tiền ở thôn Nà Còi trƣớc năm 1986
Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp đối với ngƣời
Dao Đỏ ở thôn Nà Nộc trƣớc 1986
Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng trƣớc năm 1986 đối
với ngƣời Dao Đỏ ở thôn Nà Nộc
Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng trƣớc năm 1986 đối
với ngƣời Dao ở thôn Nà Còi
Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp của ngƣời Tày ở
thôn Nà Dụ sau năm 1986
Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp của ngƣời Tày ở
thôn Pác Pìn sau năm 1986
Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp đối với ngƣời
Dao Đỏ ở thôn Nà Nộc sau năm 1986
Vai trò của các nguồn nƣớc trong nông nghiệp đối với ngƣời

Trang
28

29

34

35

37

37

43


44

54

55

57
58


Dao Tiền ở thôn Nà Còi sau năm 1986
Hình 3.5

Hình 3.6

Hình 3.7

Hình 3.8

Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng sau năm 1986 đối
với ngƣời Tày ở thôn Nà Dụ và phía Nam thôn Pác Pìn
Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng sau 1986 đối với
ngƣời Tày ở phía Bắc thôn Pác Pìn
Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng sau năm 1986 đối
với ngƣời Dao Đỏ ở thôn Nà Nộc
Tóm tắt các dịch vụ hệ sinh thái sông Năng sau năm 1986 đối
với ngƣời Dao Tiền ở thôn Nà Còi

72


73

73

74

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên hình, bảng biểu

STT

Trang

Bảng 1.1

Các dịch vụ hệ sinh thái sông

14

Hình 1.1

Vị trí địa lý xã Bành Trạch

16

Bảng 1.2

Đặc điểm tự nhiên và dân số các thôn Nà Nộc, Pác Pìn, Nà Dụ,
Nà Còi


Bảng 3.1

Các thông số chất lƣợng nƣớc tại sông Năng, xã Bành Trạch

Bảng 3.2

Lƣu lƣợng nƣớc sông Năng lớn nhất các tháng năm 2014

Bảng 3.3

Bảng 3.4

Vai trò của đất ven bờ sông Năng trƣớc và sau năm 1986 đối với
ngƣời Tày ở xã Bành Trạch
Vai trò của đất ven bờ sông Năng trƣớc và sau năm 1986 đối với
ngƣời Dao ở xã Bành Trạch

21
48-49
49
60

61


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các thành tố của môi trƣờng, sông ngòi là tài nguyên không thể thay

thế. Một dòng sông không chỉ cung cấp nguồn nƣớc và thủy sản, mà còn chứa đựng
nhiều giá trị to lớn khác nhƣ: bồi đắp đất đai cho cƣ trú và nông nghiệp, vận tải
thủy, hạn chế lũ lụt, ổn định chất lƣợng không khí... [44]. Sông ngòi đóng vai quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội hay các hoạt động văn hóa, tinh
thần... của con ngƣời. Lịch sử đã cho thấy những nền văn minh phƣơng Đông cổ đại
nhƣ Lƣỡng Hà, Ấn - Hằng, vƣơng triều Hạ (Trung Quốc)... thƣờng ra đời ở lƣu vực
các dòng sông lớn. Sông ngòi là mạch sống của cƣ dân nông nghiệp.
Việt Nam - một đất nƣớc đƣợc ƣu ái hệ thống sông dồi dào, với trên 2.360
con sông và 16 lƣu vực lớn, cung cấp hơn 1.167.000 km2 diện tích đất cho cƣ dân
toàn quốc [38]. Tuy nhiên, sông ngòi ở nƣớc ta lại đang bị ô nhiễm, tàn phá nghiêm
trọng bởi nhu cầu dùng nƣớc cho sinh hoạt, công nghiệp ngày một gia tăng, cộng
thêm rác thải và các hoạt động khai khoáng, thuỷ điện, phá rừng... không đƣợc kiểm
soát. Tình trạng suy giảm chất lƣợng môi trƣờng sông dẫn tới thiếu nƣớc, lũ lụt, xói
mòn, mất nguồn lợi thủy sản... đã và đang xảy ra, không chỉ ở một vài nơi, mà còn
bao trùm nhiều vùng miền trên khắp cả nƣớc. Đối mặt với vấn đề biến đổi môi
trƣờng sông, mỗi cộng đồng lại chịu mức độ ảnh hƣởng khác nhau. Đặc biệt, các
dân tộc thiểu số với đời sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên đƣợc đánh giá là đối
tƣợng nhạy cảm trƣớc tác động từ sự biến đổi môi trƣờng [35]. Suy thoái tài nguyên
sông ngòi sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống của họ, gây nên những thay đổi to
lớn cả về kinh tế, văn hóa, xã hội...
Là khu vực chậm phát triển so với cả nƣớc, miền núi phía Bắc Việt Nam
đang phải đối mặt với nhiều tác hại của biến đổi môi trƣờng, trong đó bao gồm các
hệ sinh thái sông. Đây cũng là nơi cƣ trú của nhiều cộng đồng, tộc ngƣời với bản
sắc văn hóa riêng biệt, gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Suy thoái môi trƣờng sông
ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống của họ, là vấn đề đƣợc nhiều cộng đồng dân tộc
1


thiểu số hết sức quan tâm. Đối với mục tiêu phát triển bền vững, phát triển kinh tế xã hội cần hài hòa với gìn giữ môi trƣờng và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của
từng tộc ngƣời. Do vậy, nghiên cứu về biến đổi môi trƣờng sông ở vùng miền núi là

