Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN nâng cao chất lượng GD âm nhạc cho trẻ 24 36 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.14 KB, 31 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Nâng cao chất lượng dạy hát cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển kỹ năng, tình cảm xã hội
và thẩm mỹ. Sáng kiến được áp dụng cho trẻ độ tuổi 24 - 36 tháng trong các
trường mầm non.
3. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Hương Mến

Giới tính: Nữ.

Ngày, tháng, năm sinh: 22/09/1982.
Trình độ chuyên môn: Đại học.
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường mầm non Nhiệt Điện Phả Lại
Điện thoại: 0168 529 5879.
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường mầm non Nhiệt Điện Phả Lại
Địa chỉ: Phường Phả Lại - Thị xã Chí Linh - Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203.881.390
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
Lớp 24 - 36 tháng A - Trường mầm non Nhiệt Điện Phả Lại.
Địa chỉ: Phường Phả Lại - Thị xã Chí Linh - Tỉnh Hải Dương.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Trẻ mầm non ở độ tuổi 24 - 36 tháng.
- Giáo viên ngoài trình độ đạt chuẩn về chuyên môn cần có kiến thức về âm
nhạc, về ứng dụng công nghệ thông tin.
- Sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ của phụ huynh học sinh với giáo viên.
- Đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị cho cô và trẻ: Đàn, xắc xô, thanh gõ, máy vi
tính…
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 9/2014 đến 12/ 2014.
HỌ TÊN TÁC GIẢ
(Ký tên)


XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Phạm Hương Mến
1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Xuất phát từ yêu cầu thực tế cần có những biện pháp dạy trẻ linh hoạt,
sáng tạo để góp phần vào đổi mới cơ bản, toàn diện nền giáo dục. Muốn vậy,
những người làm công tác giáo dục cần đưa ra những sáng kiến mới, phương
pháp mới để dạy trẻ góp phần tạo điều kiện thuận lợi để đưa giáo dục mầm non
bắt kịp đà phát triển của các bậc học khác.
Đặc biệt, trong chương trình giáo dục mầm non, giáo dục âm nhạc đóng
một vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển toàn diện trẻ. Nhất là hoạt động ca
hát. Ca hát được coi là một hoạt động hết sức gần gũi đối với trẻ, nó có vai trò
hết sức quan trọng. Nó không những giúp trẻ hình thành và phát triển về kỹ
năng, tình cảm xã hội và thẩm mỹ mà còn góp phần phát triển trẻ cả về thể
chất, nhận thức, phát triển ngôn ngữ.
Nhưng trên thực tế, ở hoạt động này giáo viên chưa thực sự đầu tư, rèn
luyện kỹ năng hát, phương pháp dạy trẻ chưa linh hoạt, sáng tạo dẫn đến hiệu
quả trên trẻ chưa cao. Khi tổ chức hoạt động ở độ tuổi trẻ 24 - 36 tháng, một số
trẻ chưa thực sự hứng thú tham gia hoạt động ca hát, trẻ hát còn sai, còn ngọng
nhiều.
- Nhận thức của phụ huynh chưa đồng đều, đã có sự phối hợp giữa gia
đình và nhà trường nhưng hiệu quả chưa cao.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Ban giám hiệu nhà trường kết hợp với tổ chuyên môn phổ biến sáng
kiến trong toàn trường và đặc biệt là ở độ tuổi nhà trẻ 24 - 36 tháng.

- Giáo viên dạy trẻ ngoài việc có trình độ chuyên môn đạt chuẩn cần có
kiến thức hiểu biết về công nghệ thông tin, đặc biệt là một số phần mềm trong
giáo dục.
- Sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ của phụ huynh học sinh với giáo viên.
- Trang thiết bị phục vụ dạy học, các dụng cụ âm nhạc phải tương đối
đầy đủ, đặc biệt là có đàn, tivi, băng đĩa hình, máy tính nối mạng Internet…
- Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 9/2014 đến 12/ 2014.
2


- Trẻ mầm non ở độ tuổi 24 - 36 tháng.
3. Nội dung sáng kiến:
+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Giáo dục âm nhạc đặc biệt là dạy hát từ lâu đã được nói đến trong giáo
dục mầm non. Tuy nhiên, nội dung cụ thể của nó không chỉ đơn thần là việc
dạy “truyền khẩu”, “thuộc lòng” cho đến khi trẻ thuộc bài hát theo kiểu dân
gian thường dạy trẻ…Những giải pháp đưa ra trong đề tài này nhằm giúp giáo
viên nắm được cách dạy trẻ hát, sửa sai, sửa ngọng cho trẻ mà còn có những
thủ thuật sáng tạo từ cách vào bài, thu hút được sự chú ý của trẻ.
Đặc biệt, một trong những biện pháp quan trọng nhất mà sáng kiến đưa
ra mang tính mới cao đó là cách dạy trẻ hát một cách hiệu quả nhất như: Trong
quá trình dạy hát, giáo viên cần chú ý sát sao để nắm rõ khả năng ca hát của
từng trẻ. Từ đó, chia nhóm để dạy trẻ. Trong trường hợp trẻ hát sai, hát ngọng
cô chú ý tập trung rèn trẻ hát rõ lời hơn, sửa sai, sửa ngọng cho trẻ còn những
trẻ đã thuộc lời giáo viên cần nâng cao yêu cầu hơn đối với trẻ.
Ngoài ra, sáng kiến còn đưa ra tính mới về cách thức để phối hợp tích
cực giữa gia đình và nhà trường góp phần dạy trẻ hát mang lại hiệu quả cao.
Trong tất cả các phương pháp đó, giáo viên luôn lấy trẻ làm trung tâm,
giúp trẻ lĩnh hội kiến thức âm nhạc cũng như phát huy tính tích cực của trẻ một
cách tốt nhất.

+ Khả năng áp dụng sáng kiến:
Qua việc áp dụng sáng kiến vào thực tế dạy trẻ tôi thấy đã có những kết
quả nhất định, có tính khả thi cao, phù hợp với thực tế dạy trẻ, phù hợp với đối
tượng trẻ mầm non nhất là trẻ ở độ tuổi nhà trẻ 24 - 36 tháng.
+ Lợi ích thiết thực của sáng kiến:
Sáng kiến giúp cho giáo viên chú trọng hơn về rèn kĩ năng hát cho bản
thân, ngày càng sáng tạo ra nhiều cách gây hứng thú cho trẻ vào tiết hoạt động
âm nhạc. Đồng thời, biết cách dạy trẻ hát, biết cách lựa chọn, lồng ghép tích
hợp âm nhạc vào các hoạt động và các môn học khác phù hợp, ứng dụng các
biện pháp để sửa sai, sửa ngọng cho trẻ đúng phương pháp, phối hợp tốt với
phụ huynh…mang lại hiệu quả thiết thực trong việc dạy hát cho trẻ.
3


4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Trong phạm vi đề tài này, từ những kết quả thực tế áp dụng tại nơi tôi
công tác và được ban giám hiệu cùng đồng nghiệp ghi nhận, với kết quả đạt
được thực tế trên trẻ tôi nhận thấy những sáng kiến của mình là đúng đắn, đảm
bảo tính khoa học, đáp ứng được đúng nhu cầu của thực tiễn.
5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng, mở rộng sáng kiến:
- Đề nghị các cấp, phụ huynh học sinh tăng cường ủng hộ, đầu tư, làm
mới trang thiết bị đồ dùng, phương tiện dạy học.
- Mở nhiều lớp chuyên đề, tập huấn hơn nữa về âm nhạc để tạo điều kiện
cho giáo viên giao lưu học hỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
Tạo điều kiện phổ biến, nhân rộng những sáng kiến để ứng dụng vào
thực tế giảng dạy.

