Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở đảng bộ thành phố ninh bình tỉnh ninh bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.25 KB, 44 trang )

1
MỞ ĐẦU
1- Lý do xây dựng đề án.
Trong quá trình hoạt động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định kiểm
tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo, một bộ phận quan trọng trong công
tác xây dựng Đảng vì “lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo”.
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ mới biết rõ tình hình thực tiễn và tính khả thi
của các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; phát huy nhân tố tích cực, ngăn ngừa và khắc phục khuyết
điểm, yếu kém. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền,
lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội luôn ẩn chứa những nguy cơ độc đoán,
sai lầm về đường lối, vì thế công tác kiểm tra, giám sát lại càng cần thiết và quan
trọng.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tiến hành đối với tổ chức đảng
và đảng viên nhằm nhận xét, đánh giá việc chấp hành các quy định, quyết định
của Đảng, xác định sự đúng đắn hay vi phạm của các hành vi có liên quan đến kỷ
cương, kỷ luật của Đảng. Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ
thị và các nguyên tắc của Đảng... Tuy nhiên, các chủ trương, nghị quyết của
Đảng chỉ trở thành hiện thực khi được các tổ chức đảng, đảng viên chấp hành
nghiêm chỉnh. Hơn nữa, việc nhìn nhận vai trò kiểm tra, giám sát của Đảng hiện
nay cũng đang gây tranh luận và có nhiều ý kiến khác nhau, cho nên, cần có
những nghiên cứu cụ thể và luận giải sâu hơn.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phải tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát với nhận thức và yêu cầu mới: Công tác kiểm tra, giám sát phải phối
hợp phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh
nha, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức và cá nhân có dấu hiệu vi
phạm phải tăng cường chủ động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết
quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và
chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và việc chấp hành Điều lệ Đảng...
Trong những năm qua, cấp uỷ và UBKT các cấp trong Đảng bộ thành phố


Ninh Bình đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều
lệ Đảng quy định, góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và
công tác xây dựng Đảng, bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc của Đảng,


2
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng. Song, thực tiễn cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát
ở Đảng bộ thành phố Ninh Bình còn bộc lộ hạn chế như: một số cấp uỷ, tổ chức
đảng nhất là cơ sở chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của công tác kiểm tra, giám sát, chưa tích cực thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát như quy định của Điều lệ Đảng; việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi
có dấu hiệu vi phạm đối với cấp uỷ viên cùng cấp còn hạn chế; một số cán bộ
làm công tác kiểm tra, giám sát chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới …Nếu để tiếp tục kéo dài tình trạng đó sẽ ảnh hưởng lớn tới uy tín của đảng
bộ, giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Do vậy, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng thực
trạng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát đáp
ứng yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, bảo đảm thông qua kiểm tra, giám sát phát huy ưu điểm, khắc phục
khuyết điểm và kịp thời xử lý vi phạm; phát hiện và bảo vệ các nhân tố mới tiến
bộ, đồng thời phục vụ cho việc bổ sung, phát triển hoặc điều chỉnh chủ trương,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng… là yêu cầu nghiêm túc không những đối với việc
xây dựng Đảng bộ, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh. Với lý do đó, tôi chọn đề tài "Nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ thành phố Ninh Bình tỉnh Ninh Bình trong
giai đoạn hiện nay” làm đề án tốt nghiệp của mình với mong muốn góp phần
nhỏ bé vào việc nghiên cứu nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ thành
phố nói riêng.

2- Giới hạn và phạm vi nghiên cứu xây dựng đề án.
- Đối tượng và địa bàn nghiên cứu: Thành ủy Ninh Bình, Ủy ban kiểm tra
Thành ủy, Đảng ủy cơ sở, Ủy ban Kiểm tra đảng ủy cơ sở.
- Nội dung nghiên cứu: Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng ở Đảng bộ thành phố Ninh Bình tỉnh Ninh Bình (trên cơ sở kết quả nghiên
cứu, khảo sát thực tế chủ yếu tại hoạt động của ngành Kiểm tra Đảng ở thành
phố Ninh Bình)


3
- Thời gian nghiên cứu: Đề án đề cập đến một số vấn đề cơ bản về công tác
kiểm tra, giám sát ở đảng bộ thành phố Ninh Bình nhiệm kỳ 2010-2015, tầm
nhìn đến năm 2020.
NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
Đề án được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
qua các văn kiện đại hội Đảng; quy định của Điều lệ Đảng; các nghị quyết, quyết
định, chỉ thị, hướng dẫn, tổng kết chuyên đề về công tác kiểm tra, giám sát của
Trung ương và của tỉnh Ninh Bình. Đồng thời, đề án có kế thừa kết quả đạt được
của một số công trình khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một bộ phận rất quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng. Từ tổng kết thực tiễn sinh động trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam và nghiên cứu lý luận, Điều 30 Chương VII
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI đã khẳng định: “Kiểm tra, giám sát là
những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác
kiểm tra, giám sát…”; Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng

khóa XI (ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI) đã nêu: “Kiểm tra, giám sát là những chức
năng lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát thì coi như
không có lãnh đạo”.
Đối với hệ thống UBKT các cấp từ Trung ương đến cơ sở thì Thành ủy là
một mắt xích quan trọng không thể thiếu trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát của Đảng. Hệ thống tổ chức kiểm tra, giám sát của Đảng ở mỗi cấp,
trong đó có cấp huyện, thành, thị xã được tổ chức một cách chặt chẽ, thống nhất
trong toàn quốc. Hoạt động theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định,
hướng dẫn của Trung ương. Nếu UBKT Thành ủy không vững mạnh về tổ chức
và chuyên môn thì việc kiểm tra, giám sát của Đảng sẽ không thể thực hiện


4
nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng. Về tổ chức, đảng bộ thành phố là cấp
trên trực tiếp của các tổ chức cơ sở đảng, chủ yếu là các đảng bộ xã, phường, thị
trấn. UBKT Thành ủy là cấp trên trực tiếp của UBKT đảng ủy cơ sở, vừa có nhiệm
vụ tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng theo qui định của Điều
lệ Đảng, vừa có trách nhiệm hướng dẫn, đôn đốc cấp ủy, UBKT đảng ủy cơ sở trực
thuộc huyện ủy tổ chức, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
trong Đảng có chất lượng và hiệu quả, góp phần xây dựng và giữ vững sự trong
sạch vững mạnh của tổ chức đảng từ cơ sở, đảm bảo đường lối, chủ trương lãnh
đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện thông suốt từ
Trung ương đến cơ sở. Do vậy chất lượng kiểm tra, giám sát của UBKT Thành ủy ở
Đảng bộ tỉnh là một bảo đảm quan trọng giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng,
góp phần xây dựng Đảng bộ tỉnh trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Đề án được thực hiện trên cơ sở các văn bản quy định của Đảng về công
tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng:

- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng (khoá XI) về
"Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".
- Chỉ thị số 29- CT/TW, ngày 14/2/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII về
tăng cường công tác kiểm tra của Đảng;
- Thông báo số 226-TB/TW ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư Trung ương
về đổi mới nội dung tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng.
- Quy định số 222-QĐ/TW, ngày 08/5/2009 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu
giúp việc tỉnh ủy, thành ủy.
- Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị “về Chiến lược
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020”.
- Quy định số 45-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung
ương về thi hành Điều lệ Đảng.