đề tài thiết thực, có tính thực tiễn, ứng dụng. Đặc biệt, phân tích từ góc độ ngƣời
dân - chủ thể đem lại cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề môi trƣờng và hoạt động
thích nghi của con ngƣời. Đây cũng là hƣớng đi mới, ít đƣợc đề cập trong các
nghiên cứu Dân tộc học, Nhân học từ trƣớc đến nay.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của biến đổi môi
trường sông Năng đến sinh kế người Tày, Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể,
tỉnh Bắc Kạn” làm đề tài luận văn Thạc sĩ. Đề tài tập trung vào trƣờng hợp xã Bành
Trạch, huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn, nhƣ một minh chứng cho tƣơng tác hai chiều
giữa con ngƣời và tự nhiên. Dòng sông Năng chảy qua địa bàn xã có vai trò quan
trọng đối với một số cộng đồng ngƣời dân tộc thiểu số sinh sống nơi đây, nhƣng
đang bị tàn phá nặng nề bởi nhiều lý do khách quan, chủ quan. Ngƣợc lại, ngƣời
dân xã Bành Trạch vốn có sinh kế phụ thuộc nhiều vào sông Năng, kể cả gián tiếp
lẫn trực tiếp đang phải thay đổi để thích nghi. Điều này đặt ra câu hỏi về vai trò của
chính quyền địa phƣơng và hiệu quả của các dự án đang đƣợc triển khai. Kết quả
nghiên cứu góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách,
hƣớng tới mục tiêu phát triển bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Đôi nét về tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Môi trƣờng sông là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trên thế
giới. Trong suốt thập niên 1990 đến những năm gần đây, các công trình về sông
đƣợc xuất hiện rải rác trên các tạp chí chuyên ngành Sinh thái học và Sinh thái
Nhân văn. Từ năm 1988, nghiên cứu khá cũ của Chowdhury E.Haque đã cho thấy
ba cách mà ngƣời dân ở vùng đồng bằng châu thổ Jamuna (Bangladesh) chống chịu
với tình trạng sạt lở là chấp nhận, giảm thiểu rủi ro và thay đổi. Tùy theo thu nhập
và điều kiện mà từng hộ gia đình sẽ chọn cách nào, đôi khi xảy ra tình trạng những

2


hộ nghèo bị “mắc kẹt” lại và bắt buộc phải chống chịu một cách yếu ớt vì họ không

đủ tiền để thay đổi cấu trúc ngôi nhà hay chuyển đi nơi khác [42].
Tiếp đến năm 1998, bài báo Giá trị của một dòng sông lại một lần nữa cho
thấy vai trò quan trọng của môi trƣờng sông đối với con ngƣời. Lấy ví dụ cụ thể là
sông Skokomish ở Puget Sound, Washington, Hoa Kỳ, nhóm tác giả đã chỉ ra một
con sông không chỉ đóng vai trò cung cấp các nguồn lợi kinh tế mà còn mang nhiều
giá trị phi kinh tế, và dự án thủy điện Cushman trên dòng sông này gây ảnh hƣởng
đến cộng đồng ngƣời Skokomish Indian sinh sống lân cận nhiều hơn những gì các
nhà quản lý có thể nhận thấy. [38]
Sau đó 11 năm, báo cáo Lượng giá dịch vụ hệ sinh thái sông Verde (Arizona,
Hoa Kỳ) [49] - công trình quy mô nhất năm 2009 của cơ quan bảo vệ Môi sinh Hoa
Kỳ (EPA) tiếp tục đề cập đến vấn đề môi trƣờng sông Verde. Sử dụng phƣơng pháp
truyền thống là phỏng vấn, điều tra cộng đồng kết hợp với phân tích định lƣợng, các
tác giả chỉ ra rằng: tuy không đem lại nhiều nguồn lợi tự nhiên trực tiếp, nhƣng con
sông này đóng vai trò quan trọng trong văn hóa của cƣ dân địa phƣơng. Đặc biệt,
hoạt động du lịch đem lại 1/6 tổng thu nhập của vùng, cũng nhƣ tạo việc làm cho
khoảng 12.130 ngƣời. [49]
Trên đây là ba nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả ở ngoài nƣớc trong số rất
nhiều nghiên cứu từ góc nhìn Sinh thái nhân văn về các cộng đồng cƣ dân, các
nhóm xã hội... đặt vào trong mối tƣơng quan với những dòng sông. Trƣớc sự thay
đổi nhanh chóng của môi trƣờng sông trong thời gian gần đây, không chỉ các cộng
đồng khác nhau, mà các cá nhân trong cùng một cộng đồng cũng có thể có phƣơng
pháp ứng phó khác biệt nhau.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Việt Nam là một quốc gia đa tộc ngƣời. Các tộc ngƣời thiểu số cƣ trú chủ
yếu ở vùng miền núi và có bản sắc văn hóa độc đáo, góp phần không nhỏ tạo nên sự
đa dạng và thống nhất trong nền văn hóa của đất nƣớc ta [34]. Trong công trình Các
dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam và môi trường, tác giả Hoàng Hữu Bình cho