4



MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
1.1 Lý do về mặt lý luận:
Từ xưa đến nay, giáo dục luôn được coi là quốc sách hàng đầu, đặc biệt
là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn “đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo
dục”. Trong đó, giáo dục mầm non cần có những sáng kiến đổi mới để bắt kịp
đà phát triển của các bậc học khác, đồng thời giúp trẻ phát triển toàn diện về
Đức - Trí - Thể - Mỹ.
Để đáp ứng được các yêu cầu trên, ngoài sự phát triển của trẻ về ngôn
ngữ, nhận thức, thể chất thì giáo dục kỹ năng, tình cảm xã hội và thẩm mỹ đặc
biệt là giáo dục âm nhạc đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, là món ăn tinh thần không
thể thiếu được đối với đời sống con người. Âm nhạc tác động vào con người
ngay từ khi còn là một đứa trẻ nằm trong bụng mẹ cho đến cuối cuộc đời.
Bởi thế, đối với trẻ, âm nhạc là một thế giới diệu kì đầy cảm xúc với
những ngôn ngữ riêng đó là giai điệu, âm sắc, cường độ, hòa âm, tiết tấu…Cho
trẻ tiếp xúc với các tác phẩm âm nhạc cũng như mang đến cho trẻ những giai
điệu mượt mà vui tươi, trong trẻo giống như dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng
tâm hồn trẻ thơ. Qua đó giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người.
Trong chương trình giáo dục mầm non, giáo dục âm nhạc được coi là
một hoạt động hết sức gần gũi đối với trẻ, là một trong những hoạt động được
trẻ yêu thích nhất. Đặc biệt, ở lứa tuổi mầm non nói chung và trẻ 24 - 36 tháng
nói riêng âm nhạc không chỉ mang đến niềm vui cho trẻ mà nó còn tạo ra sự
hứng khởi cho trẻ trong các hoạt động khác.
1.2. Lý do về mặt thực tiễn:
Thực tế cho thấy, ở trường mầm non âm nhạc được thực hiện một cách
thường xuyên và được lồng ghép trong tất cả mọi hoạt động như: được dùng để
ổn định lớp, vào bài, chuyển tiếp các phần trong giờ học hoặc chuyển từ hoạt
động này sang hoạt động khác để tạo hứng thú, thư giãn, gây sự chú ý cho trẻ.


5


Tuy nhiên, lòng yêu thích âm nhạc của trẻ lại ở nhiều mức độ khác nhau,
có cháu rất mê say nhưng số ít cháu lại rất thờ ơ khi tiếng nhạc vang lên. Tôi
nhận thấy khi trẻ ca hát đôi lúc cũng có phần không chính xác về giai điệu hoặc
lời ca thậm chí còn sáng tác ra lời không phù hợp với nội dung. Mặt khác kĩ
năng hát của trẻ còn hạn chế về hơi, giọng, hát còn ngọng…một phần là do cơ
quan phát âm của trẻ chưa thực sự hoàn chỉnh, âm phát ra yếu, hơi ngắn. Sự
phối hợp giữa tai nghe và giọng chưa chủ động vì thế làm giảm đi tính nghệ
thuật khi trẻ thể hiện bài hát.
Hơn nữa, là một giáo viên nhiều năm dạy trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ tôi nhận
thấy ở hoạt động âm nhạc nói chung và dạy hát nói riêng, giáo viên chưa thực
sự dành thời gian, đầu tư cho việc học hỏi và rèn kĩ năng hát cho bản thân, đôi
khi hát còn chênh nhạc. Tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc còn gò bó, chưa
linh hoạt, sáng tạo. Việc tạo hứng thú để dẫn dắt trẻ đến tác phẩm âm nhạc chưa
thực sự hấp dẫn thu hút trẻ…
Nhận thức của phụ huynh chưa đồng đều, đã có sự phối hợp giữa gia
đình và nhà trường nhưng hiệu quả chưa cao.
Từ những lý do trên, tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để giúp trẻ làm quen
với tác phẩm âm nhạc một cách tốt nhất. Vì vậy, tôi đã không ngừng suy nghĩ,
tìm tòi, sáng tạo và áp dụng đề tài “Nâng cao chất lượng dạy hát cho trẻ nhà
trẻ 24 - 36 tháng” vào thực tế dạy trẻ.
1.3. Phạm vi và đối tượng áp dụng:
Sáng kiến được áp dụng cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng trong tất cả các
trường mầm non.
1.4. Mục tiêu nghiên cứu:
Giúp cho giáo viên chú trọng hơn về rèn kĩ năng hát cho bản thân, ngày
càng sáng tạo ra nhiều cách gây hứng thú cho trẻ vào tiết hoạt động âm nhạc.
Đồng thời, biết cách dạy trẻ hát, biết cách lựa chọn, lồng ghép tích hợp âm

nhạc vào các hoạt động và các môn học khác phù hợp, ứng dụng các biện pháp
để sửa sai, sửa ngọng cho trẻ đúng phương pháp, phối hợp tốt với phụ huynh…
mang lại hiệu quả thiết thực trong việc dạy hát cho trẻ.
6


1.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp lấy trẻ làm trung tâm.
- Đọc và nghiên cứu tài liệu, tập san.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chứng.
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, đúc rút kinh nghiệm.
- Ứng dụng công nghệ thông tin.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Âm nhạc được thực hiện ở nhiều nội dung khác nhau: Dạy hát, nghe hát,
nghe nhạc, vận động theo nhạc, trò chơi âm nhạc… tuy nhiên, ở lứa tuổi nhà trẻ
24 - 36 tháng thì hoạt động dạy hát thường được coi là một nội dung trọng tâm
khi dạy âm nhạc cho trẻ.
Đặc biệt, ở lứa tuổi này trẻ thường thích hát. Hát được coi là món ăn tinh
thần, là cơm ăn, nước uống hàng ngày với trẻ vậy. Hát lời bài hát, trẻ dễ nhận ra
vẻ đẹp và biết cảm thụ cái đẹp, thêm yêu cuộc sống, yêu và gần gũi với con
người, với cảnh vật xung quanh. Khi trẻ hát dần dần khái niệm âm nhạc hình
thành trong tâm hồn trẻ, tạo điều kiện phát triển thị hiếu âm nhạc cho trẻ. Đây
là bước đầu giúp trẻ biết cách thể hiện tác phẩm âm nhạc ở mức độ đơn giản.
Những tác phẩm âm nhạc đó không những giúp trẻ thêm yêu trường, yêu lớp,
gần gũi với cô giáo và các bạn mà nó còn giúp cho trẻ tích cực tham gia các
hoạt động khác trong giáo dục mầm non. Điều quan trọng hơn nữa đó là, thông
qua hát, thể hiện lời bài hát sẽ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, tìm hiểu về bài hát
giúp trẻ phát triển hơn về nhận thức…giúp trẻ phát triển toàn diện.

