TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
BÀI TẬP CÁ NHÂN
CHỦ ĐỀ 2: Khi đề cập đến vấn đề chuyển đổi đặc trưng văn hóa Việt Nam đến
năm 2030, theo anh (chị) vì sao “ Tính trọng âm và Đặc trưng 3: Tính ưu hài hịa
nên chuyển thành Tính hài hịa thiên về dương tính ” ?
Học phần
: Đại cương văn hóa VN
GVGD
: TS. Lâm Bá Hịa
Sinh viên thực hiện
: Huỳnh Quang Anh Quốc
Lớp
: 41k27
BÀI LÀM
Để giải thích cho câu hỏi tại sao “ Tính trọng âm và Đặc trưng 3: Tính ưu hài
hịa nên chuyển thành Tính hài hịa thiên về dương tính”.
Đầu tiên, ta tìm hiểu tính trọng âm, tính ưa hài hịa trong đặc trưng văn hóa
Việt Nam là gì?
Trọng âm trong văn hóa Việt Nam được biểu hiện rõ nét thơng qua 7 phẩm
chất cơ bản:
(1) Tính ưa ổn định;
(2) Tính hiền hịa, bao dung;
(3) Tính trọng tình, đa cảm;
(4) Tính trọng nữ;
(5) Thiên hướng thơ ca;
(6) Sức chịu đựng, nhẫn nhịn;
(7) Lịng hiếu khách.
Song đi đơi với những phẩm chất tốt đẹp trên cũng là nơi sản sinh ra những căn
bệnh khác như: Bệnh thụ động, khép kín; Bệnh lề mề, chậm chạp; Bệnh tủn mủn,
thiếu tầm nhìn; Bệnh sùng ngoại v.v..
Tính ưu hài hịa trong văn hóa Việt Nam được thể hiện thơng qua 4 tính cách
tiêu biểu:
(1) Tính mực thước;
(2) Tính ung dung;
(3) Tính vui vẻ, lạc quan;
(4) Tính thực tế.
Và bên cạnh đó cũng kéo theo những khiếm khuyết như: Bệnh đại khái, xuề xòa;
Bệnh dĩ hịa vi q; Bệnh trung bình chủ nghĩa; Bệnh nước đơi, thiếu quyết đốn.
Tính trọng âm và tính ưa hài hòa được thể hiện như nào?
I. Về đời sống, sản xuất vật chất :
Sự phân bố về vị trí địa lý và tính chất đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm gió
mùa khiến nền văn hóa nơng nghiệp là thế mạnh điển hình đặc trưng cơ bản của
nước ta. Bởi lẽ đó nó hình thành nên nếp sống và quyết định tính cách của con
người Việt Nam.
Nghề trồng trọt khiến người Việt Nam có lối sống hịa hợp với thiên nhiên .
Họ sống cố định một chỗ, ở dưới một mái nhà với mảnh vườn của mình được bao
bọc bởi luỹ trẻ làng bảo vệ. Trong sản xuất, người nông dân phụ thuộc vào nhiều
hiện tượng của tự nhiên như trời, đất, nắng, mưa... Bởi vậy mà họ rất tơn trọng, hồ
2
thuận với tự nhiên và phụ thuộc vào nó. Những kinh nghiệm mà chúng ta tích lũy
được từ đó cũng chỉ về mặt chủ quan theo cảm tính. Do phụ thuộc nhiều vào thiên
nhiên nên người Việt đã luôn phải cố gắng tổng hợp và bao quát hết (như người
Việt vẫn nói: “Trơng trời trơng đất trơng mây - Trơng mưa trông nắng trông ngày
trông đêm..”). Đây là một đặc trưng rất “âm tính”, giống như người phụ nữ, cùng
lúc có thể bao quát làm được nhiều việc; khác với văn hóa phương Tây “dương
tính” thiên về tư duy phân tích – giống như người đàn ơng cùng lúc chỉ tập trung
làm được một việc mà thôi. Sống phụ thuộc vào tự nhiên làm người nông dân dễ trở
nên rụt rè, thụ động. Bởi lẽ vậy nên lúc nào chúng ta chỉ là người đi theo chứ chưa
là người tiên phong, nó khiến ta như bị trói buộc vào vịng luẩn quẩn. Ngồi ra, tính
thụ động cịn thể hiện rõ qua cách tổ chức cộng đồng ở Việt Nam.