5
- Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung
ương về việc “ ban hành Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng
khóa XI”.
- Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương
về những điều đảng viên không được làm;
- Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 21/03/2012 của Ban Chấp hành Trung
ương ban hành Quy chế giám sát trong Đảng.
- Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XIX
- Các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn, tổng kết chuyên đề về công tác kiểm

tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong đảng của Trung ương và của Tỉnh ủy Ninh
Bình.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 30/7/2007 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa X và Chương trình số 10-CTr/TU ngày 16/10/2007 của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Ninh Bình về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
số 14-NQ/TW ngày 30/7/2007 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, cấp uỷ Đảng các cấp trong tỉnh đã
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
theo quy định của Điều lệ Đảng, từng bước nâng cao nhận thức về công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Thành phố
Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình đã thực sự đi vào nền nếp. Việc xây dựng chương trình,
kế hoạch được đổi mới, phù hợp với tình hình địa phương; nội dung, đối tượng
kiểm tra, giám sát đã cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; chất lượng các cuộc kiểm
tra, giám sát ngày càng có chất lượng, hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng bộ.
Việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra
các Thành ủy đúng quy định, quy trình, hướng dẫn của Trung ương. Tổ chức
đảng và đảng viên được kiểm tra, giám sát có thái độ đúng mức, nghiêm túc chấp
hành, thực hiện tốt yêu cầu, nội dung kế hoạch kiểm tra, giám sát của tổ kiểm tra,
giám sát; thực hiện tốt việc giải trình và nghiêm túc tiếp thu phê bình, góp ý, kết
luận của chủ thể kiểm tra, giám sát. Qua kiểm tra, giám sát đã góp phần nâng cao


6
hơn nữa ý thức của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị
quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và của cấp mình; góp phần ngăn chặn hành vi
vi phạm do tham nhũng, tiêu cực, gây thất thoát, lãng phí, phòng ngừa vi phạm

của tổ chức đảng và đảng viên.
Ủy ban kiểm tra Thành ủy đã tham mưu cho ban thường vụ cấp ủy chỉ
đạo, giải quyết những vấn đề nổi cộm tại các địa phương, kịp thời xem xét, xử
lý, kiến nghị, thu hồi số tiền, tài sản do sai phạm nộp vào ngân sách Nhà nước,
đã góp phần đấu tranh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, tăng cường kỷ cương,
kỷ luật, tạo sự đoàn kết thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của địa phương. Vì vậy, thời gian qua, đã hạn chế được đơn
thư khiếu nại, tố cáo và phản ảnh đối với tổ chức đảng và đảng viên trong tỉnh.
Công tác kiểm tra, giám sát của UBKT Thành ủy đã giúp các cấp ủy đảng
ở địa phương rút ra những bài học thực tiễn để đổi mới phương thức lãnh đạo,
chỉ đạo, quản lý và giáo dục đảng viên. Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện được
những thiếu sót, kẽ hở trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện, kịp
thời điều chỉnh, bổ sung, đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, xây
dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh; phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Bảo đảm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy các cấp trong tỉnh được tổ chức
thực hiện nghiêm túc, đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Tuy nhiên trong thời gian qua, UBKT Thành ủy và một số đảng uỷ cơ sở
chưa thực sự chú trọng và quan tâm đến công tác kiểm tra, dẫn đến chất lượng và
hiệu quả công tác kiểm tra nhìn chung còn hạn chế, chưa có nhiều biện pháp
kiểm tra phòng ngừa vi phạm. Nhiều khuyết điểm, vi phạm của tổ chức Đảng và
đảng viên chậm được phát hiện và chậm được kiểm tra xử lý. Công tác kiểm tra
còn mang tính hình thức, chất lượng, hiệu quả thấp. Việc thực hiện kết luận kiểm
tra và đôn đốc thực hiện kết luận kiểm tra còn thiếu kiên quyết, thiếu triệt để, ảnh
hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Năng lực, phong cách
làm việc của một số ít cán bộ kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là
trong tình hình mới, cụ thể như:



7
Một số đảng ủy cơ sở, tổ chức đảng kể cả người đứng đầu chưa nhận thức
và quan tâm đầy đủ đến công tác kiểm tra, giám sát, chưa phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát nên chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát ở tổ chức đảng đó còn
nhiều mặt hạn chế.
Hoạt động của UBKT Thành ủy chưa toàn diện. Công tác nắm địa bàn,
phát hiện dấu hiệu vi phạm còn hạn chế. Việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. UBKT Thành ủy chưa tập trung vào những
lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm như: quản lý đất đai, tài chính ngân sách, xây dựng cơ
bản, thực hiện chính sách xã hội. Kiểm tra tài chính đảng của một số UBKT đảng
ủy cơ sở, nhất là đối với cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp chưa tạo sự chuyển biến
tích cực; vẫn còn tư tưởng ngại va chạm, né tránh, ảnh hưởng không nhỏ tới công
tác quản lý, sử dụng ngân sách Đảng theo đúng quy định.
Việc giải quyết đơn thư tố cáo ở UBKT Thành ủy và một số đảng ủy cơ
sở, chưa coi trọng khâu nắm tình hình, chưa tuân thủ đầy đủ quy trình, thủ tục
theo quy định của pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo; dẫn đến việc đơn thư tái
tố, tái khiếu và vượt cấp còn để sảy ra. Thực hiện thẩm tra, xác minh cá biệt có
vụ việc không khách quan, không chính xác dẫn đến phải thay đổi kết luận kiểm
tra. Việc thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên mới tập trung vào xem xét,
giải quyết những vụ việc tồn đọng đã xảy ra, phát hiện sai phạm mới nảy sinh
chưa nhiều, nhất là việc xử lý một số trường hợp vi phạm chưa kịp thời, kiên quyết,
nghiêm minh cả về kỷ luật đảng và chính quyền gây băn khoăn dị nghị trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
Việc thực hiện quy chế phối hợp giữa UBKT Thành ủy với các tổ chức
đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng còn chưa
thường xuyên, chất lượng còn hạn chế. Một số tổ chức đảng và cấp ủy viên chưa
nêu cao vai trò, trách nhiệm trong thực hiện các nội dung của quy chế phối hợp;
chưa chủ động chỉ đạo việc phối hợp, tổ chức họp rút kinh nghiệm; việc phối

hợp có lúc, có việc còn chậm và chưa cụ thể; có nội dung trong quy chế phối hợp
chưa phù hợp với thực tế; khi có thay đổi các quy định của Trung ương chưa
được kịp thời sửa đổi, bổ sung.
Từ thực tiễn trên, việc xây dựng đề án "Nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ thành phố Ninh Bình tỉnh Ninh Bình trong giai


8
đoạn hiện nay” là cần thiết, nhằm phân tích thực trạng chất lượng công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng bộ thành phố Ninh Bình trong những năm qua, từ đó chỉ
ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế; nguyên nhân của những ưu điểm, tồn tại, hạn
chế; rút ra bài học kinh nghiệm làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp mang
tính khả thi góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
bộ thành phố Ninh Bình trong thời gian tiếp theo.
2- Mục tiêu của đề án.
2.1. Mục tiêu chung
Xây dựng đề án nhằm đánh giá những việc đã làm được, chưa làm được của
cấp uỷ, tổ chức đảng và UBKT các cấp của đảng bộ thành phố, thông qua đó chấn
chỉnh lề lối, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên nói chung mà trước hết là cấp
ủy viên và cán bộ kiểm tra các cấp, đồng thời đề ra những giải pháp, kiến nghị với
Thành uỷ có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra,
giám sát, tạo sự chuyển biến toàn diện hệ thống chính trị, đảm bảo cơ chế vận hành
đồng bộ, kiên quyết phá vỡ cơ chế kìm hãm động cơ cống hiến của cán bộ, đảng
viên, đẩy nhanh đầu tư xung lực cho các tổ chức và cá nhân, đáp ứng kịp với yêu
cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng hiện nay, trọng tâm trước mắt
là đội ngũ người đứng đầu các tổ chức, cấp ủy viên và Uỷ ban kiểm tra các cấp.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá đúng những thành tựu và nguyên nhân thành công; phát hiện
đúng những bất cập và nguyên nhân hạn chế về lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát của Đảng bộ những năm qua.