3. Thực trạng của vấn đề:
Nhận thức được tầm quan trọng của việc của việc dạy hát cho trẻ, phát
triển khả năng ca hát từ những bước đi đầu tiên của trẻ, tôi luôn suy nghĩ làm
thế nào để giúp trẻ làm quen với tác phẩm âm nhạc một cách tốt nhất. Vì vậy,
tôi đã không ngừng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo và áp dụng đề tài “Nâng cao
chất lượng dạy hát cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng” vào thực tế dạy trẻ.
7


Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy có những thuận lợi cũng như những khó
khăn như sau:
3.1. Thuận lợi:
- Luôn nhận được sự quan tâm của Phòng giáo dục, của địa phương, đặc
biệt là sự quan tâm của BGH nhà trường và phụ huynh nên điều kiện cơ sở vật
chất ngày càng đầy đủ và phong phú, cụ thể là:
+ Phòng học thoáng rộng, bàn ghế đầy đủ, đúng quy cách.
+ Nhà trường đã trang bị cho mỗi lớp một chiếc đàn oócgan, ti vi, đầu
đĩa.
+ Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động âm nhạc trong các nhóm lớp
đầy đủ.
+ Trẻ khỏe mạnh nhanh nhẹn , có nề nếp..
+ Được các bậc phụ huynh nhiệt tình ủng hộ, đóng góp kinh phí mua
sắm đồ dùng tạo điều kiện cho các cháu học tập.
3.2. Khó khăn:
3.2.1 Đối với giáo viên:
- Giáo viên chưa thực sự dành thời gian, đầu tư cho việc học hỏi và rèn
kĩ năng hát cho bản thân, đôi khi hát còn chênh nhạc.
- Tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc còn gò bó, chưa linh hoạt, sáng
tạo. Việc tạo hứng thú để dẫn dắt trẻ đến tác phẩm âm nhạc chưa thực sự hấp
dẫn thu hút trẻ.

- Lựa chọn nội dung dạy hát chưa phù hợp với chủ đề.
- Chưa chú trọng rèn kĩ năng hát cho trẻ.
- Tích hợp giáo dục âm nhạc ở mọi lúc, mọi nơi còn ít và gò bó, nội dung
tích hợp chưa phù hợp.
3.2.2. Đối với trẻ:
- Một số trẻ chưa thực sự tích cực tham gia vào hoạt động ca hát. Ngoài
ra, do đặc điểm lứa tuổi 24 - 36 tháng, ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ
chỉ hát được những câu ngắn, nhiều trẻ hát ngọng, hát từ đuôi…

8


Chính vì vậy, trẻ hát chưa đúng nhạc, chưa đúng giai điệu bài hát, thậm
chí một số trẻ hát không rõ lời hoặc hát sai lời bài hát. Hoặc trẻ không hòa được
âm khi hát tập thể…
3.2.3.Về phía phụ huynh học sinh:
- Nhận thức của phụ huynh chưa đồng đều: có phụ huynh cho rằng trẻ
biết hát là được không quan tâm đến con hát đúng, có rõ lời hay không…
Thậm chí, có những phụ huynh cho rằng, với lứa tuổi nhà trẻ thì giáo
viên chỉ đảm bảo việc ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân, các con chỉ cần hát theo đĩa là
thuộc không cần phải dạy…
Một số phụ huynh công việc bận rộn, phó mặc cho giáo viên, không chú
ý đến việc con mình có múa, hát được hay không.
3.3. Điều tra thực trạng:
Việc điều tra thực trạng là yếu tố cần thiết nhất để giáo viên thấy được
những mặt cần khắc phục, những khả năng cần phát huy.
Do đó, tôi khảo sát tình hình thực tế ở 2 nhóm trẻ: Nhóm 24 - 36 tháng A
và nhóm 24 - 36 tháng B vào đầu tháng 9/2014 khi chưa áp dụng các biện pháp
mới kết quả cụ thể như sau:
• Kết quả điều tra trên trẻ:

Trẻ hứng
Tên nhóm
được khảo sát
Nhóm 24 - 36 tháng B
Nhóm 24 - 36 tháng A

Số trẻ

25
25

thú tham
gia hoạt
động
12/25
10/25

Trẻ chưa
Tỷ lệ

48%
40%

hứng thú

Tỷ lệ

tham gia hoạt
động
13/25

15/25

52%
60%

Từ kết quả trên, tôi thấy một số trẻ chưa thực sự hứng thú, say mê với hoạt
động học hát. Trẻ thường tập trung chú ý khi xem ca nhạc trên băng đĩa nhạc
còn khi vào tiết hoạt động thì trẻ lại kém tập trung. Cũng có bài hát cô hát hôm
trước trẻ còn chú ý lắng nghe, nhưng hôm sau nghe cô hát lại hoặc yêu cầu trẻ
hát thì trẻ lại không tập trung chú ý nữa…

9


Đáng quan tâm hơn là vấn đề trẻ hát sai, hát ngọng. Mặc dù vẫn biết, vấn
đề này là do phần lớn khả năng phát âm của trẻ chưa hoàn thiện nhưng cũng
một phần là do giáo viên sửa sai, sửa ngọng cho trẻ chưa đúng cách. Cụ thể là:
Trẻ hát rõ
Tên nhóm
được khảo sát

Số trẻ

lời, đúng
giai điệu

Nhóm 24 - 36 tháng B

25


bài hát
10/25

Nhóm 24 - 36 tháng A

25

11/25

Trẻ hát chưa
Tỷ lệ chuẩn, sai lời,

Tỷ lệ

ngọng.
40%

15/ 25

60%

44%

14/25

56%

Từ thực tế trên, tôi nghĩ rằng mình phải làm gì để trẻ chú ý tham gia hoạt
động học hát ngày một tích cực hơn? Phải làm sao để nâng cao kỹ năng hát cho
trẻ, để trẻ hát chuẩn, hát rõ lời, kích thích được sự mạnh dạn, tự tin khi lên hát?

Chính vì những lý do đó, tôi đã luôn suy nghĩ và mạnh dạn áp dụng một
số biện pháp mới vào nhóm 24 - 36 tháng A trực tiếp do mình phụ trách nhằm
nâng cao chất lượng dạy hát cho trẻ.
4. Biện pháp thực hiện:
4.1. Chuẩn bị tốt mọi điều kiện để tổ chức dạy trẻ hát:
Để hoạt động dạy trẻ đạt kết quả cao là phải nhờ vào việc chuẩn bị tốt
của giáo viên trước khi vào tiết dạy. Từ việc lựa chọn nội dung bài hát, chuẩn bị
giáo án, đồ dùng dạy học đến việc giáo viên cần hát đúng, hát chuẩn… Cụ thể
là:
4.1.1. Chuẩn bị nội dung bài hát phù hợp với lứa tuổi:
Do trẻ 24 - 36 tháng là độ tuổi nhỏ, có khả năng tập trung chưa cao nên
khi lựa chọn những bài hát để dạy trẻ hát cần có nội dung ngắn gọn, súc tích,
cách ngắt hơi theo nhịp thường là nhịp 2/4, giai điệu vui tươi, lời dễ nhớ, dễ
thuộc.
Và điều quan trọng hơn đó là bài hát cần có nội dung gần gũi, phù hợp
với chủ đề, với lứa tuổi của trẻ. Do đó, để việc dạy trẻ hát đạt kết quả cao tôi đã
lựa chọn những bài hát để dạy trẻ phù hợp như:

10


Ví dụ: Chủ đề “Trường mầm non thân yêu của bé” Tôi lựa chọn bài hát
vừa vui tươi vừa dí dỏm như “ Nu na nu nống”, “Vui đến trường”,…
+ Chủ đề “Bé và những người thân yêu” tôi lựa chọn các bài “Cháu yêu
bà”, “Lời chào buổi sáng”, “ Mẹ yêu không nào”…
+ Chủ đề “ Những con vật bé yêu” Tôi lựa chọn những bài hát nói về
những con vật ngộ nghĩnh mà trẻ yêu thích “Con gà trống”, “Một con vịt”,
“Con chim non”, “Gà trống, mèo con và cún con”…
Ngoài ra, tôi còn cho trẻ xem một số băng hình có những bài hát trong và
ngoài chương trình có nội dung phù hợp với chủ đề để mở rộng kiến thức âm

nhạc cho trẻ.
4.1.2. Chuẩn bị giáo án:
Sau khi xác định nội dung dạy hát, giáo viên cần chuẩn bị tốt về giáo án
dạy trẻ. Việc soạn giáo án giúp cho giáo viên nắm vững yêu cầu trọng tâm của
bài hát về kiến thức, kỹ năng, thái độ từng bài hát.
Ví dụ: Kiến thức phù hợp với nội dung bài hát, với chủ đề đang thực
hiện, kỹ năng hát cần phù hợp với độ tuổi, tiết sau yêu cầu cao hơn tiết dạy
trước, cuối năm học yêu cầu cao hơn đầu năm học…
Việc soạn giáo án còn giúp cho giáo viên xác định đúng các điều kiện
cần chuẩn bị, câu hỏi đàm thoại, giáo dục… phù hợp với nội dung chương
trình, lứa tuổi…giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài hát. Góp phần dạy trẻ
hát được tốt hơn.
4.1.3. Chuẩn bị phương tiện, đồ dùng dạy học:
Để tổ chức thành công một hoạt động dạy hát cho trẻ thì điều quan trọng
không thể thiếu đó là việc chuẩn bị về đồ dùng, phương tiện nghe nhìn.
+ Về dụng cụ phục vụ tiết dạy hát là vô cùng đa dạng như: Xắc xô, thanh
gõ, trống, đàn…
+ Đồ dùng giúp cho tiết dạy thêm sinh động như: Trang phục, mũ múa…
Ngoài ra, còn có những thiết bị nghe nhìn hỗ trợ tốt trong quá trình dạy
trẻ như: Tivi, đầu đĩa, máy vi tính…

11


Tuy nhiên, trong từng tiết dạy và yêu cầu thực tế của từng loại tiết thì
giáo viên cần lựa chọn đồ dùng cho phù hợp và hiệu quả:
Ví dụ: Khi đa số trẻ đã thuộc bài hát giáo viên có thể cho trẻ hát kết hợp
với đàn, cho trẻ nhún theo nhạc trước khi hát. Hoặc có thể cho trẻ kèm xắc xô,
thanh gõ…dạy trẻ vỗ theo nhịp.
Hoặc trong bài hát “Bé và hoa” tôi cho trẻ đội mũ có gắn bông hoa, mặc

trang phục gắn hoa…
Khi dạy trẻ hát bài “Gà trống, mèo con và cún con” tôi chia 3 tổ, mỗi tổ
được đội mũ gắn hình 1 loại con vật: Tổ gà trống, tổ mèo con, tổ cún con…
4.1.4. Giáo viên hát chuẩn nhạc, đúng giai điệu bài hát:
Để đạt hiệu quả cao khi dạy trẻ giáo viên không chỉ cần lựa chọn những
bài hát phản ánh hiện thực gần gũi đối với trẻ, phù hợp với chủ đề, chuẩn bị đồ
dùng, giáo án… mà bản thân giáo viên cũng cần hát chuẩn nhạc, hát đúng giai
điệu.
Nhưng trên thực tế, không phải giáo viên nào cũng có giọng hát tốt, hát
chuẩn để tiến hành dạy trẻ hát. Trong khi đó, giáo viên lại không tập trung rèn
kỹ năng hát cho bản thân, còn hát theo cảm tính, luyến láy không phù hợp.
Chính vì vậy, trước mỗi chủ đề thực hiện, ngoài việc giáo viên tự học
(học hát qua băng đĩa nhạc, học đồng nghiệp, hát theo đàn…) khi sinh hoạt
chuyên môn tôi cũng đã mạnh dạn trao đổi với tổ chuyên môn về vấn đề này.
Cụ thể hơn: Trước mỗi chủ đề sắp dạy, chúng tôi lại thống nhất những
bài hát nào phù hợp với chủ đề và trao đổi, thống nhất và hát cho đúng với giai
điệu, đúng nhạc, đúng tiết tấu…Đặc biệt, khi sinh hoạt tổ chuyên môn đồng chí
tổ trưởng cử giáo viên có năng khiếu, có kỹ năng về âm nhạc, hát chuẩn nhạc
hướng dẫn cho các giáo viên trong tổ cùng hát và học tập. Sau đó, thống nhất
cách hát cho đúng.
Ngoài sự chuẩn bị các điều kiện cần thiết như trên thì giáo viên cũng cần
chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ. Để làm sao khi bước vào hoạy động thì trẻ cần
được tự nhiên, thoải mái, vui vẻ, thích thú, không gò ép trẻ.
4.2. Dạy trẻ hát:
12


4.2.1. Gây hứng thú cho trẻ:
Để thu hút trẻ vào hoạt động cũng như góp phần cho hoạt động có chủ
đích của giáo viên đạt hiệu quả thì việc gây hứng thú cho trẻ vào bài là việc làm

không kém phần quan trọng.Vì vậy, trước khi vào bài tôi luôn tìm tòi những
cách thức sáng tạo để thu hút trẻ một cách hiệu quả. Cụ thể là:
4.2.1.1. Sử dụng vật thật:
Ví dụ: Bài hát “Bé và hoa” trong chủ đề “ Cây và những bông hoa đẹp” Tôi sử dụng hoa tươi cho trẻ quan sát sau đó tôi dẫn dắt trẻ vào nội dung bài
hát.
+ Bài hát “Chiếc khăn tay” - Tôi tặng cho trẻ hộp quà trong có chiếc
khăn tay có thêu hình con chim đậu trên cành hoa. Tôi cho trẻ quan sát, trò
chuyện về chiếc khăn tay và hướng trẻ đến nội dung bài hát.
4.2.1.2. Sử dụng rối:
Ví dụ: Bài hát “Thỏ con không ngoan” trong chủ đề “Mẹ và những
người thân yêu” tôi sử dụng chú Thỏ con làm bằng rối khối, chú Thỏ vừa đi
vừa khóc.
Và để biết làm sao chú Thỏ lại khóc, cô mời các con nghe bài hát “Thỏ con
không ngoan” nhạc và lời Bùi Anh Tôn.
+ Dạy hát bài “Cá vàng bơi” tôi diễn 1 đoạn rối tay trên sân khấu rối
tâm sự kể về đời sống của 1 chú cá vàng và dẫn dắt trẻ đến nội dung bài hát.
4.2.1.3. Sử dụng công nghệ thông tin:
Ngoài những phương tiện truyền thống để dạy trẻ tôi đã mạnh dạn ứng
dụng công nghệ thông tin.
Đây là biện pháp đạt hiệu quả cao khi cô dạy trẻ. Bởi vì, tâm lý trẻ
thường thích thú khi xem hình ảnh động, xem phim hoạt hình… cho nên, với
việc ứng dụng công nghệ thông tin, đưa các hình ảnh sinh động giúp trẻ rất
hứng thú.
Ví dụ: Bài hát “Gà trống, mèo con và cún con” - Cho trẻ chơi trò chơi
âm nhạc “ô cửa âm nhạc” Cô hoặc trẻ sẽ nhấn chuột mở các “ô cửa”, các