Về mặt tổ chức cộng đồng, nơi mà cuộc mưu sinh cần đến sự cộng sinh hơn
là sức mạnh cá nhân . Cộng đồng làng xã Việt Nam là một tập thể những con người
có sự đồng nhất rất cao, trong đó ai yếu kém thì sẽ được thương yêu, giúp đỡ;
ngược lại, ai trồi lên, tỏ ra tiên phong vượt trội thì sẽ bị ghen ghét, đố kỵ, sẽ bị ném
đá để kéo xuống đến chừng nào bị “cào bằng” như mọi người mới thôi. Chẳng thế
mà tục ngữ Việt Nam có vơ số những câu như: “Khơn đợc khơng bằng ngớc đàn”,
“Chết mợt đớng cịn hơn sớng mợt người”... Cũng vì vậy mà trong xã hội Việt Nam
truyền thống, những ai đi tiên phong thì ln gặp vơ vàn khó khăn, trắc trở;
Nguyễn Du từng đau đớn thốt lên: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Phẩm chất thường được người Việt Nam đánh giá cao là “sự khiêm tốn” chứ không
phải là “sự tự tin”, và càng không phải là “tính tiên phong”. Trong khi ở phương
Tây, “khiêm tốn” được hiểu là “thể hiện một sự đánh giá có chừng mực về giá trị,
khả năng và tài năng của mình” thì ở Việt Nam, “khiêm tốn” lại thường được hiểu
là sự nhún nhường, tự hạ thấp mình, đơi khi tới mức thấp kém, hèn mọn. Chất thụ
động, âm tính này đã trở thành một thiết chế gây áp lực lên cộng đồng suốt hàng
ngàn năm qua, khơng dễ gì có thể thay đổi một sớm một chiều. Nó vẫn còn đi theo
người Việt cho đến tận ngày nay, và chắc chắn sẽ còn tiếp tục chi phối trong một
thời gian khơng ngắn nữa.
Tóm lại, tính thụ động của người Việt có nguồn gốc từ ba yếu tố chính: chất
âm tính của văn hóa; tính cộng đồng cùng áp lực của số đông; và những tai họa
giáng xuống đầu những người đi tiên phong như một sự cảnh cáo, đe dọa.
Tâm lý sĩ diện trong đời sống làng xã của người nơng dân dẫn đến tính khoa
trương, trọng hình thức. Mặc dù đời sống kinh tế hiện nay của người nơng dân văn
cịn khó khăn, nhưng họ sẵn sàng tn theo các thủ tục, nghi lễ nặng nề, tốn kém
trong cưới xin, ma chay, khao vọng, hội lễ... Những hủ tục này gây nên sự tiêu tốn
kinh phí rất lớn cho cá nhân cũng như cho cộng đồng, do vậy dẫn đến sự đói nghèo
của nhiều gia đình nơng dân. Đây là một vật cản lớn trong quá trình hội nhập kinh
3
tế của người nông dân Việt Nam. Như vậy, để thực hiện thành cơng q trình CNH
- HĐH đất nước, cùng với những nhiệm vụ chính trị khác, chúng ta cần khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của một số yếu tố tâm lý. Đây là một nhiệm vụ quan
trọng.
Người Việt ta có lối sống trọng tình (một sản phẩm của đặc trưng thiên về âm tính)
Lối sống trọng tình đã dẫn đến cách ứng xử hết sức linh hoạt và thích ứng nhanh
với điều kiện hồn cảnh cụ thể: Ở bầu thì trịn, ở ớng thì dài, Đi với bụt mặc áo cà
sa/ Đi với ma mặc áo giấy (tục ngữ). Với nhu cầu sống hòa thuận trên cơ sở cái gốc
là tình cảm giữa con người với nhau trong làng xóm càng làm cho lối sống linh
hoạt trở nên đậm nét và chính là cơ sở tâm lý hiếu hòa trong các mối quan hệ xã hội
dựa trên sự tơn trọng và cư xử bình đẳng với nhau. Do vậy, người nông dân hết sức
coi trọng tập thể, cộng đồng, làm việc gì cũng phải tính đến tập thể. Lối sống linh
hoạt, trọng tình, dân chủ là những đặc điểm tích cực, nhưng mặt trái của nó là đặc
điểm tâm lý áp đặt, tuỳ tiện, tâm lý "hòa cả làng", coi thường phép nước (pháp
luật): "Phép vua thua lệ làng", "Đưa nhau đến trước cửa quan, bên ngoài là lý bên
trong là tình”.