- Đề xuất các chủ trương, biện pháp có tính khả thi để khắc phục triệt để
những hạn chế, yếu kém, phát huy mạnh mẽ ưu điểm, tiềm năng, thế mạnh; kêu
gọi và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư nâng cao chất lượng công tác
kiểm tra, giám sát của đảng bộ từ nay tới năm 2020 và những năm tiếp theo.
- Từng bước xây dựng đội ngũ cấp ủy viên và cán bộ kiểm tra đảm bảo về
số lượng và chất lượng, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng,
năng lực chuyên môn giỏi, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao.
- Tạo điều kiện từng bước chuyên môn hóa cao cho cán bộ kiểm tra đáp
ứng tốt yêu cầu về kỹ năng nghiệp vụ, mở rộng phạm vi môi trường và khả năng
cống hiến tích cực, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.


9
- Bước đầu tích lũy được những kinh nghiệm bổ ích về công tác xây dựng
nghành kiểm tra và hoàn thiện các cơ chế vận hành của hệ thống chính trị đối với
công tác kiểm tra, giám sát dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, hình thành và khuyến
khích sử dụng có hiệu quả đội ngũ chuyên gia, cố vấn có bản lĩnh chính trị vững
vàng, chuyên môn giỏi cho công tác kiểm tra, giám sát, làm cơ sở cho cuộc đấu
tranh chống tiêu cực, tham nhũng hiện nay và những năm tiếp theo.
3. Nội dung thực hiện của đề án
3.1. Bối cảnh thực hiện của đề án
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ : Một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một
số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những
biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ
hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng,
lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Điều đó làm giảm uy tín của Đảng, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ và cũng là những thách thức và khó khăn
đối với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng hiện nay.

Đề án được xây dựng trong điều kiện đảng bộ thành phố đã cơ bản hoàn
thành, kết thúc một nhiệm kỳ hoạt động 5 năm (2010-2015), đánh giá, tổng kết
các chỉ tiêu, nhiệm vụ và chuẩn bị điều kiện, phương hướng cho nhiệm kỳ mới
trong đó có tác động lớn đến kết quả công tác kiểm tra, giám sát.
3.2. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ thành phố Ninh
Bình trong thời gian qua
3.2.1- Khái quát một số nét về thành phố Ninh Bình và Đảng bộ thành phố
Ninh Bình , tỉnh Ninh Bình.
3.2.1.1- Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của thành phố Ninh Bình
tỉnh Ninh Bình
Thành phố Ninh Bình là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và
du lịch của tỉnh Ninh Bình. Thành phố Ninh Bình là đô thị loại II, nằm cách thủ
đô Hà Nội 93 km theo quốc lộ 1A; phía bắc và phía tây giáp huyện Hoa Lư, phía
nam và đông nam giáp huyện Yên Khánh, phía đông bắc giáp huyện Ý Yên
(Nam Định). Khoảng cách từ trung tâm thành phố tới 7 huyện lỵ khác của tỉnh
Ninh Bình đều dưới 30 km.


10
Thành phố Ninh Bình là đầu mối giao thông quan trọng của hệ thống
đường cao tốc Ninh Bình - Thanh Hóa, Ninh Bình - Cầu Giẽ và Ninh Bình - Hải
Phòng - Hạ Long. Thành phố cũng nằm ở vị trí giao điểm của quốc lộ 1A với 2
quốc lộ 10 và Quốc lộ 38B đi qua các tỉnh vùng duyên hải Bắc Bộ. Thành phố
Ninh Bình có diện tích tự nhiên 4.836,49 ha và trên 13 vạn nhân khẩu, được
chia thành 14 đơn vị hành chính xã, phường (11 phường, 03 xã). Thành phố
Ninh Bình nằm cách Hà Nội 93 km. Nằm ở vị trí cửa ngõ miền Bắc, thành phố
Ninh Bình đồng thời là một đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống đường
thủy, đường bộ và đường sắt phát triển.
Bám sát chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa, Đảng bộ Thành phố đã
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Cấp uỷ, Uỷ ban Kiểm tra các cấp triển khai thực hiện

nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng. Trong đó, nhiệm vụ trọng
tâm là tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng. Ban Thường vụ Thành uỷ, Uỷ ban
Kiểm tra Thành uỷ đã tích cực đầu tư xây dựng và thực hiện chương trình công
tác kiểm tra, giám sát; đồng thời nghiêm túc thi hành kỷ luật tổ chức đảng và
đảng viên vi phạm theo thẩm quyền, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng góp
phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố đề
ra.
3.2.1.2- Đảng bộ thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình
Đảng bộ Thành phố Ninh Bình có 75 tổ chức cơ sở đảng (23 Đảng bộ, 52
Chi bộ) với tổng số 8.946 đảng viên, là Đảng bộ có truyền thống cách mạng, dân
chủ, kỷ cương, đoàn kết.
Trong những năm qua, Đảng bộ thành phố luôn xác định công tác kiểm
tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, có vị trí rất quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng, với phương châm “giám sát phải được mở rộng,
kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”. Cấp ủy các cấp đã khắc phục khó khăn,
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện tương đối toàn diện, có hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát góp phần đảm bảo cho chủ trương, đường lối, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, đúng mục tiêu,
yêu cầu; đồng thời uốn nắn những sai sót trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện;


11
phòng ngừa, ngăn chặn những khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng và đảng
viên, góp phần giữ gìn ổn định tình hình, đẩy nhanh tốc độ phát triển mọi mặt ở
địa phương.
3.2.2- Kết quả công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ thành phố Ninh
Bình (nhiệm kỳ 2010 -2015)
* Công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp
A- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và UBKT các cấp đối với công

tác kiểm tra, giám sát.
Cấp uỷ và UBKT các cấp trong Đảng bộ thành phố đã tổ chức quán triệt,
triển khai và tổ chức thực hiện nghiêm túc có hiệu quả Điều lệ Đảng khóa XI và
các quy định:
- Quy định số 45 - QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Bộ Chính trị về thi hành
Điều lệ Đảng;
- Quyết định số 46 - QĐ/TW ngày 01/11/2011 của BCH Trung ương Đảng
kèm theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật của Đảng trong Chương VII, chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI;
- Quy định số 47 - QĐ/TW ngày 01/11/2011 của BCH Trung ương (khóa
XI) về những điều đảng viên không được làm;
- Quy định số 181 - QĐ/TW, ngày của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng
viên vi phạm và hướng dẫn thực hiện quy định của UBKT Trung ương…
Sau khi tiếp thu, nghiên cứu, nhận thức của đại đa số cán bộ đảng viên
nhất là cấp uỷ đảng được nâng lên một bước, khẳng định “kiểm tra, giám sát là
những chức năng lãnh đạo của Đảng” và coi công tác kiểm tra, giám sát là
nhiệm vụ của toàn Đảng chứ không riêng của cấp uỷ hay UBKT các cấp. Do đó
ý thức chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước; các quy định của địa phương được nâng lên, hạn chế khuyết điểm vi
phạm của đảng viên và tổ chức đảng.
- Cấp uỷ và UBKT các cấp trong thành phố căn cứ quy định của Đảng,
hướng dẫn của UBKT cấp trên, nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở
địa phương đã xây dựng và ban hành Quy chế làm việc, Chương trình công tác
kiểm tra, giám sát toàn khoá; Quy chế phối hợp giữa các ban của Thành uỷ với
cơ quan Thanh tra, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong thành phố nhằm làm tốt
công tác kiểm tra, giám sát, tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo.