3



biết rằng, môi trƣờng tự nhiên vốn có ảnh hƣởng toàn diện đến các tộc ngƣời tại
chỗ, bao gồm cả thuận lợi và khó khăn. Theo đó, thuận lợi là sự phong phú của
nguồn tài nguyên và đa dạng của hệ tự nhiên, còn khó khăn là thiên tai, dịch bệnh,
địa hình phức tạp gây cản trở giao thông, cơ sở hạ tầng [2]. Với hệ thống sông dày
đặc, sở hữu hai đồng bằng châu thổ lớn ở phía Nam và phía Bắc, sông ngòi luôn
đóng vai trò to lớn trong đời sống của cƣ dân nông nghiệp nƣớc ta. Tuy nhiên, trƣớc
năm 2000, các công trình chuyên khảo về môi trƣờng sông từ góc nhìn Dân tộc học
lại dƣờng nhƣ còn hiếm, nếu không muốn nói là vắng bóng. Ở Việt Nam, các
nghiên cứu liên quan đến dịch vụ hệ sinh thái nói chung đã xuất hiện từ sau năm
2000, sau Chƣơng trình Quốc gia về Chi trả dịch vụ môi trƣờng rừng (PFES), tuy
nhiên, với quy mô hạn chế và đối tƣợng chủ yếu là các công trình thủy điện. Trên
lĩnh vực khoa học tự nhiên, cụ thể là Sinh thái học, từ năm 2010, những vấn đề về
dịch vụ hệ sinh thái đƣợc tiếp cận nhiều hơn theo hƣớng lƣợng giá, phân tích liệt kê,
đánh giá tác động đến cộng đồng địa phƣơng của những thay đổi cục bộ... Đối
tƣợng chủ yếu vẫn là rừng mà rất ít nghiên cứu tới các hệ sinh thái nƣớc ngọt.
Ngƣợc lại, trên lĩnh vực khoa học xã hội, cụ thể là Dân tộc học, hệ sinh thái
sông rất ít đƣợc quan tâm. Suốt một giai đoạn dài trƣớc những năm 2000, chỉ có các
nghiên cứu về thủy điện phần nào nhắc đến vấn đề này. Trong số đó, cuốn sách
Cộng đồng dân tộc Tây Bắc Việt Nam và thủy điện của Diệp Đình Hoa với sự cộng
tác của Trần Văn Hà và Phạm Vĩnh Bảo (1996) là một công trình chuyên sâu tiêu
biểu. Phân tích tác động của thủy điện lòng hồ sông Đà trên cộng đồng dân cƣ ba
tỉnh Tây Bắc, tác giả chỉ ra tầm quan trọng của môi trƣờng sông đối với con ngƣời:
không chỉ ảnh hƣởng đến sinh kế, tác động sâu xa của nó còn dẫn tới chuyển cƣ,
thay đổi môi sinh, làm biến đổi văn hóa xã hội, y tế và sức khỏe [8]. Theo đó, năm
2011, với bài Tác động của dự án thủy điện Tây Nguyên đến sinh kế và văn hóa của
người dân tái định cư, tác giả Bùi Văn Đạo cũng đề cập tới những tác động không
mong muốn của một số dự án thủy điện ở Tây Nguyên tới sinh kế ngƣời dân [5]...
Năm 2004, cuốn sách Biến đổi môi trường dưới tác động của các hệ nhân
văn ở Điện Biên, Lai Châu của Tạ Long và Ngô Thị Chính [12] đã đề cập rõ nét


4


hơn đến tƣơng quan giữa con ngƣời và tự nhiên. Qua khảo sát ở xã Mƣờng Phăng,
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, các tác giả đã phân tích sự biến động môi trƣờng
tự nhiên (rừng, đất đai, khí hậu, nguồn nƣớc, động vật…) trƣớc và sau thập niên
1970. Con ngƣời, mà cụ thể là sinh kế, dân số và các thể chế, chính sách quản lý, sử
dụng tài nguyên đều gây nên biến đổi sinh thái. Các tác giả chỉ rõ: “Những đổi thay
đó không làm giảm sức ép của con người lên môi trường, ngược lại dân số nông
nghiệp sống dựa vào đất đai tăng nhanh tới hàng chục lần trong nửa thế kỷ với tốc
độ tự nhiên và cơ học [12, tr.235]. Nói cách khác, ảnh hƣởng của con ngƣời lên tự
nhiên ngày càng lớn dần theo thời gian và sự phát triển kinh tế. Đây là một trong số
các luận điểm phân tích chính, quan trọng nhất đƣợc luận văn này kế thừa.
Tiếp tục hƣớng nghiên cứu về thủy điện, năm 2012, qua công trình đồ sộ
Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La của
PGS.TS. Phạm Quang Hoan và nhóm tác giả cho thấy bức tranh văn hóa trƣớc khi
tái định cƣ và khi tái định cƣ của 9 dân tộc trên các địa bàn đƣợc chọn nghiên cứu.
Trong đó, sinh kế, đời sống xã hội, văn hóa vật chất và tinh thần đƣợc đề cập đến
khá đầy đủ. Tuy nhiên, ảnh hƣởng của môi trƣờng tự nhiên, ở đây là sông Đà lại
chƣa thật sự đậm nét [9].
Gần đây, sự xuất hiện của một số công trình về sông cho thấy, hƣớng nghiên
cứu đã “mở” hơn, liên ngành hơn trong bối cảnh mới. Bởi vì, Dân tộc học/Nhân học
hiện đại ở nƣớc ta hiện nay không chỉ quan tâm đến các tộc ngƣời thiểu số và tộc
ngƣời đa số ở đồng bằng và miền núi, mà còn mở rộng đến các cộng đồng, các
nhóm cƣ dân ngƣời Kinh ở vùng ven biển, ven sông, ngập mặn... Có thể kể đến một
số công trình nhƣ: Cẩm nang dòng chảy môi trường của IUCN (2007) [13]; bài báo
Tác động của nguồn lợi thủy sản đến sinh kế của người dân dễ bị tổn thương ở tỉnh
An Giang của Phạm Xuân Phú (2013) [18]; báo cáo An ninh nguồn nước & quản lý
lưu vực sông của Trung tâm Con ngƣời và Thiên nhiên (2015) [26]; cuốn sách Sinh

kế của cư dân các làng chài dọc sông Lô của Nguyễn Thị Tám (2017) [22]... Trong
đó, các hệ sinh thái sông nổi lên nhƣ một đối tƣợng mới, đang bị biến đổi mạnh mẽ
dƣới các tác động tự nhiên, xã hội. Qua nội dung hầu hết những công trình kể trên