Ngồi ra, trong truyền thống Việt Nam cịn có tinh thần coi trọng ngơi nhà,
coi trọng cái bếp, và hơn hết là coi trọng người phụ nữ .Phụ nữ Việt Nam là người
quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình - người nắm tay hịm chìa khóa. Chính bởi
vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời;... Phụ nữ Việt Nam cũng chính là
người có vai trị quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại
cái mang. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với
nghĩa là "mẹ" đã mang thêm nghĩa "chính, quan trọng”. Không phải ngẫu nhiên mà
vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học giả phương Tây gọi là "xứ sở
Mẫu hệ" (le Pays du Matriarcat). Nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai...), vai trò
của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng
nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ... Cũng không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay,
người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê phum, mê sóc
(mê=mẹ), bất kể đó là đàn ơng hay đàn bà.
Sống theo tình cảm, con người cịn phải biết tơn trọng và cư xử bình đẳng,
dân chủ với nhau. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi
trọng cộng đồng, tập thể, hiếu khách. Người nơng nghiệp làm gì cũng phải tính đến
tập thể, ln có tập thể đứng sau.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh
hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những
khơng có chiến tranh tơn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo...) đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến
4
tranh xâm lược, người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong
kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng,
cha ông ta thường dừng lại chủ động cầu hòa, "trải chiếu hoa" cho giặc về, mở
đường cho chúng rút lui trong danh dự.
Bên cạnh đó, cũng có những mặt trái đó là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co
giãn giờ giấc (giờ cao su), sự thiếu tôn trọng pháp luật... Lối sống trọng tình làm
cho thói tùy tiện càng trở nên trầm trọng hơn: Một bồ cái lí khơng bằng mợt tí cái
tình... Tính cộng đồng cao q thì có thể dẫn đến các cá nhân có thói dựa dẫm, ỷ lại
vào tập thể: Nước trơi thì bèo trơi, Nước nổi thì thuyền nổi. Tệ hại hơn nữa là tình
trạng Cha chung khơng ai khóc… Cùng với thói dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng Cầu an
(an phận thủ thường) và cả nể, làm gì cũng sợ nên có việc gì thường chủ trương
đóng cửa bảo nhau, rồi thói cào bằng, đố kị, khơng muốn cho ai hơn mình (để cho
tất cả đều đồng nhất, giống nhau): Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng ngốc
đàn; Chết mợt đớng cịn hơn sớng mợt người… Để cho tất cả đều “như nhau”. Tính
trọng âm lớn q thì làm cho tính tổ chức của người nơng nghiệp kém hơn so với
cư dân các nền văn hóa gốc du mục.
II. Về văn hóa ẩm thực :
Ẩm thực theo cách hiểu đơn giản chính là “ăn và uống” và ở đó văn hóa ẩm
thực sẽ cho ta hiểu hơn về những tập quán, khẩu vị, những ứng xử của con người
trong cách ăn uống; những phương thức chế biến, bày biện món ăn thể hiện giá trị
nghệ thuật, thẫm mỹ trong món ăn,cách thưởng thức món ăn,…
Việt Nam có vị trí địa lí tiếp giáp biển đơng suốt chiều dài đất nước nên ở
đây thủy hải sản rất phong phú, đa dạng. Khi bàn luận về món ăn của người Việt
chúng ta không thể không đề cập đến nước mắm và các loại mắm đi kèm đó dường
như là một nét riêng tách ẩm thực Việt Nam ra với các nước khác. Mặc khác, chúng
ta có một truyền thống văn hóa nơng nghiệp lúa nước, nên lúa gạo là thành phần
lương thực khơng thể thiếu trong cách bữa ăn chính của chúng ta.Ngồi ra, chúng
ta có hẳn 2/3 diện tích là đồi núi nên cũng rất đa dạng về những loại cây trồng, rau,
củ ,quả, những loại vật nuôi-gia súc gia cầm,… càng làm cho những món ăn thêm
phần phong phú.Và dựa vào từng thời tiết khí hậu khác nhau mà người dân Việt lại
có những khẩu vị khác nhau.Ví dụ như:
-Mùa hè nóng, người Việt thích ăn rau quả, tôm cá (là những thứ âm) hơn là
mỡ thịt. Khi chế biến, người ta thường luộc, nấu canh, làm nộm, làm dưa, tạo nên
thức ăn có nhiều nước (âm) và vị chua (âm) vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu, vừa giải nhiệt.