12
Hàng năm BCH Đảng bộ thành phố đã xây dựng và chỉ đạo cấp uỷ cơ sở xây

dựng chương trình kiểm tra, giám sát (theo Điều 30 Điều lệ Đảng), phân công
các đồng chí ủy viên BTV hoặc cấp ủy viên chủ trì các đoàn (tổ) kiểm tra, giám
sát; đồng thời chỉ đạo UBKT cùng cấp xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát
(theo Điều 32) đảm bảo chất lượng, thời gian quy định và phù hợp tình hình thực
tiễn ở địa phương, đơn vị, trong đó xác định rõ mục đích yêu cầu, nội dung, đối
tượng, mốc thời gian, lực lượng tổ chức thực hiện.
- Định kỳ 6 tháng và hàng năm, cấp uỷ, UBKT các cấp tổ chức hội nghị sơ
kết, tổng kết công tác xây dựng Đảng trong đó có nội dung thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, nhằm đánh giá đúng những ưu
điểm, kết quả đã đạt được để phát huy; chỉ ra những tồn tại, hạn chế để bàn biện
pháp khắc phục.
- Thường trực Thành uỷ, BTV cấp uỷ các cấp thường xuyên nghe các tổ chức
đảng, UBKT cấp uỷ cùng cấp và cấp dưới trực thuộc báo cáo, đồng thời cho ý kiến
lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh, nổi cộm có liên quan đến
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng, trọng tâm là công tác xây
dựng, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra, như: công tác quy hoạch, tăng cường biên chế cho
cơ quan UBKT Thành uỷ, có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ chuyên
môn phù hợp; đồng thời tạo điều kiện cán bộ cơ quan UBKT Thành uỷ tham gia các
lớp tập huấn nghiệp vụ do UBKT Tỉnh uỷ và UBKT Trung ương tổ chức cũng như
mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cấp ủy chi bộ, cán bộ kiểm tra cơ sở; Đầu tư cải
tiến cơ chế hoạt động phối hợp hiệu quả giữa công tác kiểm tra, giám sát với các
lĩnh vực chuyên môn khác như thanh tra, tư pháp, tài chính, kế toán..
- Ngay từ đầu nhiệm kỳ, cơ quan UBKT Thành uỷ phân công và tạo điều
kiện cho các thành viên trong Cơ quan phụ trách địa bàn, trực tiếp kiểm tra giám
sát thường xuyên và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ với tổ chức đảng cấp dưới.
B. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ theo Điều 32 Điều lệ Đảng
1. Kiểm tra đảng viên, cấp uỷ viên và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu
hiệu vi phạm.
Nhiệm vụ kiểm tra khi có DHVP đối với đảng viên và tổ chức đảng luôn
được UBKT các cấp trong Thành phố xác định là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên

suốt, tập trung vào các đối tượng, các lĩnh vực dễ xảy ra vi phạm. Trong nhiệm
kỳ qua, UBKT các cấp trong thành phố đã tăng cường kiểm tra khi có DHVP đối


13
với tổ chức Đảng và đảng viên, nhất là đối với cán bộ, đảng viên thuộc diện cấp
ủy quản lý, về thực hiện nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, công tác quản lý Nhà nước
về đất đai, đầu tư XDCB và tài chính ngân sách xã ...
1.1- Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm.
- Trong nhiệm kỳ, UBKT các cấp trong thành phố đã kiểm tra và thông báo
kết luận kiểm tra đối với 189 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, bằng 2,11 % so
với tổng số đảng viên trong Đảng bộ (8946 đảng viên. Trong 189 đảng viên được
kiểm tra có 85 đồng chí là cấp ủy viên các cấp (06 ĐUV, 79 CUV, 04 đảng viên),
chiếm 95,5% so với tổng số đảng viên được kiểm tra. Trong 189 đảng viên được
kiểm tra thuộc lĩnh vực đảng là 106 đảng viên chiếm 56,08% so với tổng số đảng
viên được kiểm tra; lĩnh vực Nhà nước là 16 đảng viên chiếm 8,46%; sản xuất kinh
doanh - dịch vụ là 08 đảng viên chiếm 4,23%; lực lượng vũ trang 02 đảng viên
chiếm 1,05%; lĩnh vực đoàn thể là 24 đảng viên chiếm 12,69%; lĩnh vực khác là 33
đảng viên chiếm 17,46% so với tổng số đảng viên được kiểm tra.
- Qua kiểm tra đã kết luận: 189/189 (100%) đảng viên được kiểm tra có vi
phạm, nhưng chưa đến mức phải thi hành kỷ luật.
1.2- Kiểm tra tổ chức đảng khi có DHVP
Trong nhiệm kỳ, UBKT các cấp trong thành phố kiểm tra được 155 tổ
chức đảng khi có DHVP, trong đó, UBKT Thành uỷ kiểm tra 16 tổ chức; UBKT
đảng uỷ cơ sở kiểm tra 139 đảng viên.
Qua kiểm tra kết luận 155/155 tổ chức đảng được kiểm tra có khuyết
điểm, vi phạm chưa đến mức phải xử lý kỷ luật, nhưng phải nghiêm túc kiểm
điểm, rút kinh nghiệm.
Việc kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có DHVP trong nhiệm kỳ qua

đã có nhiều tiến bộ so với nhiệm kỳ trước. Số lượng kiểm tra đảng viên là cấp uỷ
viên tăng, chất lượng các cuộc kiểm tra được nâng lên. Nội dung kiểm tra đa
dạng, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao
trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai, đầu tư XDCB và tài chính ngân
sách; chính sách kế hoạch hoá gia đình; phẩm chất đạo đức lối sống và một số
các vi phạm khác. Qua đó đã góp phần thiết thực vào công tác xây dựng đảng và
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; các cuộc kiểm tra