5


cho thấy, sự suy thoái môi trƣờng, giảm sút các nguồn lợi tự nhiên của sông ngòi
đều ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống của con ngƣời. Tác giả Nguyễn Thị Tám cho
biết: “Hiện nay, nguồn lợi thủy sản tự nhiên trên sông Lô xưa kia được coi là không
bao giờ cạn, thì nay đang ngày càng khan hiếm. Một số loài thủy sản có giá trị kinh
tế cao trong thời gian gần đây bị giảm về số lượng cũng như sản lượng và có nguy
cơ bị mất đi như cá anh vũ, cá lăng… làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động đánh bắt
cá truyền thống ở làng chài. Ngư dân bị mất nguồn lợi phải di chuyển mở rộng địa
bàn đánh bắt, hoặc phải tìm cách ứng phó với tình trạng này” [22, tr.215].
Dƣới tác động của phát triển kinh tế - xã hội, môi trƣờng tự nhiên ở Việt
Nam đã và đang biến đổi mạnh mẽ, kéo theo đó nhiều thách thức đối với các dân
tộc trong phát triển sinh kế, ổn định cuộc sống [4], [10]. Vì vậy, vấn đề biến đổi môi
trƣờng tự nhiên, trong đó có môi trƣờng sông luôn là một chủ đề nóng đƣợc quan
tâm trên nhiều diễn đàn khoa học trong nƣớc, quốc tế, đã có không ít nghiên cứu về
suy thoái môi trƣờng và tác động đến cuộc sống con ngƣời đƣợc tiến hành. Song,
các nghiên cứu từ góc nhìn Dân tộc học ở nƣớc ta về vấn đề này vẫn còn chƣa
nhiều, đặc biệt là nghiên cứu về những tác động của sự biến đổi môi trƣờng sống tới
ngƣời dân các dân tộc thiểu số ở miền núi. Trong khi, có điều đáng lƣu ý là đối
tƣợng bị ảnh hƣởng nặng nề nhất do biến đổi môi trƣờng sinh thái, đôi khi không
phải ngƣời trực tiếp phá hủy hệ sinh thái, mà lại là các cộng đồng tại chỗ [35]. Cho
dù nhân dân địa phương phải tự mình giải quyết các vấn đề [8, tr.52] thì việc tìm ra
hƣớng đi phù hợp với những giải pháp khoa học và khả thi là nhiệm vụ của chúng ta
(các nhà khoa học, trong đó có nhà dân tộc học/nhân học), đặc biệt trong bối cảnh
phát triển bền vững đang trở thành hƣớng đi chung trên toàn thế giới.

Qua tổng quan một số nghiên cứu, không chỉ trong Dân tộc học, mà trên
nhiều lĩnh vực và ngành khoa học, nghiên cứu về sông ngòi ở Việt Nam dƣờng nhƣ
rất ít. Song, các công trình hiện có về môi trƣờng tự nhiên cũng nhƣ về môi trƣờng
sông, nhất là những công trình mà trên đã đề cập đều là nguồn tài liệu quý giá để
chúng tôi có thể so sánh và kế thừa cho tài luận văn. Bởi đến nay, biến đổi môi
trƣờng sông Năng tác động đến sinh kế cƣ dân các tộc thiểu số ở hai bên bờ sông

6


này vẫn chƣa có nghiên cứu sâu. Năm 2014 mới có một nghiên cứu của tác giả luận
văn về Đa dạng sinh học nông nghiệp ở xã Bành Trạch, nhƣng không bàn đến suy
thoái môi trƣờng sông Năng cùng hình thức thích ứng của các tộc ngƣời sinh sống
gần bờ [27] và gần đây khi làm luận văn, tác giả cũng mới công bố một bài báo về
Sông Năng trong sinh kế của ngươi Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc
Kạn [28]. Năm 2016, sông Năng tuy đƣợc nhắc đến trong một nghiên cứu mới
thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên: Xây dựng mô hình tích hợp viễn thám và GIS xác
định nguy cơ tai biến lũ quét lưu vực sông Năng, tỉnh Bắc Kạn của Lê Nhƣ Ngà
[16], nhƣng chỉ thuần túy về bản đồ, viễn thám và địa lý, với đối tƣợng chính là địa
hình và tình trạng lũ quét trên lƣu vực sông Năng, tức không đề cập tới các cộng
đồng dân cƣ, các hệ sinh thái nhân văn của dòng sông Năng. Do đó, trong xu hƣớng
liên ngành và xuyên ngành của khoa học hiện đại, rất cần thiết có thêm nhiều
nghiên cứu từ góc nhìn Dân tộc học về tộc ngƣời trong mối quan hệ với các yếu tố
môi trƣờng tự nhiên nói chung, với môi trƣờng sinh thái sông nƣớc nói riêng, để
đánh giá toàn diện và định hƣớng lâu dài tới phát triển bền vững. Đây chính là
hƣớng nghiên cứu của đề tài luận văn mà chúng tôi đã chọn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của để tài luận văn là tìm hiểu ảnh hƣởng của suy thoái
môi trƣờng sông Năng đến sinh kế của một số tộc ngƣời ở xã Bành Trạch huyện Ba
Bể tỉnh Bắc Kạn, trên cơ sở đó đề xuất một vài kiến nghị nhằm hạn chế sự suy thoái

của môi trƣờng sông Năng và phát triển sinh kế.
Để đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra, luận văn đã xây dựng những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể nhƣ sau:
+ Tìm hiểu về tình hình biến đổi môi trƣờng sông Năng từ năm 1986 trở lại
đây và nguyên nhân của sự biến đổi đó;
+ Tìm hiểu, so sánh các hoạt động sinh kế liên quan đến sông Năng của
ngƣời Tày ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể trong thời gian trƣớc và sau năm 1986;

7


+ Tìm hiểu, so sánh các hoạt động sinh kế liên quan đến sông Năng của
ngƣời Dao ở xã Bành Trạch, huyện Ba Bể trong thời gian trƣớc và sau năm 1986;
+ Đƣa ra nhận xét sơ bộ về ảnh hƣởng của suy thoái hệ sinh thái sông Năng
đến sinh kế của đồng bào, nêu bật mối quan hệ mật thiết giữa con ngƣời và tự nhiên
theo góc độ Dân tộc học và Sinh thái học;
+ Đề xuất một vài kiến nghị nhằm hạn chế tình trạng biến đổi hệ sinh thái
sông Năng, hƣớng tới mục tiêu phát triển sinh kế bền vững và bảo vệ môi trƣờng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là sự tác động của biến đổi môi trƣờng
sông Năng đến sinh kế ngƣời Tày, Dao xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
- Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào hai nội dung: 1) Môi trƣờng sông
Năng, bao gồm cả dòng nƣớc và vùng ven bờ; 2) Sinh kế của hai tộc ngƣời Tày và
Dao, đƣợc chia thành bốn hoạt động chính, chỉ tập trung vào các hoạt động liên
quan đến sông Năng nhƣ trồng trọt, chăn nuôi (bao gồm cả trên cạn và dƣới nƣớc),
khai thác nguồn lợi tự nhiên (đánh bắt thủy sản, khoáng sản...), các hoạt động khác
(thƣơng mại và giao thông vận tải, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, đi làm ăn xa...).
- Phạm vi thời gian nghiên cứu tập trung từ khi Đổi mới đất nƣớc năm 1986
đến nay, tuy nhiên các hoạt động sinh kế đƣợc so sánh lịch đại (trƣớc và sau năm
1986) và đồng đại (giữa 2 tộc ngƣời Tày và Dao) để là rõ sự ảnh hƣởng của biến đổi