Chính vì vây mà người Việt Nam rất thích ăn đồ chua, đắng-cái chua của dưa cà,
của quá khế, qua sấu, quả me, quả chanh, quả chay, lá bứa; cái đắng của vỏ chanh,
5
mướp đắng (khổ qua).Xứ nóng (dương) phù hợp cho việc phát triển mạnh các loài
thực vật và thủy sản (âm); xứ lạnh (âm) thì phù hợp cho việc phát triển chăn ni
các lồi động vật với lượng mỡ, bị sữa phong phú (dương) như vậy là tự thân thiên
nhiên đã có sự cân bằng rồi. Do vậy, ăn theo mùa chính là đã tận dụng tối đa mơi
trường tự nhiên để phục vụ con người, là hịa mình vào tự nhiên, tạo nên sự cân
bằng biện chứng giữa con người với môi trường. Thức ăn đúng theo mùa - mùa nào
thức ăn ấy - người xưa gọi là “thời trân”: Mùa hè cá sơng, mùa đơng cá bể; Chim
ngói mùa thu, chim cu mùa hè... Ăn theo mùa cũng là lúc sản vật ngon nhất, nhiều
nhất, rẻ nhất và tươi sống nhất.
Tính ưu hài hịa ở đây biểu hiện:
-Đầu tiên là để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm-dương, người Việt phân
biệt thức ăn theo năm mức âm-dương, ứng với Ngũ hành: hàn (lạnh, âm nhiều =
Thủy); nhiệt (nóng, dương nhiều = Hỏa); ơn (ấm, dương ít = Mộc); lương (mát, âm
ít: Kim), và bình (trung tính = Thổ). Theo đó, người Việt tuân thủ nghiêm luật âmdương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến. Tập quán dùng gia vị của Việt Nam,
ngoài các tác dụng kích thích dịch vị, làm dậy mùi thơm ngon của thức ăn, chứa
các kháng sinh thực vật có tác dụng bảo quản và xử lý thức ăn, cịn có tác dụng đặc
biệt là điều hoà âm-dương, thủy-hỏa của thức ăn.
-Thứ hai,để tạo nên sự quân bình âm-dương trong cơ thể, ngồi việc ăn các món
chế biến có tính đến sự qn bình âm-dương, người Việt Nam cịn sử dụng thức ăn
như những vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm-dương trong cơ thể. Mọi
bệnh tật đều do mất quân bình âm-dương; vì vậy, một người bị ốm do quá âm cần
ăn đồ dương và, ngược lại, ốm do quá dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự
thăng bằng đã mất.
Ngồi ra, tính ưu hài hịa cịn thể hiện ở tính mực thước là biểu hiện của
khuynh hướng qn bình âm-dương và tính ung dung, vui vẻ. Nó địi hỏi người ăn
đừng ăn q nhanh, q chậm; đừng ăn quá nhiều, quá ít; đừng ăn hết, đừng ăn cịn.