14
nhìn chung được tiến hành đảm bảo đúng nguyên tắc, thủ tục, trong đó đặc biệt
chú trọng công tác khảo sát, sàng lọc và thẩm tra xác minh, nên kết luận khách
quan, chính xác nên không có khiếu nại kết luận, qua kiểm tra đã có tác dụng
tích cực giáo dục, cảnh báo, ngăn ngừa vi phạm, khuyết điểm, góp phần giữ gìn
kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Tuy nhiên, vẫn còn một số cấp ủy và UBKT Đảng uỷ chưa thật sự quan
tâm đúng mức đến nhiệm vụ này, số lượng và chất lượng kiểm tra chưa phản ánh
đúng tình hình, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện
nay. Nguyên nhân là do nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về vị trí
vai trò công tác kiểm tra giám sát của Đảng nói chung, nhiệm vụ kiểm tra khi có
DHVP nói riêng còn hạn chế; một số cán bộ kiểm tra nhất là cấp cơ sở trình độ
chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu.
2. Thực hiện nhiệm vụ giám sát
* Giám sát thường xuyên: Trong nhiệm kỳ qua cán bộ cơ quan UBKT
Thành ủy tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên các tổ chức đảng và đảng
viên theo địa bàn được phân công phụ trách, và đã kịp thời báo cáo kết quả về
thường trực UBKT Thành ủy theo quy định.
* Giám sát chuyên đề: Trong nhiệm kỳ, UBKT các cấp đã giám sát 145 tổ
chức đảng cấp dưới và 81 đảng viên (có 49 cấp uỷ viên và cán bộ do cấp ủy

cùng cấp quản lý), trong đó UBKT Thành ủy giám sát 17 tổ chức và 27 đảng
viên; UBKT Đảng uỷ cơ sở giám sát được 128 tổ chức và 54 đảng viên.
Nội dung giám sát đa dạng song tập trung chủ yếu vào giám sát việc lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, kết luận của cấp uỷ cấp trên và cấp mình, chính sách pháp luật
của Nhà nước; việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; việc thực hiện chức
trách nhiệm vụ, quyền hạn được giao; việc thực hiện quy chế làm việc của cấp
ủy cấp mình và các nội dung khác.
Qua giám sát, đánh giá các đối tượng được giám sát đều thực hiện tương
đối tốt các nội dung giám sát, không phát hiện có dấu hiệu vi phạm.
3. Kiểm tra thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
trong Đảng
a. Kiểm tra thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát


15
Trong nhiệm kỳ, UBKT các cấp kiểm tra được 155 tổ chức (tăng 37 tổ
chức so với nhiệm kì trước), trong đó UBKT Thành uỷ kiểm tra 30 tổ chức;
UBKT đảng uỷ cơ sở kiểm tra 125 tổ chức.
Qua kiểm tra đánh giá các tổ chức đảng được kiểm tra đã quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Đảng, phù
hợp thực tế địa phương đơn vị.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: một số tổ chức cơ sở
đảng xây dựng chương trình kiểm tra giám sát hàng năm còn dàn trải, khi thực
hiện còn lúng túng...
b. Kiểm tra thực hiện nhiệm vụ thi hành kỷ luật
Trong nhiệm kỳ, UBKT các cấp kiểm tra được 120 tổ chức (tăng 64 tổ
chức so với nhiệm kì trước), trong đó UBKT Thành uỷ kiểm tra 29 tổ chức,
UBKT đảng uỷ cơ sở kiểm tra 91 tổ chức.
Các tổ chức đảng được kiểm tra đã thực hiện đúng phương hướng,

phương châm, nguyên tắc thi hành kỷ luật. Do đó không có trường hợp nào
khiếu nại kỷ luật Đảng.
4. Kiểm tra đảng phí và tài chính Đảng
Trong nhiệm kỳ, UBKT các cấp trong thành phố kiểm tra đảng phí và tài
chính Đảng được 175 tổ chức, trong đó UBKT Thành uỷ kiểm tra 17 tổ chức, các
UBKT đảng uỷ cơ sở kiểm tra 158 tổ chức.
Qua kiểm tra kết luận 175/175 tổ chức được kiểm tra thực hiện tương đối
tốt công tác thu, chi, quản lý và sử dụng ngân sách Đảng; việc ghi chép, hạch
toán các nguồn thu trong đó có nguồn thu Đảng phí rành mạch, rõ ràng, quản lý
chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích, không có biểu hiện vi phạm nguyên tắc trong
quản lý, thu, chi; đảng viên chấp hành tốt các quy định của Trung ương về thu,
nộp Đảng phí.
5. Kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng đối với tổ chức đảng cấp dưới
+ Ủy ban Kiểm tra Thành ủy và cơ sở kiểm tra 39 tổ chức đảng cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ thi hành kỷ luật trong Đảng. Số đảng viên bị thi hành kỷ luật
trong mốc thời gian kiểm tra là 17 đảng viên, trong đó:
+ UBKT Thành uỷ đã kiểm tra 12 tổ chức Đảng cấp dưới là BCH Đảng bộ
phường về việc thực hiện nhiệm vụ thi hành kỷ luật trong Đảng. Số đảng viên bị
thi hành kỷ luật trong mốc thời gian kiểm tra là 10 đảng viên.


16
+ UBKT Đảng uỷ cơ sở đã kiểm tra 12 tổ chức Đảng cấp dưới thực hiện
nhiệm vụ thi hành kỷ luật trong Đảng. Số đảng viên bị thi hành kỷ luật trong
mốc thời gian kiểm tra là 07 đảng viên.
Qua kiểm tra kết luận: 39 TCĐ làm tốt công tác thi hành kỷ luật; 17/17
đảng viên vi phạm kỷ luật đã được tổ chức Đảng xem xét, quyết định kỷ luật
đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục theo quy định của Đảng;
không có khiếu nại kỷ luật Đảng, không có trường hợp nào phải thay đổi hình
thức kỷ luật. So với chỉ tiêu thi đua đạt 100%.

6. Thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên
Các tổ chức đảng có thẩm quyền của Đảng bộ thành phố đã kỷ luật Khiển
trách 05 tổ chức đảng (chiếm 7,14% tổng số tổ chức đảng trong Đảng bộ), giảm
04 tổ chức so với nhiệm kỳ trước và 74 đảng viên (chiếm 1,12% tổng số đảng
viên trong toàn đảng bộ thành phố), giảm 52 đảng viên so với nhiệm kỳ trước,
trong đó Khiển trách 44, cảnh cáo 16, cách chức 03 và khai trừ 11 đảng viên.
Các nội dung vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên chủ yếu là việc chấp
hành Nghị quyết, chỉ thị, của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc và thiếu tinh thần trách nhiệm,
buông lỏng trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý và một số vi phạm khác.
Nhìn chung, trong nhiệm kỳ qua các tổ chức đảng và đảng viên trong toàn
Đảng bộ thành phố cơ bản chấp hành tốt kỷ luật của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. Do vậy, số đảng viên và tổ chức đảng vi phạm bị thi hành kỷ luật
giảm so với nhiệm kỳ trước. Đặc biệt những tổ chức đảng và đảng viên bị thi hành
kỷ luật đã nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, không có khiếu nại kỷ luật đảng và có
chuyển biến tích cực sau khi bị kỷ luật. Việc thi hành kỷ luật đã cơ bản đảm bảo
đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục theo quy định của Đảng;
đảm bảo có tác dụng giáo dục cao, góp phần tích cực, hiệu quả trong công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng.
7. Giải quyết tố cáo tổ chức đảng và đảng viên
Trong nhiệm kỳ, UBKT các cấp trong thành phố đã tiếp nhận và giải quyết
xong 20/20 đơn thư tố cáo đảng viên và 02/02 đơn tố cáo tổ chức đảng (giảm 43
đơn so tố cáo đảng viên và tăng 02 đơn tố cáo tổ chức đảng so với nhiệm kỳ
trước). Nội dung đơn thư tố cáo tương đối đa dạng nhưng thường tập trung vào
các vi phạm về chính sách pháp luật, cố ý làm sai chế độ của Nhà nước về quản