môi trƣờng sông Năng. Những nghiên cứu khác trên lĩnh vực khoa học tự nhiên
(lƣợng giá môi trƣờng, phân tích môi trƣờng)… thƣờng lấy mốc thời gian là 10
năm, song luận văn này tiếp cận theo hƣớng liên ngành. Mốc 1986 đƣợc chọn để
phân tích sâu hơn biến đổi của các hoạt động sinh kế dựa trên thay đổi chính sách,
đồng thời cho thấy tác động của chính sách đến môi trƣờng nhƣ một quan hệ hai
chiều. Nhƣ tác giả đã tổng kết từ kết quả nghiên cứu của mình, chủ trƣơng Đổi mới
đem lại nhiều chuyển biến kinh tế tích cực nhƣng cũng trực tiếp và gián tiếp gây
suy thoái môi trƣờng bởi tƣ duy chủ quan, chỉ chú trọng lợi ích, phát triển không
bền vững…

8


- Phạm vi không gian nghiên cứu (địa bàn) là xã Bành Trạch, huyện Ba Bể,
tỉnh Bắc Kạn. Trong đó, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại 4 thôn: Nà Dụ, Pác Pìn,
Nà Nộc và Nà Còi - nơi có hai tộc ngƣời trên sinh sống.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Về phƣơng pháp luận thực hiện luận văn này, tác giả dựa trên cơ sở lý luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để xem xét đối
tƣợng nghiên cứu có mối quan hệ, vận động, biến đổi liên tục. Bên cạnh đó, luận
văn còn dựa trên quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Luận văn đƣợc tiếp cận từ góc độ chuyên ngành và liên ngành, áp dụng đồng
thời hai góc nhìn của Dân tộc học và Sinh thái nhân văn. Trong đó, môi trƣờng
đƣợc coi nhƣ một trong năm nguồn lực của sinh kế, và nghiên cứu tác động lên hệ
nhân văn qua sự biến đổi các phƣơng thức sinh kế. Dƣới quan điểm Dân tộc học,
dân tộc là chủ thể của các hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội và các vấn đề đó đều
mang tính tộc ngƣời [41]. Do vậy, phải xem xét sự vật nhƣ nó vốn có từ con mắt
của ngƣời trong cuộc, không tìm cách áp đặt những đánh giá chủ quan của nhà khoa

học. Dƣới quan điểm Sinh thái nhân văn, không thể xem xét con ngƣời nhƣ một
thành phần siêu vật chất hay siêu tự nhiên, mà con ngƣời là một phần của tự nhiên.
Tuy nhiên, thành phần này mang sức mạnh ƣu thế nhất, có thể thay đổi sâu rộng tự
nhiên nhƣ những gì ngày nay chúng ta chứng kiến. Tƣơng tác tự nhiên - nhân văn
đƣợc nhìn nhận ở cả hai bình diện: con ngƣời phản ứng, thích nghi với môi trƣờng
và con ngƣời tác động ngƣợc lên môi trƣờng.
Môi trƣờng hay nhƣ trong luận văn này là dòng sông Năng ở xã Bành Trạch
đƣợc phân tích theo các vai trò, chức năng (đối với dịch vụ hệ sinh thái). Tƣơng tác
giữa các dịch vụ hệ sinh thái sông và hoạt động sinh kế đƣợc xây dựng thành sơ đồ,
từ đó tiếp cận theo góc độ hệ thống, so sánh trên phƣơng diện lịch sử mối tƣơng
quan ấy ở hai tộc ngƣời Tày, Dao tại địa bàn nghiên cứu, đặt trong điều kiện tác

9


động của các hệ nhân văn khác, kể cả chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa
phƣơng để phân tích sâu. Tuy nhiên, do nguồn lực hạn chế của một đề tài luận văn,
tất cả các dịch vụ hệ sinh thái của sông Năng sẽ không đƣợc liệt kê đầy đủ nhƣ mô
hình đã trích dẫn, mà chỉ quan tâm đến những vai trò cơ bản, nổi bật nhất bao gồm:
nguồn nƣớc, đất đai ven bờ, nguồn lợi thủy sản và tuyến đƣờng giao thông vận tải.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp chủ đạo là điền dã Dân tộc học, trong đó sử dụng các công cụ
nghiên cứu nhƣ sau:
+ Phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi cố các đối tƣợng là chủ hộ, ngƣời già hoặc
trung niên trên 40 tuổi, phụ nữ... để có đƣợc bức tranh tổng quát về sự biến đổi của
môi trƣờng sông Năng cũng nhƣ hoạt động sinh kế của cộng đồng các tộc ngƣời địa
phƣơng trong thời gian trƣớc và sau năm 1986.
+ Thảo luận nhóm giữa các nhóm đối tƣợng khác nhau: nhóm cán bộ địa
phƣơng, nhóm phụ nữ, nhóm trung niên, nhóm thanh niên… để có thông tin toàn
diện về ảnh hƣởng của biến đổi môi trƣờng sông Năng đến sinh kế.

+ Quan sát tham dự vào đời sống của ngƣời dân, đặc biệt là những sinh hoạt
liên quan đến sông Năng, kết hợp chụp ảnh, ghi chép...
- Phƣơng pháp định lƣợng: Thiết lập bảng hỏi và tiến hành điều tra hộ gia
đình vào tháng 2 năm 2016 và tháng 4 năm 2017. Số lƣợng phiếu tỷ lệ với số hộ của
từng thôn, cụ thể: Nà Dụ 30 phiếu, Pác Pìn 20 phiếu, Nà Nộc 20 phiếu, Nà Còi 30
phiếu (tổng số: 100 phiếu). Các hộ gia đình đƣợc chọn với tiêu chí sống ở địa
phƣơng tối thiểu 30 năm nếu là ngƣời tại chỗ; 20 năm tính từ Đổi mới năm 1986
nếu từ nơi khác di cƣ đến, để lấy cơ sở so sánh lịch đại. Câu hỏi đƣợc thiết kế nhằm
phục vụ mục tiêu nghiên cứu, trả lời cho các câu hỏi về sinh kế của ngƣời dân
trƣớc, sau năm 1986 và đánh giá, nhận xét của họ về vấn đề suy thoái môi trƣờng
sông Năng. Số liệu điều tra hộ gia đình sau đó đƣợc xử lý bằng phần mềm SPSS và
tổng hợp dƣới dạng bảng và biểu đồ.