13


“miếng ghép”…có những con vật, cho trẻ nói tên con vật và hỏi trẻ xem bài hát

nào nói về các con vật đó?...
Ví dụ: Bài hát “Cháu yêu bà” - cô kể cho trẻ nghe một đoạn truyện.
Trong truyện bà bị ốm, các con cần làm gì cho bà khỏi ốm? Sau đó, cô cùng
các con sẽ hát tặng bà…
Như vậy, để thu hút, lôi cuốn trẻ thì cách thức gây hứng thú với trẻ từng
tiết dạy âm nhạc đều được thay đổi, kích thích tối đa sự hứng khởi của trẻ.
4.2.2. Hát mẫu:
- Khi dạy trẻ hát có 2 hình thức: giáo viên có thể cho trẻ nghe bài hát trên
băng đĩa nhạc có giai điệu, lời bài hát, nhạc điệu chuẩn. Hoặc giáo viên có thể
hát trực tiếp cho trẻ nghe. Giáo viên cần bằng lời, đúng giai điệu bài hát, sau đó
kết hợp với đàn.
Khi hát, giáo viên cần chú ý đến tư thế hát, tư thế biểu cảm theo từng nội
dung bài hát, cần hát sao cho vừa gần gũi trẻ, vừa thu hút, gây cảm xúc tốt đối
với trẻ.
4.2.3. Rèn kĩ năng ca hát cho trẻ:
Để đảm bảo khả năng ca hát đồng đều giữa các trẻ trong lớp, tôi luôn chú
ý đến từng cá nhân trẻ, phát hiện bồi dưỡng nâng cao khả năng âm nhạc cho
những cháu có năng khiếu âm nhạc tốt. Rèn kĩ năng ca hát, giúp phát triển tai
nghe…cho những cháu còn yếu về âm nhạc.
Muốn giúp trẻ phát triển nhạc cảm và kĩ năng, phải chú ý rèn luyện cho trẻ
tư thế hát, cách lấy hơi, tạo âm, nhả chữ, sự chính xác, đồng đều khi hát tập thể.
4.2.3.1. Tư thế hát:
Trong khi hát trẻ cần đứng hoặc ngồi thẳng để tạo hơi thở tốt, hai tay đặt
tự nhiên lên đùi không nâng vai, khom lưng hay dựa đầu vào thành ghế, toàn cơ
thể không căng cứng mà hoàn toàn tự nhiên, thoải mái…
Rèn cho trẻ hát một cách tình cảm và không gắng sức, âm thanh mềm
mại, nhẹ nhàng. Biết giữ hơi trước lúc bắt đầu hát hoặc giữa các đoạn nhạc. Hát
lời bài hát rõ ràng, hát to dần, nhỏ dần với các tốc độ khác nhau một cách tự tin.
4.2.3.2 Dạy trẻ theo từng nhóm nhỏ:
14



Trên thực tế, trong một lớp có rất nhiều trẻ, mỗi trẻ là một cá thể, có khả
năng khác nhau, có nhận thức khác nhau về mọi mặt. Nếu dạy trẻ một cách
đồng loạt thì hiệu quả sẽ không cao, nhất là khi dạy trẻ học hát.
Vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả cho việc dạy trẻ hát giáo viên cần
chú ý đến cá nhân trẻ, phát huy tính tích cực của trẻ. Trong quá trình dạy trẻ
hát, tôi luôn quan sát, lắng nghe, định hình và chia trẻ theo những nhóm nhỏ để
dạy trẻ, sửa sai cho trẻ theo nhóm.
- Nhóm trẻ đã biết cách thể hiện nội dung bài hát và nhóm chưa thể hiện
nội dung bài hát.
- Nhóm trẻ thuộc lời, hát rõ ràng, đúng giai điệu tôi yêu cầu cao hơn,
cũng có thể cho trẻ hát kết hợp nhún, hát kết hợp dụng cụ âm nhạc… Nhóm
còn ngọng, sai lời tôi chú ý sửa sai, sửa ngọng cho trẻ.
4.2.3.3 Sửa sai cho trẻ:
Với đặc điểm của trẻ, khi tiến hành dạy hát cho trẻ nhất là trẻ ở lứa tuổi
nhà trẻ thường là dạy “truyền khẩu” là trẻ hát theo cô cho đến khi thuộc bài hát.
Do đó không thể tránh khỏi những lỗi sai khi trẻ ca hát. Vì vậy cô giáo chú ý
sửa sai cho trẻ về một số điểm như sau:
+ Sai về tiết tấu, giai điệu:
Ví dụ: Bài hát “Màu hoa” của Hồng Đăng, khi trẻ hát thường ngân rất
ngắn từ “thế” (nhiều hoa xinh thế), trong khi từ “thế” ngân 3 phách. Tôi đã hát
mẫu lại cho trẻ nghe kết hợp đàn vừa đưa tay sang ngang, trẻ vừa nghe vừa
nhìn và sẽ hiểu chữ “ thế” phải hát ngân mà không được ngắt.
+ Sai về lời ca. Ví dụ: bài hát “Đi học về”, câu hát “ em vào nhà em
chào cha mẹ” thì trẻ thường hát thành “Em chào nhà em chào cha mẹ”.
Hoặc là bài “Trường chúng cháu là trường mầm non”, câu hát “Cô là mẹ và các
cháu là con” trẻ lại hát “Cô và mẹ và các cháu và con”…
Trong trường hợp này, tôi đọc đi đọc lại bằng lời cho trẻ nghe 2 - 3 lần,
sau đó hát lại, yêu cầu trẻ hát cùng cô. Sau đó, kết hợp với đàn để trẻ hát theo