17
lý tài chính, đất đai, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, phẩm chất lối sống của
cán bộ đảng viên…

Thực hiện quy định của Đảng trong việc xem xét, giải quyết đơn tố cáo,
UBKT Thành uỷ đã làm tốt công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý theo thẩm quyền;
giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo thuộc thẩm quyền, đồng thời tham mưu kịp
thời giải quyết tốt những đơn thư tố cáo thuộc thẩm quyền của BTV Thành uỷ;
không xem xét giải quyết những thư nặc danh, mạo danh, chữ ký phô tô song
đây là nguồn tư liệu, qua sàng lọc để chuyển sang kiểm tra DHVP hoặc liên hệ
phê bình và tự phê bình trong nội bộ Đảng. Việc giải quyết đơn thư tố cáo đã cơ
bản đảm bảo nguyên tắc, quy trình và thủ tục, do vậy nhìn chung người tố cáo và
người bị tố cáo đã thụ lý kết qủa giải quyết.
Qua giải quyết tố cáo trong Đảng đã góp phần tích cực vào việc giữ gìn kỷ
cương kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước, bảo vệ quyền lợi chính đáng của
đảng viên và công dân, hạn chế oan sai, đồng thời không bỏ lọt khuyết điểm vi
phạm, góp phần tích cực vào việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh.
8. Giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng
Trong nhiệm kỳ qua, việc thi hành kỷ luật Đảng đã cơ bản đảm bảo đúng
phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục theo quy định. Do đó toàn Đảng
bộ không có trường hợp nào khiếu nại kỷ luật Đảng.
C. Công tác tham mưu và thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao
Do có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và phân công cụ thể, trên cơ sở Chương
trình công tác và Chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, ngay từ đầu các
năm trong nhiệm kỳ, BCH Đảng bộ thành phố đã xây dựng được Quy chế công
tác và Chương trình kiểm tra, giám sát theo Điều 30; đồng thời chỉ đạo UBKT
Thành uỷ, đảng uỷ cơ sở, chi bộ trực thuộc xây dựng chương trình kiểm tra,
giám sát của cấp mình đảm bảo chất lượng, sát đúng, đáp ứng yêu cầu đề ra.
* Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra: Cấp uỷ các cấp trong Đảng bộ thành phố
đã kiểm tra chuyên đề 158 tổ chức đảng và 14 cấp uỷ viên (tăng 66 tổ chức đảng
và 11 đảng viên so với nhiệm kỳ trước), trong đó BTV thành uỷ kiểm tra 73 tổ
chức và 08 cấp uỷ viên; cấp uỷ cơ sở kiểm tra 85 tổ chức và 06 cấp uỷ viên.
* Thực hiện nhiệm vụ giám sát: Cấp uỷ các cấp trong Đảng bộ thành phố
đã giám sát chuyên đề 71 tổ chức đảng (tăng 11 tổ chức đảng so với nhiệm kỳ



18
trước) và 38 cấp uỷ viên, trong đó BTV thành uỷ giám sát 18 tổ chức và 06 đảng
viên; cấp uỷ cơ sở giám sát 53 tổ chức và 32 đảng viên.
Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung chủ yếu vào việc lãnh đạo, chỉ đạo
và tổ chức thực hiện Điều lệ Đảng, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước về sử dụng ngân sách; công tác quân sự, quốc
phòng địa phương; công tác quản lý đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản …
Đối tượng kiểm tra, giám sát là các tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp và cán
bộ đảng viên trong Đảng bộ mà trước hết là các tổ chức đảng và đảng viên quản
lý những lĩnh vực quan trọng, dễ phát sinh vi phạm.
Thông qua việc các cấp uỷ đảng thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đã góp phần tích cực vào việc thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở địa phương.
* Thực hiện nhiệm vụ giải quyết đơn thư: Tổng số đơn tố cáo thuộc thẩm
quyền giải quyết là 04 đơn, cấp uỷ các cấp đã giải quyết xong là 04/04 đơn,
trong đó, thẩm quyền cấp thành phố là 02 đơn và cấp cơ sở là 02 đơn.
Nhìn chung, các đơn thư tố cáo được giải quyết đảm bảo đúng quy
trình, thời gian quy định, kịp thời, dứt điểm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, giảm thiểu tình trạng khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp, góp
phần ổn định tình hình địa phương.
Thông qua việc cấp uỷ đảng các cấp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
tương đối toàn diện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, đã góp phần tích cực vào việc
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở địa
phương. Song bên cạnh đó vẫn còn có một số tổ chức đảng ở cơ sở chưa thực sự
quan tâm đến nhiệm vụ này, nên số lượng chưa nhiều, chất lượng các cuộc kiểm
tra chưa cao, chưa phản ánh đúng tình hình thực tế.
D. Công tác xây dựng Ngành
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, trên cơ sở phát huy những kết quả đạt được,

tranh thủ những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, UBKT các cấp trong
thành phố tiếp tục duy trì nền nếp công tác và phong trào thi đua, thực hiện
nghiêm túc Quy chế làm việc, góp phần xây dựng Ngành kiểm tra của Đảng ở
thành phố ngày càng vững mạnh, phấn đấu hoàn thành tương đối toàn diện các
mặt công tác:


19
- Hàng năm, UBKT các cấp trong thành phố đã tổ chức sơ kết, tổng kết
công tác kiểm tra, giám sát; đồng thời xây dựng phương hướng và tổ chức, chỉ
đạo, hướng dẫn, đôn đốc tổ chức đảng cấp dưới thực hiện chương trình kiểm tra,
giám sát thời gian tiếp theo đảm bảo hiệu quả, chất lượng.
- Cấp uỷ các cấp ngay từ đầu nhiệm kỳ cũng như thường xuyên đã quan
tâm xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm các cấp đủ số lượng, có chất lượng dần từng
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời kỳ;
- UBKT Thành ủy đã tham mưu cho cấp uỷ quy hoạch và bổ xung quy
hoạch cán bộ UBKT Thành ủy theo từng giai đoạn; đồng thời thực hiện tốt việc
luân chuyển điều động cán bộ (nhiệm kỳ qua cơ quan UBKT Thành ủy đã được
cấp ủy điều động và luân chuyển đi và đến 15 cán bộ), bổ sung 03 Ủy viên; hiện
nay cơ quan UBKT Thành ủy có 08 đồng chí, có phẩm chất chính trị vững vàng,
có trình độ chuyên môn đa dạng, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; đồng
thời chỉ đạo cơ sở bổ sung 05 Uỷ viên uỷ và 01 Chủ nhiệm UBKT Đảng uỷ cơ
sở.
- UBKT Thành uỷ phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thành
phố và Ban Tổ chức Thành uỷ đã tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng cho trên 500 lượt cán bộ là uỷ viên UBKT đảng uỷ, cũng như tạo điều
kiện cho cán bộ kiểm tra tham gia các lớp học chương trình lý luận chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ năng lực phục vụ tốt cho công
tác kiểm tra, giám sát.
- Rà soát, lập danh sách, đề nghị UBKT Trung ương tặng kỷ niệm chương