10


- Phƣơng pháp kế thừa: tham khảo và trích dẫn những nghiên cứu đã công bố
của một số nhà khoa học đi trƣớc với nội dung liên quan tới vấn đề nghiên cứu,
phƣơng pháp nghiên cứu và nhiều vấn đề khác.
+ Ngoài ra, tài liệu thứ cấp là các số liệu thống kê của Đảng ủy, Ủy ban nhân
dân xã Bành Trạch; báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trƣờng tỉnh Bắc Kạn; tài liệu
liên quan đến các dự án đang triển khai trên sông Năng; bản đồ hành chính, quy
hoạch, thủy văn...; thông tin trên sách báo, internet... về tình hình kinh tế, xã hội và
môi trƣờng tại điểm nghiên cứu... cũng đƣợc khai thác để phục vụ cho luận văn.
- Phƣơng pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến đóng góp của một số nhà khoa
học trên cả hai lĩnh vực Nhân học và Sinh thái học.
- Sử dụng các phƣơng pháp hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp khi viết
báo cáo. Lựa chọn 2 tộc ngƣời là Tày và Dao dựa theo địa bàn cƣ trú và văn hóa xã
hội, đề tài muốn tập trung so sánh hoạt động sinh kế giữa các dân tộc này, trên cả
phƣơng diện đồng đại và lịch đại.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Là một nghiên cứu theo hƣớng tiếp cận mới, luận văn không chỉ có ý nghĩa
lý luận mà còn có giá trị thực tiễn đối với tình hình phát triển ở địa phƣơng.
- Ý nghĩa lý luận:
+ Luận văn cung cấp nguồn tƣ liệu mới và chính xác về tình hình biến đổi
môi trƣờng sông Năng và ảnh hƣởng của sự biến đổi này tới sinh kế hai tộc ngƣời
Tày và Dao.
+ Luận văn thể hiện hƣớng tiếp cận mới, liên ngành Dân tộc học - Sinh thái
học, mang tính ứng dụng cao và thiết thực.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đánh giá sơ bộ ảnh hƣởng của suy thoái hệ sinh thái sông Năng đối với
sinh kế của đồng bào, cung cấp cơ sở khoa học cho các chính sách của địa phƣơng.

11


+ Góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, tri thức địa
phƣơng của tộc ngƣời, hƣớng tới mục tiêu phát triển bền vững.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn có độ dài 80 trang. Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu
tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm ba chƣơng:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết và khái quát địa bàn nghiên cứu
Chương 2. Vai trò của môi trường sông Năng đối với sinh kế của người Tày
và Dao trước năm 1986
Chương 3. Sinh kế của người Tày và Dao dưới tác động của biến đổi môi
trường sông Năng từ năm 1986 đến nay

12



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Khái niệm về sinh kế và môi trường
Thuật ngữ “sinh kế” vốn đƣợc sử dụng để chỉ việc làm, hoạt động mƣu sinh
kiếm sống. Hay hiểu đơn giản thì sinh kế bao gồm hai yếu tố sinh (sống) và kế (tính
toán), tức sinh kế là cách làm ăn mƣu cầu sự sống [26, 37]. Phần lớn những công
trình nghiên cứu hiện nay đều sử dụng khái niệm sinh kế trong mối liên hệ với phát
triển bền vững. Khái niệm này đƣợc đƣa ra bởi R.Chamber và G.R.Conway năm
1992 [35], sau này là Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFIT) năm 1999. Theo đó, nền
tảng của sinh kế dựa trên 5 loại nguồn lực cơ bản, gồm vốn vật chất, vốn tài chính,
vốn xã hội, vốn con ngƣời và vốn tự nhiên [34]. Trong đó, vốn tự nhiên - môi
trƣờng đóng vai trò nền tảng không thể thay thế đối với hoạt động kinh tế, đặc biệt
là nông nghiệp, lâm nghiệp. Vốn tự nhiên là không gian, môi trƣờng sống với các
tài nguyên nhƣ rừng, đất đai, nƣớc, khoáng sản... mà dựa vào đó con ngƣời có thể
tạo dựng sinh kế hay tìm ra chiến lƣợc sinh tồn phù hợp nhất [21].
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng
cƣờng công tác bảo vệ môi trƣờng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời
trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các
cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [13]. Một sinh kế đƣợc coi là
bền vững chỉ khi nó không làm xói mòn nền tảng tự nhiên.
Môi trƣờng là một định nghĩa rộng, bắt nguồn từ tiếng Pháp “environner” có
nghĩa là “xung quanh”, là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác
động đối với sự tồn tại và phát triển của con ngƣời và sinh vật [13]. Tuy nhiên,
nghiên cứu này chỉ xem xét đến môi trƣờng tự nhiên, mà đƣợc Sinh thái học nhân
văn định nghĩa nhƣ: “Môi trường tự nhiên là một phần của thiên nhiên bao la, trong