Ăn nhanh là người vội vàng thơ lỗ, ăn chậm khiến người ta phải chờ; ăn nhiều, ăn
hết là tham lam; ăn ít, ăn cịn là chê cơm khơng ngon. Khi ăn cơm, khách một mặt
phải ăn cho ngon miệng để tỏ lịng biết ơn và tơn trọng chủ nhà, nhưng mặt khác,
lại phải để chừa một ít trong các đĩa đồ ăn để tỏ rằng mình khơng chết đói, khơng
tham ăn. Tục ngữ có câu: Ăn hết bị địn, ăn cịn mất vợ. Tính mực thước cịn thể
hiện ở chỗ khi có khách đến nhà dùng cơm thì chủ nhà ngồi đầu nồi phải rất tế nhị
và mực thước khi đơm cơm cho khách: không đơm nhiều quá hoặc ít q vào mỗi
bát - nhiều q thì đầy, dễ rơi vãi (khiến khách mang tiếng vụng về và khơng có
chỗ để thức ăn); ít q thì ăn mau hết phải đưa xới nhiều lần (khiến khách mang
6
tiếng tham ăn). Người Việt phối trộn nguyên liệu với nhau người Việt sử dụng một
cách tương sinh hài hòa với nhau thường thuận theo nguyên lý “âm dương phối
triển” như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm. Cái ngon
của bữa ăn người Việt Nam còn là tổng hợp cái ngon của mọi yếu tố : Có thức ăn
ngon mà ăn khơng hợp thời tiết thì khơng ngon; hợp thời tiết mà khơng có chỗ ăn
ngon thì khơng ngon; có chỗ ăn ngon mà khơng có bè bạn tâm giao cùng ăn thì
khơng ngon; có bạn bè tâm giao mà khơng khí bữa ăn khơng vui vẻ thì cũng khơng
ngon nốt. Vì vậy, Người Việt có thói quen ăn dọn thành mâm, dọn nhiều món ăn
trong một bữa lên cùng một lúc chứ khơng như phương Tây ăn món nào mới mang
món đó ra hay tính hiếu khách, trước mỗi bữa ăn người Việt thường có thói quen
mời; lời mời thể hiện sự giao thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân trọng
người khác. Người Việt có quan niệm bữa cơm là sự sum họp của gia đình, bạn bè
ngồi lại với nhau kể chuyện cho nhau mang lại khơng khí tươi vui sau những giờ
làm việc mệt nhọc, hay lâu ngày gặp nhau.
-Và chính những đặc tính như tổng hợp, cộng đồng và mực thước thấy trong nghệ
thuật ăn uống mới là những nguyên lý cốt lõi của văn hóa Việt. Bàn thêm về tính
chất cộng đồng (hay gia đình) của bữa cơm Việt, lối ăn Việt, và ngay cả cách chế
biến thực phẩm Việt. Bữa cơm truyền thống Việt ngồi quay quần trên chiếu, chung
quanh mâm cơm cũng tròn.Cách ăn cũng cộng đồng: cùng chấm một bát nước
mắm, cùng múc một bát canh, cùng gắp món ăn từ đĩa, cùng một niêu (nồi)
cơm.Khơng có chia phần, cũng khơng có phân loại, như thường thấy trong bữa ăn
Âu Mỹ. Thêm khách, thêm bát, thêm đũa, và mọi người đều nhịn một tí để chia cho
người khách.Tuy theo trật tự trên dưới. Người dưới đợi người trên, nhưng ngược
lại, ta cũng thấy người trên nhường người dưới. Con cháu mời và đợi ông bà, cha
mẹ gắp thức ăn, ăn trước. Nhưng ông bà, cha mẹ thường gắp thức ăn cho con cháu
trước. “Ăn trơng nồi, ngồi trơng hướng” khơng có nghĩa là tuân thủ quy luật kẻ
ngồi trên. Câu này mang một ý nghĩa tương quan. Ta tuân thủ luật tương quan cộng
đồng một quy luật dựa theo sự tương quan giữa mọi người. Do vậy, người Việt
khơng có lễ nghi cố định trong các bữa tiệc, nhưng họ có lễ phép theo tinh thần tơn
kính và nhường nhịn. Con kính cha, cha nhường con, cháu mời ông, ông cho cháu.
Chủ nhường khách, khách nhường chủ. “Ngồi trơng hướng” có lẽ phải hiểu theo
nghĩa như vậy. “Ăn trông nồi” là xem nồi cơm có đủ cho mọi người hay khơng.
Đây là lý do tại sao ai cũng ăn không no, nhưng mà đồ ăn vẫn còn đồ thừa. Ai ai
cũng nhường cho nhau.Tính chất cộng đồng cũng thấy trong cách dùng bát, đũa,
nồi và mâm. Chiếc bát “cái”, chiếc đĩa “cái” để dùng chung, và đặc biệt là cái mâm,
bát nước mắm và bát canh. Lý do gì mâm mang hình trịn… có lẽ trước hết vì nó
7
hợp lý, gần với tất cả mọi người ngồi quanh nó… Tâm điểm của mâm là bát nước
chấm, một đặc biệt của mâm cơm Việt Nam, nó điều hịa mọi vị khẩu mặn hay
nhạt, chua hay cay, đặc hay loãng.