''Vì sự nghiệp kiểm tra của Đảng'' cho 26 cán bộ, đảng viên có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn vào các dịp lễ kỷ niệm thành lập Ngành 16/10 hàng năm.
3.2.3. Nhận xét chung về chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của
đảng bộ thành phố Ninh Bình nhiệm kỳ 2011 – 2015.
* Về ưu điểm:
Việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng bộ thành phố đã
phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ.
Sau khi được quán triệt các quyết định, quy định của Trung ương, hướng
dẫn, chỉ đạo của UBKT Trung ương và UBKT Tỉnh ủy về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của Đảng, Đảng bộ thành phố đã tích cực chủ động tham
mưu, giúp cấp ủy triển khai nghiên cứu, quán triệt các văn bản của Đảng và chỉ


20
đạo, hướng dẫn các cấp ủy thực hiện công tác kiểm tra, giám sát; kịp thời bổ
sung, xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hàng năm. Đã tham
mưu ban hành Quy chế phối hợp giữa cấp ủy với các phòng, ban, ngành, cơ quan
liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của
Đảng, làm cho hoạt động kiểm tra, giám sát ngày càng chặt chẽ và tốt hơn.
Chính vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần tích cực vào việc phát hiện
những tổ chức đảng và đảng viên có thiếu sót, khuyết điểm để có biện pháp ngăn
ngừa, chấn chỉnh, khắc phục sửa chữa những khuyết điểm, vi phạm, góp phần
quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng các tổ chức đảng
trong sạch, vững mạnh, bảo đảm uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ đối với xã
hội, được nhân dân trong đảng bộ ủng hộ, tạo niềm tin vững chắc và sâu rộng
trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ.
Chương trình, kế hoạch kiểm tra giám sát của Đảng bộ thành phố được
xây dựng phù hợp với tình hình thực tế và ngày càng thực hiện có nền nếp.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ thành phố Ninh Bình đã thực sự đi
vào nền nếp, từ năm 2011 đến nay việc xây dựng chương trình, kế hoạch được đổi

mới, phù hợp với tình hình địa phương, đơn vị. Nội dung, đối tượng kiểm tra,
giám sát cụ thể có trọng tâm, trọng điểm tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm như
đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản, tuyển dụng công chức; chất lượng các cuộc
kiểm tra giám sát ngày càng có hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng.
Kết quả của từng cuộc kiểm tra, giám sát cơ bản đảm bảo chất lượng, hiệu
quả và có tác dụng giáo dục tốt.
Đảng bộ thành phố Ninh Bình đã tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát đúng quy định, quy trình, hướng dẫn của Trung ương. Tổ chức đảng và
đảng viên được kiểm tra, giám sát có thái độ đúng mức, nghiêm túc chấp hành,
thực hiện tốt nội dung kế hoạch kiểm tra, giám sát, yêu cầu của tổ kiểm tra, giám
sát; thực hiện tốt việc giải trình và nghiêm túc tiếp thu phê bình, góp ý, kết luận
của chủ thể kiểm tra, giám sát.
Qua kiểm tra, giám sát đã góp phần nâng cao ý thức của cấp ủy, tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên
và của cấp mình. Các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên đồng tình, tạo điều kiện,


21
phối hợp thực hiện đồng bộ; đã giúp cho tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên kịp
thời thấy được ưu điểm để phát huy, đồng thời phát hiện những hạn chế, tồn tại
dễ dẫn đến sai phạm, có biện pháp uốn nắn, sửa chữa, khắc phục. Cũng qua đó
phát hiện được những sơ hở trong lãnh đạo, quản lý để điều chỉnh, bổ sung; cảnh
báo, ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; tham mưu
Ban Thường vụ cấp ủy chỉ đạo, giải quyết những vấn đề nổi cộm tại các địa
phương, đơn vị có hiệu quả. Vì vậy, thời gian qua, đã hạn chế được đơn thư
khiếu nại, tố cáo và phản ảnh đối với tổ chức đảng và đảng viên trong tỉnh.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ thành phố đã từng bước góp
phần phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Việc kiểm tra, giám sát của Đảng bộ thành phố Ninh Bình đã có tác dụng
ngăn chặn hành vi vi phạm do tham nhũng, tiêu cực, gây thất thoát, lãng phí, kịp
thời xem xét, xử lý, kiến nghị, thu hồi số tiền, tài sản do sai phạm nộp vào ngân
sách Nhà nước, đã góp phần đấu tranh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, tăng
cường kỷ cương, kỷ luật, tạo sự đoàn kết thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng bộ, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ thành phố đã giúp các tổ chức
đảng ở địa phương, đơn vị rút ra những bài học thực tiễn để đổi mới phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và giáo dục đảng viên.
Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện được những thiếu sót, sơ hở trong lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện, kịp thời điều chỉnh, bổ sung, đổi mới
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng để thực hiện tốt hơn, xây dựng Đảng
bộ trong sạch vững mạnh; phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Bảo đảm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước tổ chức thực hiện nghiêm túc, đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Nguyên nhân của ưu điểm:
Thứ nhất, Trung ương đã kịp thời ban hành các quy chế, hướng dẫn cụ thể
và triển khai quán triệt nhiệm vụ kiểm tra giám sát trong toàn Đảng. Được sự quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thường xuyên của UBKT Trung ương và Tỉnh
ủy về công tác kiểm tra giám sát, cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên đã nhận thức
đầy đủ được vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, nên từ sau Đại hội XI


22
của Đảng đến nay. Việc triển khai và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát và kỷ luật Đảng được tiến hành một cách nghiêm túc.
Thứ hai, Đảng bộ thành phố đã có bước chuyển biến tích cực về nhận thức,
đã chủ động tham mưu cho cấp ủy trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm

vụ kiểm tra giám sát; đưa công tác kiểm tra, giám sát đi vào nền nếp, có chương
trình, kế hoạch cụ thể, nội dung xác định trọng tâm, trọng điểm và tổ chức thực
hiện nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch do đó chất lượng kiểm tra, giám sát
được nâng lên.
Thứ ba, trong những năm qua, bộ máy tổ chức Đảng bộ thành phố đã được
quan tâm kiện toàn, tăng thêm biên chế và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ kiểm tra,
quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và chế độ chính sách cho cán bộ
kiểm tra (thực hiện chế độ phụ cấp ngành, chế độ phụ cấp thâm niên). Do đó, đã
góp phần động viên đội ngũ cán bộ kiểm tra cấp huyện có sự tích cực, chủ động
và nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao với tinh thần trách nhiệm
cao.
Thứ tư, sự chủ động phối hợp giữa UBKT thành ủy với các ban ngành liên
quan và các cơ quan bảo vệ pháp luật ngày càng chặt chẽ và đồng bộ hơn.
* Về tồn tại, hạn chế:
Hoạt động của UBKT Thành ủy chưa toàn diện. Công tác đi cơ sở, nắm
địa bàn, phát hiện dấu hiệu vi phạm còn hạn chế, việc kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm ở một số đơn vị chưa tập trung vào
những lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm như: quản lý đất đai, tài chính ngân sách, xây
dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, nhất là việc xử lý một số trường hợp vi
phạm chưa kịp thời, kiên quyết, nghiêm minh cả về đảng và chính quyền gây băn
khoăn dị nghị trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng kể cả người đứng đầu cấp ủy chưa nhận thức
và quan tâm đầy đủ đến công tác kiểm tra, giám sát, chưa phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát nên chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát ở tổ chức đảng đó còn
nhiều mặt hạn chế.
Việc thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên mới tập trung vào xem
xét, giải quyết những vụ việc tồn đọng đã xảy ra, phát hiện sai phạm mới nảy
sinh chưa nhiều.