cho đúng.
+ Sai về cao độ, trường độ:
15


Ví dụ: Trong bài hát “Cô và mẹ” ngay đầu bài hát có câu “Lúc ở nhà mẹ
cũng là cô giáo”, Từ “lúc” nằm ở vị trí nốt nhạc cao (nốt “ đố”) bên cạnh đó từ
“ở ”, “nhà” thì nốt nhạc thấp hơn hẳn (“mì, sol”). Ta nhận thấy trẻ thường hay
hát ba từ này với cao độ, trường độ gần như đều nhau. Do đó tôi đã cho trẻ
nghe lại các nốt nhạc đó qua đàn để trẻ cảm nhận rõ được cao độ khác nhau của
các nốt nhạc, sau đó hát chậm kết hợp với đàn cho trẻ nghe và hát lại theo cô.
4.2.3.4. Sửa ngọng cho trẻ:
Do đặc điểm cơ quan phát âm của trẻ nhà trẻ chưa thực sự hoàn thiện, trẻ
vẫn đang trong giai đoạn tập nói nên rất nhiều trẻ hát ngọng. Vấn đề sửa ngọng
cho trẻ đòi hỏi người giáo viên phải hết sức kiên trì. Và điều quan trọng là giáo
viên nên chú ý hơn đến cá nhân trẻ, sửa ngọng cho trẻ kịp thời. Khi sửa ngọng
cho trẻ tôi sẽ hát lại cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ hát cùng cô.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy hát, cô giáo chỉ nên sửa sai, sửa ngọng
nếu trẻ hát sai, hát ngọng và cũng chỉ sửa khi trẻ đã nắm khái quát toàn bài hát.
* Giáo án minh họa ( GIÁO ÁN 4.2 trang 25)
4.3. Lồng ghép, tích hợp âm nhạc vào các hoạt động khác:
4.3.1. Trong giờ đón trẻ:
Giờ đón trẻ là lúc tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ đến trường và lôi
cuốn trẻ đến với các hoạt động của trường, lớp…lúc này, âm nhạc góp phần tác
động rất lớn. Tôi đã cho trẻ nghe những ca khúc phù hợp, lôi cuốn trẻ như:
“Bé đi nhà trẻ ”, bài hát “Vui đến trường” - Hồ Bắc, rồi hòa với khung cảnh
thiên nhiên, niềm vui phấn chấn đến trường của trẻ qua bài hát “Con chim hót
trên cành cây”, “Đi nhà trẻ” “Lời chào buổi sáng”…
Qua những bài hát đó không những tạo cho trẻ thích đến trường mà còn
giúp trẻ làm quen, củng cố các bài trong chương trình đã học.

4.3.2. Giờ thể dục sáng:
Để tạo cho giờ thể dục sáng thêm sinh động, tôi đã kết hợp âm nhạc để
trẻ khởi động như bài “Đoàn tàu nhỏ xíu”, “Tập đi đều”…không chỉ thế mà tôi
còn cho trẻ tập các động tác kết hợp với lời bài hát, nhạc đàn phù hợp theo từng
chủ đề đang thực hiện ví dụ như bài hát “Ồ sao bé không lắc”(chủ đề “Bé và
16


các bạn thân yêu”), bài hát “ Em tập thể dục buổi sáng” (chủ đề: “Trường mầm
non thân yêu của bé”)…
4.3.3. Hoạt động ngoài trời, đi dạo đi thăm:
Khi cho trẻ hoạt động ngoài trời hay đi dạo, tôi đã kích thích sự sáng tạo
và trí tò mò của trẻ, gây hứng thú cho trẻ bằng những bài hát phù hợp với từng
hoạt động cho giờ học sinh động hơn.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát “thời tiết” tôi cho các cháu cùng hát bài
“Khúc dạo đi chơi” - Trần Hữu Du. Khi cho trẻ đi thăm quan vườn hoa, tôi cho
trẻ cùng hát bài “Màu hoa” để tạo không khí hứng thú cho trẻ.
4.3.4. Trong hoạt động làm quen với văn học:
Trong giờ làm quen văn qua bài thơ, câu chuyện giúp trẻ thêm yêu quê
hương đất nước…sau khi học xong bài thơ tôi kết hợp cho trẻ nghe hát.
Ví dụ: Sau khi dạy trẻ học bài thơ “Tìm ổ” Tôi kết hợp cho trẻ nghe bài
hát “tìm ổ” mà đã được phổ thành nhạc và cùng trẻ hát theo đàn bài hát đó.
Hoặc sau khi dạy trẻ học bài thơ “Cây bắp cải” tôi kết hợp cho trẻ nghe
bài hát “bắp cải xanh”,…
Lồng ghép giáo dục âm nhạc vào làm quen văn học như vậy là để chuyển
tiếp phần làm cho các tiết thơ, truyện thêm sinh động, hấp dẫn. Đồng thời qua
bài hát giúp trẻ dễ dàng cảm thụ và khắc sâu hơn nội dung bài thơ, câu chuyện.
4.3.5. Trong hoạt động dạy trẻ nhận biết:
Hoạt động nhận biết giúp trẻ trau dồi kinh nghiệm thêm hiểu biết về cuộc
sống xung quanh trẻ…Tôi đã sử dụng âm nhạc vào giờ học để trẻ hứng thú

hơn, tạo cho trẻ có xúc cảm với các đối tượng.
Ví dụ: Khi “Bé tìm hiểu về hoa cúc, hoa hồng” với mục đích gây hứng
thú cho trẻ, để giờ học thêm sinh động tôi cho trẻ hát bài “Bé và hoa”, “Bé tìm
hiểu về hoa đào, hoa mai” tôi cho trẻ hát bài “Sắp đến Tết rồi”,…
4.3.6. Trong hoạt động xâu vòng, vẽ, nặn, xếp hình:
Sự tham gia của âm nhạc trong các hoạt động đã kích thích sự sáng tạo,
gợi mở, phát triển trí tưởng tượng khi tham gia các hoạt động.

17


Khi trẻ đang trong quá trình thực hiện, tôi thường kết hợp cho trẻ nghe
nhạc không lời có giai điệu nhẹ nhàng, êm đềm, những bài hát phù hợp với chủ
đề, với âm thanh vừa nhỏ, dễ nghe.
Hết giờ tôi mở nhạc bài “Hết giờ chơi” trẻ vừa hát theo lời bài hát vừa
thu dọn đồ chơi. Tạo ý thức, thói quen tự giác cho trẻ sau khi chơi.
4.3.7. Giờ ăn, giờ ngủ:
Kết hợp giáo dục âm nhạc trong giờ ăn, ngủ cũng có tác động rất lớn đối
với trẻ.
Ví dụ: Trước khi đi ngủ là thời điểm thích hợp cho trẻ nghe hát. Tôi hát
cho trẻ nghe những bài có tính chất nhắc nhở như “Đi ngủ”- Hoàng Văn Yến,
“Chúc bé ngủ ngon” hay những bài hát ru “Ru con” - Nguyễn Văn Tý, những
bài hát dân ca các miền như “Ru con” (Đồng bằng Nam Bộ), “Ru em” (Dân ca
Xê Đăng). tạo cho trẻ tâm lý sảng khoái đưa trẻ vào giấc ngủ đầm ấm, dễ chịu.
Như vậy, ở trường mầm non từ lúc đến trường cho đến khi bố mẹ đón về,
âm nhạc luôn xuất hiện bên trẻ tạo không khí tươi mát, thoải mái làm cho trẻ
thêm linh hoạt vui tươi. Do đó âm nhạc thực sự là người bạn thân thiết của trẻ
thơ.
4.4. Phối hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh :
Như chúng ta đã biết, môi trường tiếp xúc của trẻ mầm non chủ yếu là

gia đình và nhà trường. Vì vậy, việc phối kết hợp giữa gia đình với nhà trường
là một trong những việc làm vô cùng cần thiết. Để cho trẻ có thể tiếp xúc với
các tác phẩm âm nhạc ở mọi lúc, mọi nơi, tôi đã tuyên truyền cho phụ huynh
thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục âm nhạc và rèn kỹ năng hát cho
trẻ.
Tôi đã xây dựng bảng “Thông tin giữa giáo viên và gia đình”, mỗi tuần
hoặc 2 tuần tôi in một bài hát kèm theo nhạc và lời mà trẻ học trên lớp để khi
đón và trả trẻ phụ huynh có thể đọc qua, để biết con mình tuần này học bài hát
gì?
Sau đó, tôi nhờ phụ huynh về nhà thường xuyên hỏi xem ở lớp con hát
bài gì và đề nghị phụ huynh tự ghi âm giọng hát của trẻ vào đĩa, tự chụp hình
18