III. Về văn hóa kiến trúc nhà ở :
Đối với nơng nghiệp thì ngơi nhà chính là tổ ấm để đối phó với thời tiết nóng
lạnh, nắng mưa, gió bão. Một trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho
họ 1 cuộc sống định cư ổn định: "Có an cư thì mới có lạc nghiệp " hay " thứ nhất
dương cơ, thứ nhì âm phần ". Do ngơi nhà chiếm vị trí quan trọng đặc biệt trong
cuộc sống nên Nhà ( chỗ ở ) được đồng nhất với gia đình. Ngơi nhà ở Việt Nam có
những đặc điểm sau:
• Do khu vực cư trú nên ngôi nhà của người Việt thường gắn liền với môi
trường sông nước. Những người sống bằng nghề sơng nước ( chài lưới, chở
đị..) thường lấy thuyền, bè là nhà ở gọi là nhà thuyền, nhà bè, nhiều gia đình
gọi là xóm chài và làng chài. Tuy vậy nhưng họ vẫn có nhà trên sàn trên mặt
nước để ứng phó với việc ngập lụt và khí hậu nhiệt đới với độ ẩm cao thêm
vào đó là hình mái cong. Mái cong ngồi ý nghĩa là con thuyền thì ko có tác
dụng thực tế gì, tạo dáng vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay bổng
cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng để hịa mình vào thiên nhiên.
• Để đối phó với môi trường tự nhiên tiêu chuẩn ngôi nhà ở Việt Nam về mặt
cấu trúc là nhà cao cửa rộng.kiến trúc trúc mở tạo khơng gian thống mát,
giao hịa với tự nhiên, cái cao của ngôi nhà VN bao gồm 2 yêu cầu : sàn và
nền cao so với mặt đất và mái cao so với sàn/ nền. Nhà cao mà cửa ko cao
mà phải rộng, của ko cao để tránh ảnh nắng chiếu xiên vào cịn cửa rộng để
đón gió mát và tránh nóng. Biện pháp quan trong ko kém là chọn hướng nhà,
chọn đất, tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên. Hướng nhà tiêu
biểu là hướng Nam " Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam ". Nhưng tùy thuộc
vào địa hình địa vật xung quanh vào sự có mặt của núi rừng, của sông, của
con đường... " Phong" và " Thủy" là 2 yếu tô quan trọng nhất, thuật phong
thủy được xây dựng trên âm dương ngũ hành do vậy mà nhà phong thủy cần
nắm vững hướng gió và hướng nước để âm dương được điều hòa là tốt nhất.
Tuy nhiên trong việc " chọn nơi mà ở " thì người Việt cịn có tính cộng đồng
mà ko thể qn làng " Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ
cận điền ".
Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà VN truyền thống là rất
động và linh hoạt. Chất động linh hoạt đó trước hết được thể hiện ở lối kết cấu
khung, cốt lõi của ngôi nhà là bộ phận khung chịu lực tạo nên bởi các bộ phận liên
kết với nhau trong ko gian 3 chiều: theo chiều đứng, theo chiều ngang và theo chiều
dọc. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng mộng, mộng là
8
cách ghép theo nguyên lý âm dương phần lồi ra của 1 bộ phận này với chỗ lõm vào
có hình dáng và kích thước tương ứng của 1 bộ phận khác.
Về hình thức kiến trúc thì ngơi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của
truyền thống văn hóa dân tộc.
Trước hết là môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sán với vách
riêng và mái cong hình thuyền. Rồi tính cộng đồng thể hiện ở việc trong nhà ko
chia thành nhiều phòng nhỏ biệt lập như phương tây.
Người Việt Nam có truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên việc ưu
tiên cho bộ bàn ghế tiếp khách là ko ngoại lệ. Hình thức kiến trúc ngơi nhà cịn tn
thủ ngun tắc coi trọng số lẻ của truyền thống văn hóa nơng nghiệp : Ngọ môn 5
cửa 9 lầu, cột cờ 3 cấp, số gian của ngôi nhà bao giờ cũng là số lẻ.
Cách liên kết theo lối ghép mộng âm dương giúp cho các bộ phận vừa gắn bó chặt
chẽ lại vừa cơ động và linh hoạt. Nhìn chung chỉ trong 1 việc ở, ta cũng thấy
nguyên lý âm dương và ý muốn hướng tới 1 cuộc sống hài hòa chi phối con người
Việt Nam 1 cách trọn vẹn.