23
Công tác kiểm tra tài chính đảng của một số đơn vị đối với cấp ủy cấp dưới,
nhất là đối với cấp ủy cùng cấp chưa tạo sự chuyển biến tích cực; vẫn còn tư tưởng
ngại va chạm, né tránh ảnh hưởng không nhỏ tới công tác quản lý, sử dụng ngân
sách Đảng theo đúng quy định.
Việc giải quyết đơn thư tố cáo ở một số cấp ủy, UBKT Thành ủy chưa coi
trọng khâu nắm tình hình, chưa tuân thủ đầy đủ quy trình, thủ tục theo quy định
của pháp luật giải quyết khiếu nại tố cáo; do đó dẫn đến việc đơn thư tái tố, tái
khiếu và vượt cấp còn nhiều. Thực hiện thẩm tra, xác minh cá biệt có vụ việc
không khách quan, không chính xác dẫn đến phải thay đổi kết luận kiểm tra.
Nội dung kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, UBKT Thành ủy chưa toàn
diện, chất lượng, hiệu quả còn hạn chế.
Việc thực hiện quy chế phối hợp giữa UBKT Thành ủy với các tổ chức
đảng có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng còn chưa
thường xuyên, chất lượng còn hạn chế. Một số tổ chức đảng và cấp ủy viên chưa
nêu cao vai trò, trách nhiệm trong thực hiện các nội dung của quy chế phối hợp;
chưa chủ động chỉ đạo việc phối hợp, tổ chức họp rút kinh nghiệm; việc phối
hợp có lúc, có việc còn chậm và chưa cụ thể; có nội dung trong quy chế phối hợp
chưa phù hợp với thực tế; khi có thay đổi các quy định của Trung ương chưa
được kịp thời sửa đổi, bổ sung.
Việc phối hợp giữa UBKT Thành ủy với các cơ quan liên quan để tham
mưu, giúp cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy triển khai thực hiện Kết luận số 72KL/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát đến năm
2020; Kết luận số 312-TB/TW của Ban Bí thư về luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển
cán bộ lãnh đạo UBKT Thành ủy sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo,
bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra còn hạn chế.
Nguyên nhân của khuyết điểm:
+ Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy kể cả người đứng đầu cấp ủy và

ngay cả bản thân UBKT Thành ủy về công tác kiểm tra, giám sát còn hạn chế;
chưa đề cao ý thức trách nhiệm, còn ngần ngại, thiếu quyết tâm chủ động phối
hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát nên chất lượng, hiệu quả công tác
chưa cao.


24
Thứ hai, UBKT Thành ủy chưa phát huy tinh thần chủ động trong việc
tham mưu cho cấp ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra giám sát,
chưa mạnh dạn triển khai thực hiện nhiệm vụ, còn có tư tưởng thụ động, trông
chờ hướng dẫn nghiệp vụ của cấp trên.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát chuyên trách thiếu về số lượng,
một số yếu về chất lượng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Trình độ chuyên môn, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn của một bộ phận cán bộ
làm công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều bất cập so với yêu cầu hiện nay, tinh
thần trách nhiệm và tính chiến đấu chưa cao. Công tác bồi dưỡng cán bộ kiểm tra
còn nhiều hạn chế.
+ Nguyên nhân khách quan:
- Nhiều văn bản liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát chậm được ban
hành. Một số quy định, hướng dẫn thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật của Đảng chưa cụ thể, chưa đồng bộ, chưa sát thực tiễn, nên việc vận dụng
thực hiện còn khó khăn, vướng mắc nhất là về công tác giám sát. Một số văn bản
chính sách pháp luật của Nhà nước còn bất cập, không phù hợp nhưng chậm
được bổ sung, sửa đổi.
- Về nhận thức: Nhận thức của một số cấp ủy, UBKT Thành ủy nhất là
Đảng ủy, UBKT đảng ủy cơ sở, của đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát và
vị trí, vai trò quan trọng của công tác kiểm tra còn nhiều hạn chế dẫn đến xem
nhẹ, nhầm lẫn giữa nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy với nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát của UBKT. Từ đó dẫn đến có tình trạng khoán trắng công tác kiểm
tra, giám sát cho UBKT hoặc là ỷ lại vào sự chỉ đạo của cấp ủy hoặc cấp trên.

- Về tâm lý: Người đi kiểm tra và người được kiểm tra đều mặc cảm. Cán bộ
kiểm tra có tâm lý ngại va chạm, nể nang, né tránh do tình cảm anh em, họ tộc,
làng xóm…
- Về trách nhiệm của UBKT Thành ủy trong việc chỉ đạo, hướng dẫn về
nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho cấp cơ sở chưa thường xuyên, chưa
sâu sát.
- Về tổ chức cán bộ: Cơ cấu của Đảng bộ thành phố cơ sở hiện nay chưa
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm tra, giám sát. Chất lượng đội ngũ cán
bộ làm công tác kiểm tra, giám sát ở cơ sở còn yếu, trình độ chuyên môn, nghiệp


25
vụ về công tác kiểm tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu; trách nhiệm trong
công tác còn thấp; chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra, giám sát.
- Về kinh phí cho các cuộc kiểm tra, giám sát còn rất hạn chế, quy định
chưa thống nhất và rõ ràng; trang bị về nghiệp vụ có thể nói là còn hạn chế.
3.3. Nội dung cụ thể cần thực hiện
Từ những phân tích, đánh giá thực trạng về kết quả thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát của đảng bộ thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ
2010 – 2015, có thể nhận thấy những vấn đề có liên quan đến nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của UBKT Thành ủy và UBKT đảng ủy cơ sở
cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản dưới đây:
3.3.1. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt để nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT Thành ủy, cán bộ, đảng
viên và nhân dân về công tác kiểm tra giám sát
Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nêu rõ: “Tạo
sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, nhận thức và hành động trong Đảng đối với
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng...”, “Đẩy mạnh tuyên truyền
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng cả về lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm

trên các phương tiên thông tin đại chúng, trước hết là trên các báo, tạp chí của
Đảng, đài phát thanh, truyền hình ở Trung ương và địa phương”.
Để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra giám sát có chất lượng, hiệu quả cần phải
tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng theo
Thông báo Kết luận số 226-TB/TW ngày 03/3/2009 của Ban Bí thư về việc tăng
cường tuyên truyền phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thực hiện
nghiêm túc Thông báo số 68-TB/TW ngày 30/12/2011 của Bộ Chính trị sơ kết
trên 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa X) về tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng. Các cấp ủy Đảng cần quan tâm hơn nữa đến công
tác kiểm tra, giám sát, nêu cao tính dân chủ trong Đảng, không tạo ra “vùng
cấm” trong xử lý kỷ luật đảng, góp phần chủ động phòng ngừa, răn đe những lỗi
vi phạm của cán bộ, đảng viên.
Phải làm chuyển biến sâu sắc trong toàn Đảng bộ, trước hết là trong cấp
ủy, lãnh đạo các cấp về tính nghiêm trọng và nguy cơ của tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tư tưởng quan liêu, tham nhũng, lãng phí


×