ảnh, quay video về trẻ… để tôi có thể sử dụng gây hứng thú vào bài, trò chuyện
với trẻ đồng thời cũng để hiểu sâu hơn về khả năng của từng trẻ.
Ngoài ra, tôi còn nhờ đồng nghiệp quay video những tiết dạy trên lớp,
hoặc video về cá nhân trẻ hát để gửi vào trang cá nhân của từng phụ huynh.
Điều này làm cho phụ huynh rất phấn khởi, vừa để phụ huynh nắm bắt được
khả năng của con em mình trên lớp vừa phối hợp được với giáo viên để chăm
sóc trẻ tốt nhất.
Cũng từ góc “Thông tin giữa cô và gia đình”, tôi tìm tòi trong tài liệu, tập
san, mạng Internet có một số nội dung về “Biện pháp rèn kỹ năng ca hát cho
trẻ”, hoặc “Biện pháp để sửa sai, sửa ngọng cho trẻ 2 - 3 tuổi khi hát”... tôi in
ra giấy và để vào bảng thông tin để phụ huynh hàng ngày đọc và có thể tự rèn
cho con em mình.
Trong giờ đón - trả trẻ, tôi thường trao đổi với phụ huynh về chủ đề đang
học, kết hợp vận động phụ huynh sưu tầm băng đĩa nhạc hay những bài hát có
nội dung phù hợp ở ngoài chương trình để có thể cùng con em mình thể hiện
bài hát. Từ đó, làm phong phú vốn hiểu biết của trẻ về âm nhạc, giúp trẻ mạnh

dạn tự nhiên khi biểu diễn ca khúc trẻ yêu thích.
5. Kết quả đạt được:
Qua nghiên cứu và đưa vào áp dụng một số kinh nghiệm về “Nâng cao
chất lượng dạy hát cho trẻ 24 - 36 tháng” tôi đã thu được kết quả sau:
5.1. Đối với giáo viên:
- Bản thân tôi đã thực sự chú trọng, dành nhiều thời gian, đầu tư cho
việc học hỏi và rèn kĩ năng hát cho bản thân, tôi không còn hát chênh nhạc,
ngày càng sáng tạo ra nhiều cách gây hứng thú cho trẻ vào tiết hoạt động âm
nhạc.
- Đồng thời, tôi đã biết cách lựa chọn, lồng ghép tích hợp âm nhạc vào
các hoạt động và các môn học khác phù hợp và mang lại hiệu quả cao hơn.
Đặc biệt, tôi đã biết ứng dụng các biện pháp để sửa sai, sửa ngọng cho
trẻ đúng phương pháp, đúng cách thức để khả năng ca hát của trẻ được phát
triển một cách tốt nhất.
19


- Kết quả các tiết dạy trên lớp, hội thi giáo viên giỏi cấp trường tôi đạt
giáo viên dạy giỏi về tiết dạy giáo dục âm nhạc.
5.2. Về phía phụ huynh học sinh:
- Các bậc phụ huynh ngày càng có nhận thức đúng đắn hơn về ngành học
mầm non nhất là có cái nhìn toàn diện hơn về giáo dục trẻ ở độ tuổi nhà trẻ.
Đặc biệt, phụ huynh đã có hiểu biết hơn về kiến thức giáo dục âm nhạc
phù hợp với lứa tuổi nên đã kết hợp với giáo viên thực hiện tốt việc dạy kĩ năng
ca hát và hát cho trẻ nghe khi ở nhà.
- Thường xuyên quan tâm đến các hội thi của trường, lớp.
- Hỗ trợ kinh phí và kết hợp cùng nhà trường, giáo viên mua sắm trang
thiết bị đồ dùng dạy học.
5.3. Chất lượng của trẻ:
Sau 4 tháng (Từ tháng 9/2014 đến hết tháng 12 năm 2014) áp dụng các

biện pháp mới của đề tài này vào nhóm 24 - 36 tháng A do tôi trực tiếp giảng
dạy tôi thấy chất lượng trên trẻ nâng lên rõ rệt, được đồng nghiệp và BGH ghi
nhận. Kết quả cụ thể như sau:
5.3.1. So sánh đối chứng:
* Trẻ hứng thú tham gia hoạt động
- Khi chưa áp dụng sáng kiến:
Trẻ hứng
Tên nhóm
được khảo sát

Số trẻ

thú tham
gia hoạt

Trẻ chưa
Tỷ lệ

động

hứng thú

Tỷ lệ

tham gia hoạt
động

Nhóm 24 - 36 tháng B

25


12/25

48%

13/25

52%

Nhóm 24 - 36 tháng A

5

10/25

40%

15/25

60%

- Khi đã áp dụng sáng kiến:
Trẻ hứng
20

Trẻ chưa


Tên nhóm
được khảo sát


Số trẻ

thú tham

hứng thú

gia hoạt

Tỷ lệ tham gia hoạt Tỷ lệ

động

động

Nhóm không áp
dụng sáng kiến

25

15/25

60%

10/25

25

25/25


100%

0

40%

(24 - 36 tháng B)
Nhóm áp dụng sáng
kiến

(24 - 36 tháng A)
* Trẻ hát chuẩn nhạc, chuẩn lời
- Khi chưa áp dụng sáng kiến:
Trẻ hát rõ
Tên nhóm
được khảo sát

Số trẻ

lời, đúng
giai điệu

Trẻ hát chưa
Tỷ lệ chuẩn, sai lời,

Tỷ lệ

ngọng.

bài hát

Nhóm không áp dụng
sáng kiến

25

10/25

40%

15/ 25

60%

25

11/25

44%

14/25

56%

(24 - 36 tháng B)
Nhóm áp dụng sáng
kiến

(24 - 36 tháng A)
- Khi đã áp dụng sáng kiến:
Trẻ hát rõ

Tên nhóm
được khảo sát

Số trẻ

lời, đúng
giai điệu

Trẻ hát chưa
Tỷ lệ chuẩn, sai lời,

Tỷ lệ

ngọng.

bài hát
Nhóm không áp dụng
sáng kiến

25

15/25

60%

10/ 25

25

25/25


100%

0

(24 - 36 tháng B)
Nhóm áp dụng sáng
kiến
(24 - 36 tháng A)
21

40%


Nhìn vào bảng so sánh đối chứng trên ta thấy, số trẻ trong lớp 24 - 36
tháng tuổi A khi đã áp dụng những biện pháp của sáng kiến kết quả trên trẻ
được nâng lên rõ rệt.
- Số trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động tăng 60% so với khi chưa áp
dụng sáng kiến.
- Số trẻ hát rõ lời, đúng giai điệu tăng 56%.
Lớp không áp dụng sáng kiến kết quả trên trẻ đạt không đáng kể.
Điều đó có thể khẳng định rằng: Việc tìm tòi các biện pháp sáng tạo để
thực hiện dạy trẻ hát sẽ đem lại nhiều lợi ích. Đặc biệt, giúp trẻ phát triển về
ngôn ngữ, tình cảm thẩm mỹ và góp phần tích cực giúp trẻ phát triển toàn
diện.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
Qua sáng kiến nêu trên và qua thực tế ứng dụng tôi nhận thấy, để sáng
kiến “Nâng cao chất lượng dạy hát cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng” được nhân
rộng cần có các điều kiện sau:
- Trẻ mầm non ở độ tuổi 24 - 36 tháng.