13



đó con người tồn tại, có quan hệ qua lại và chịu sự ảnh hưởng của xã hội” [12].
Môi trƣờng tự nhiên có thể bao gồm khí hậu, đất đai (địa hình, đất, đá...), điều kiện
thủy văn... và các yếu tố sinh học nhƣ thực vật, động vật, vi sinh vật... Trong khái
niệm về môi trƣờng, “hệ sinh thái” là một thành tố quan trọng, “biểu thị một tập
hợp các sinh vật sống (thực vật, động vật, vi sinh vật...) và môi trường vô cơ nơi
chúng sinh sống (ánh sáng, khí hậu, đất, nước...)” [43]. Nếu đối tƣợng nghiên cứu
là một con sông thì hệ sinh thái bao gồm: môi trƣờng vật lý (dòng chảy của nƣớc,
ánh sáng, nhiệt độ, các chất hóa học, đất ven sông...) và những sinh vật sống (thực
vật, động vật, vi sinh vật) liên quan đến dòng sông đó. Nghiên cứu này sử dụng khái
niệm hệ sinh thái sông trong các phần tiếp theo nhằm nhấn mạnh sự tƣơng tác giữa
các thành tố bên trong nó.
1.1.2. Lý thuyết sinh thái văn hóa
Mối quan hệ giữa con ngƣời và môi trƣờng tự nhiên đƣợc nhắc đến trong
nhiều quan điểm, nhiều công trình nghiên cứu nhƣ A.A.Belik (2000), Georges
Oliver (2002)… Trong đó, không thể không kể đến Julian Haynes Steward - nhà
nghiên cứu văn hóa ngƣời Mỹ nổi tiếng đặt nền móng cho Sinh thái học văn hóa
(Cultural ecology) với công trình: Lý thuyết về sự thay đổi văn hóa - phương pháp
luận về tiến hóa đa tuyến. Ông định nghĩa sinh thái học văn hóa nhƣ sau: “…là
khoa học nghiên cứu những quá trình thích nghi mà qua đó bản chất của xã hội và
những đặc trưng khả biến của văn hóa được tác động bởi những điều chỉnh cơ bản
thông qua việc con người tận dụng môi trường sẵn có” [41].
Về mặt phƣơng pháp, Steward đã nêu ra 3 bƣớc đối với nghiên cứu sinh thái
học văn hóa nhƣ sau:
- Chứng minh những kỹ thuật và phƣơng pháp đƣợc dùng để khai thác môi
trƣờng và sống trong môi trƣờng đó.
- Xem xét những mô thức ứng xử văn hóa của con ngƣời liên quan đến việc sử
dụng môi trƣờng.


14


- Đánh giá sự tác động của những mô thức kể trên đối với các bình diện khác
của văn hóa. [42, tr.340].
. Bản chất của môi trƣờng nói chung là tính thống nhất biện chứng, tính vật
chất của các yếu tố trong hệ thống tự nhiên - con ngƣời - xã hội, bởi vậy, con ngƣời
cần tạo ra một môi trƣờng nhân văn phù hợp với hệ thống đó. Chính trong quá trình
tác động vào tự nhiên, con ngƣời không những cải biến, phát triển tự nhiên bên
ngoài mà còn cải tạo, sáng tạo lại tự nhiên ngay bên trong bản thân mình. Nhƣ vậy,
giá trị của thuyết sinh thái nhân văn là ở chỗ, nó giúp cho con ngƣời thấy đƣợc
những mối quan hệ không đƣợc thừa nhận trƣớc kia giữa họ và môi trƣờng. Nó
cũng giúp cho con ngƣời nhận thức sâu sắc về vị trí của họ trong thế giới và suy
nghĩ của con ngƣời về môi trƣờng của họ (Rambo, 1993).
Lý thuyết sinh thái văn hóa đƣợc áp dụng trong nghiên cứu này nhằm phân
tích mối tƣơng quan giữa môi trƣờng và sinh kế của các tộc ngƣời thiểu số. Theo
đó, mỗi cộng đồng, qua quá trình thích nghi với thiên nhiên nơi mình sinh sống hình
thành nên văn hóa. Văn hóa là biểu hiện của sự hòa hợp giữa con ngƣời và môi
trƣờng, do vậy khác nhau ở từng cộng đồng, từng điều kiện tự nhiên. Điều này đƣợc
thể hiện rõ qua so sánh giữa 4 thôn thuộc nghiên cứu.
1.1.3. Các dịch vụ hệ sinh thái
Năm 1977, Walter E. Westman với bài tạp chí Các dịch vụ thiên nhiên có giá
bao nhiêu? [45] đã xem xét mối liên quan giữa các hệ thống sinh thái và sinh kế của
con ngƣời. Đó là xuất phát khái niệm “dịch vụ hệ sinh thái” (ecosystem services), và
đƣợc các nhà sinh thái học trong những năm tiếp theo tiếp tục mở rộng nó nhƣ là:
“Những lợi ích con người có được từ các hệ sinh thái, bao gồm dịch vụ cung cấp
như thức ăn và nước; các dịch vụ điều tiết như điều tiết lũ lụt, hạn hán; các dịch vụ
hỗ trợ như hình thành đất và chu trình dinh dưỡng; và các dịch vụ văn hóa như giải
trí, tinh thần, tín ngưỡng và các lợi ích phi vật chất khác” [45, tr.68]. Riêng các dịch
vụ hệ sinh thái sông, có mô hình của Millennium Ecosystem Assessment (Đánh giá

hệ sinh thái thiên niên kỷ - MEA) (2005) (xem bảng 1.1).

15


Bảng 1.1. Các dịch vụ hệ sinh thái sông
Dịch vụ trực tiếp

Dịch vụ điều hòa

Dịch vụ văn hóa

- Nƣớc tiêu thụ cho sinh
hoạt, nông nghiệp, công
nghiệp...

- Ổn định chất lƣợng nƣớc - Giải trí và du lịch (thể
và hạn chế lũ lụt
thao, câu cá thƣ giãn...)
- Bồi tụ, tạo đất, hạn chế

- Khoa học và giáo dục

- Thủy điện, vận tải thủy

xói mòn

- Thủy sản

- Làm sạch không khí


- Nghi lễ, tôn giáo, tín
ngƣỡng...