- Ban giám hiệu nhà trường kết hợp với tổ chuyên môn phổ biến sáng
kiến trong toàn trường và đặc biệt là lứa tuổi 24 - 36 tháng.
- Giáo viên dạy trẻ ngoài việc có trình độ chuyên môn đạt chuẩn cần có
kiến thức hiểu biết về công nghệ thông tin đặc biệt là một số phần mềm trong
giáo dục.
- Sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ của phụ huynh học sinh với giáo viên.
- Trang thiết bị phục vụ dạy học, các dụng cụ âm nhạc phải tương đối
đầy đủ, đặc biệt là có đàn, tivi, băng đĩa hình, máy tính nối mạng Internet…
- Trang thiết bị phục vụ dạy học, các dụng cụ âm nhạc phải tương đối
đầy đủ, đặc biệt là có đàn, tivi, băng đĩa hình…
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Với xu thế đổi mới chung của đất nước, cùng sự tăng trưởng kinh tế
mạnh mẽ, cần phải xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển hài hoà
22


về mọi mặt đức, trí, thể, mỹ. Đây cũng là mục tiêu của giáo dục nói chung và
giáo dục mầm non nói riêng. Để đáp ứng được các yêu cầu đó, trước hết những
cô giáo mầm non cần không ngừng học hỏi nâng cao trình độ về mọi mặt. Bên
cạnh sự phát triển của trẻ về ngôn ngữ, nhận thức, thể chất thì giáo dục kỹ
năng, tình cảm xã hội và thẩm mỹ đặc biệt là giáo dục âm nhạc đóng một vai
trò hết sức quan trọng.
Vì âm nhạc là nghệ thuật âm thanh, nghệ thuật động luôn đòi hỏi hoạt
động trực tiếp và sáng tạo của giáo viên. Âm nhạc giúp trẻ hình thành phát triển
tình cảm thẩm mĩ, tình cảm đạo đức lành mạnh, lòng nhân ái cho trẻ. Đặc biệt
là trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ khi tổ chức hoạt động giáo dục âm nhạc cho trẻ cô giáo
cần quan tâm chú trọng tới việc cho trẻ hoạt động âm nhạc ở mọi lúc, mọi nơi
trong các hoạt động hàng ngày, chú ý sửa sai, sửa ngọng cho trẻ. Đồng thời
phối kết hợp tốt với các bậc phụ huynh để nuôi dạy trẻ được tốt hơn.

Trong phạm vi đề tài này, từ những kết quả thực tế áp dụng tại nơi tôi
công tác và được ban giám hiệu cùng đồng nghiệp ghi nhận, với kết quả đạt
được trên trẻ tôi nhận thấy những sáng kiến của mình là đúng đắn, đảm bảo
tính khoa học, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn.
Mặc dù vậy, trong quá trình ứng dụng trong thực tế giảng dạy tôi thấy
mình cần linh hoạt, sáng tạo hơn nữa, tìm ra nhiều phương pháp cũng như hình
thức đổi mới hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng dạy trẻ.
2. Khuyến nghị:
2.1. Với nhà trường:
- Động viên những giáo viên có thành tích, có sáng kiến mới, phương
pháp dạy sáng tạo đưa vào áp dụng trong thực tế giảng dạy.
- Tổ chuyên môn của trường lên kế hoạch bồi dưỡng và kiến tập nhiều
hơn nữa về hoạt động giáo dục âm nhạc để nâng cao trình độ nhận thức, kĩ
năng ca hát cho giáo viên.
- Thường xuyên tổ chức các tiết dạy chuyên đề âm nhạc, tổ chức các hội
thi hát bằng các hình thức khác nhau để giáo viên giao lưu, học hỏi lẫn nhau.
2.2. Với phòng giáo dục:
23


- Tạo điều kiện để phổ biến, nhân rộng những sáng kiến được xếp loại ở
các cấp ứng dụng vào thực tế giảng dạy.
- Mở nhiều lớp chuyên đề, tập huấn hơn nữa về âm nhạc để tạo điều kiện
cho giáo viên giao lưu học hỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
Trên đây là một số sáng kiến về “Nâng cao chất lượng dạy hát cho trẻ
nhà trẻ 24 - 36 tháng”. Sáng kiến này của tôi đã đưa vào thực tế dạy trẻ và đã
đạt được những kết quả nhất định. Song sáng kiến không thể tránh khỏi những
thiếu sót, tôi rất mong được sự quan tâm, tham gia góp ý của hội đồng khoa học
sư phạm các cấp giúp đỡ, góp ý cho tôi để bản sáng kiến này của tôi được hoàn
thiện tốt hơn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

24


PHỤ LỤC
GIÁO ÁN 4.2.
GIÁO ÁN ÂM NHẠC
Chủ đề: Những con vật bé yêu.
Chủ đề nhánh: Con vật nuôi trong gia đình bé.
Đề tài:

Âm nhạc

+ ND trọng tâm: Dạy hát “Gà trống, mèo con và cún con”.
+ ND kết hợp: Nghe hát “Gà gáy le te”.
Đối tượng: Trẻ 24 - 36 tháng A.
Thời gian:

15 - 20 phút.

I . Mục đích :
* Trẻ nhớ tên bài hát, biết nội dung bài hát.
Trẻ biết hưởng ứng cùng cô qua giai điệu bài “Gà gáy le te”.
* Trẻ thuộc và hát rõ lời bài hát, hát đúng giai điệu, không ngọng, hát tự nhiên
vui tươi. Rèn cho trẻ có kỹ năng hát tập thể, nhóm, cá nhân, tự tin khi lên hát.
* Trẻ yêu quý các con vật nuôi. Hứng thú tham gia hoạt động và có cảm xúc
khi nghe cô hát.
II . Chuẩn bị :
* Đồ dùng của cô:

- Địa điểm tổ chức trong lớp học.
- Sân khấu rối tay, con rối.
- Trang phục phù hợp.
- Đàn, nhạc bài “Gà trống, mèo con và cún con”, “Gà gáy le te”.
* Đồ dùng của trẻ :
- Mũ múa đủ số trẻ .
- Trẻ chuẩn bị tâm thế, đầu tóc, quần áo gọn gàng, sạch sẽ khi tham gia hoạt
động.
III . Cách tiến hành :

25


×