Dịch vụ hỗ trợ
- Chu trình vật chất
- Duy trì chuỗi thức ăn
(Nguồn: Theo mô hình của MEA, 2005)
Khái niệm dịch vụ hệ sinh thái cho chúng ta một cái nhìn sâu rộng và cụ thể
hơn về lợi ích của môi trƣờng tự nhiên đối với con ngƣời. Ví dụ khi nói về một con
sông, ta thƣờng nhắc đến lễ hội, tri thức tại chỗ, đánh bắt cá, thủy điện, và gần đây
là biến đổi khí hậu... Trong đó, vai trò của sông đối với đời sống các cộng đồng tại
chỗ là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, khi đƣa ra phân tích cụ thể, phần lớn giá trị
của dòng sông chỉ xoay quanh những gì ta dễ dàng nhìn thấy nhƣ nguồn nƣớc,
nguồn lợi thủy sản... mà bỏ qua nhiều chức năng quan trọng khác. Do đó, nếu xem
xét tất cả các dịch vụ hệ sinh thái của một con sông đối với các cộng đồng dân cƣ
liên quan, thì còn nhiều vai trò vốn ít đƣợc phân tích và liệt kê trong bảng trên.
Con ngƣời là một thành phần đặc biệt của hệ sinh thái. Xuất hiện cách đây
khoảng 2.5 triệu năm - khá muộn so với những động thực vật khác, song, chúng ta
đã phát triển vô cùng nhanh chóng, trở thành loài ƣu thế trên toàn cầu. Con ngƣời
cũng chịu ảnh hƣởng của tự nhiên nhƣ một loài sinh vật: trao đổi chất để tồn tại, bị
chi phối bởi các quy luật cân bằng sinh thái, tham gia vào chuỗi năng lƣợng và đặc
biệt là khai thác các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho đời sống của mình thông

16


qua hoạt động sinh kế... Ngƣợc lại, con ngƣời, cũng bằng sinh kế, đã và đang thay
đổi tự nhiên theo cả hai chiều hƣớng tốt hơn hay xấu đi [11]. Do đó, nghiên cứu
những dịch vụ hệ sinh thái mà trên đã đề cập không chỉ cho thấy tự nhiên đã hỗ trợ

con ngƣời nhƣ thế nào về mặt vật chất, mà còn phân tích sâu đƣợc nhiều giá trị tinh
thần khó có thể lƣợng giá trọn vẹn, sự đảm bảo cho việc tồn tại hài hòa, bền vững
của chúng ta trong môi trƣờng tự nhiên.
Tuy nhiên, không chỉ Nhân học mà trong các ngành khoa học khác ở Việt
Nam, hƣớng tiếp cận dịch vụ hệ sinh thái này cũng chƣa phổ biến. Do đó, nhƣ đã
trình bày, trong xu hƣớng liên ngành và xuyên ngành của khoa học hiện đại, rất cần
thiết có một nghiên cứu đặt tộc ngƣời trong mối quan hệ với các dịch vụ hệ sinh
thái, để đánh giá toàn diện, định hƣớng lâu dài hƣớng tới phát triển bền vững.
1.2. Khái quát địa bàn nghiên cứu
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
- Điều kiện tự nhiên
Luận văn chọn địa điểm nghiên cứu là xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc
Kạn. Là cửa ngõ phía Đông Bắc của huyện Ba Bể, giáp với tỉnh Cao Bằng, xã Bành
Trạch cách trung tâm huyện khoảng 7km về phía Bắc. Đƣờng quốc lộ 279 và tỉnh lộ
253 đi qua trung tâm xã nên tạo tiền đề khá thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Hình 1.1. Vị trí địa lý xã Bành Trạch

17


(Nguồn: Theo bản đồ hành chính huyện Ba Bể)
Theo báo cáo của Đảng ủy xã Bành Trạch năm 2016 và Ủy ban nhân dân
(UBND) xã năm 2014, Bành Trạch có diện tích tự nhiên là 5.967,47 ha với đồi núi
chiếm hơn 80%, độ cao trung bình khoảng 500 - 600m, đỉnh cao nhất là 825m. Do
nằm ở sƣờn Tây cánh cung Ngân Sơn, ảnh hƣởng của các mạch đứt gãy kiến tạo
hình thành, nên kiểu địa hình ở địa bàn xã Bành Trạch có nhiều nếp gấp khá đặc
trƣng. Xen kẽ giữa các dãy núi cao là hệ thống đồi thấp, sƣờn thoải, thung lũng nhỏ
hẹp, bị chia cắt bởi dày đặc bởi các khe, suối và sông. Do đó, địa hình xã Bành
Trạch vô cùng phức tạp, gây ra không ít khó khăn cho giao thông, xây dựng cơ sở
hạ tầng và phát triển nông lâm nghiệp [6, 29].

Xã Bành Trạch nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao rõ rệt, có
mùa hè ôn hòa, mùa đông lạnh hơn so với đồng bằng. Nhiệt độ trung bình năm
khoảng 20oC, với sự chênh lệch lớn giữa các tháng trong năm. Tháng nóng nhất là
tháng 6 hoặc tháng 7 với nhiệt độ 26 - 28oC, tháng lạnh nhất là tháng 1 hoặc tháng 2
có thể xuống đến 4oC trong những ngày rét đỉnh điểm [1]. Lƣợng mƣa trung bình
năm khoảng 800mm, phân bố không đều giữa các tháng, tập trung vào mùa hạ (từ
tháng 5 đến tháng 8) chiếm đến 70 - 80% tổng lƣợng mƣa. Mùa đông, ngƣợc lại,
thời thiết khô hạn, mƣa ít chỉ đạt 10 - 15mm/tháng, tổng lƣợng (tháng 10 đến tháng
4 năm sau) chỉ đạt 20 - 30% tổng lƣợng mƣa. Tốc độ gió trung bình năm 1,1 1,7m/s. Tốc độ gió lớn nhất tại trạm quan trắc Bắc Kạn là 29m/s. Độ ẩm tƣơng đối
trên 75% cùng đặc điểm thổ nhƣỡng đồng đều, màu mỡ, phần lớn là feralit vàng đỏ
thuận lợi cho canh tác ruộng bậc thang, chăn nuôi hay lâm nghiệp [1].
Xã Bành Trạch có độ che phủ rừng khá lớn (hơn 82%), tuy nhiên, chủ yếu là
rừng sản xuất hoặc tái sinh, do đó có trữ lƣợng gỗ thấp, động thực vật quý hiếm hầu
nhƣ không còn, chỉ còn có chim và thú nhỏ. Nếu đƣợc quản lý tốt, lâm nghiệp sẽ là

18


×