IV. Trong văn hóa trang phục :
Văn hóa trang phục là kết quả của hoạt động sống và sáng tạo của con người,
là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội, qua đó thể hiện bản sắc dân
tộc rõ nét.
-Thời Hùng Vương: Trang phục phổ biến thời này là nam cởi trần, đóng khố bằng
lá cây, nữ mặc yếm và vay ngắn khá sơ khai. Sở dĩ như vậy là vì mặc váy khơng chỉ
mát, ứng phó có hiệu quả được với khí hậu nóng bức, mà cịn rất phù hợp với cơng
việc đồng áng.Trang phục Việt Nam ngày xưa thường có màu ưa thích là các màu
âm tính phù hợp với phong cách truyền thống ưa tế nhị, kín đáo: ở miền Bắc là màu
nâu, gụ - màu của đất; Nam Bộ là màu đen, màu của bùn; người xứ Huế thì ưa màu
tím trang nhã phù hợp với phong cách đế đơ. Bên cạnh tính trọng âm trong trang
phục Việt Nam cũng đã kết hợp với dương tính nên đã tạo nên tính hài hịa thể hiện
trong trang phục trong lễ hội thời xưa, người phụ nữ mặc cái áo dài màu thâm hoặc
nâu... ở ngồi, lấp ló bên trong mới là các lớp áo cánh nhiều màu dương tính hơn
(vàng mỡ gà, vàng chanh, hồng cánh sen, hồng đào xanh hồ thủy...).
Ngày nay tính trọng âm và tính ưa hài hòa còn thể hiện rõ nhất qua trang
phục Áo dài. Kể từ năm 1954, chiếc áo dài Việt Nam đã được nhiều nữ sinh mặc
đến trường với kiểu tà rộng, eo thắt, cổ cao có lót cứng, ống tay hẹp Nó kết hợp
được một cách xuất sắc truyền thống dân tộc với ảnh hưởng phương Tây. Bên cạnh
những cải tiến đáng kể theo hướng tăng cường phô trương cái đẹp cơ thể một cách
trực tiếp kiểu phương Tây (dương tính hóa) như đa dạng hóa về màu sắc; áo được
9
thu gọn cho ơm sát thân, làm nổi ngực, bó eo hơn; bỏ áo cánh, yếm và xẻ tà áo hai
bên sườn cao hơn cho hở lườn... thì áo dài tân thời lại cũng đồng thời kế tục và phát
triển cao độ phong tách tế nhị, kín đáo cổ truyền (âm tính hóa). Chính sự khêu gợi
một cách tế nhị kín đáo, tính cách dương ở trong âm đặc biệt này vừa đáp ứng được
yêu cầu của thời đại, lại vừa duy trì được bản sắc dân tộc, khiến cho chỉ trong một
thời gian ngắn, áo dài tân thời đã được phổ biến rộng rãi với các phong cách địa
phương Hà Nội, Sài Gòn, Huế và trở thành biểu tượng cho y phục truyền thống
Việt Nam.
Ngày nay, trang phục cổ truyền Việt Nam đang có nhiều thay đổi về tần suất
sử dụng. Có thể nhận thấy thời trang trong những năm gần đây có những bước tiến
khá dài. Trang phục đang đòi hỏi sự vươn tới cái đẹp, thể hiện sự hoàn mỹ hay che
bớt những nhược điểm, khuyết điểm trên cơ thể. Người phụ nữ ngày nay có rất
nhiều cơ hội thể hiện vẻ đẹp qua trang phục. Trong thế giới thời trang phong phú
với những làn sóng mốt đến rồi lại đi, thay đổi đến chóng mặt, trang phục truyền
thống của người Việt vẫn thể hiện rõ bản lĩnh của mình. Sau thời gian bị lóa mắt
trước những cơn sóng thời trang từ bên ngồi tràn vào, trang phục cổ truyền lại lên
ngôi, lắng sâu hơn và thể hiện rõ bản sắc của mình hơn, biểu hiện ngày càng rõ nét
phong cách trang phục vốn có từ ngàn đời. Trang phục cổ truyền cịn tồn tại vì nó
cịn phù hợp với nhu cầu sử dụng thực tiễn và tính giá trị của sản phẩm trang phục
Việt Nam.
Từ những trình bày trên theo em chúng ta nên chuyển từ “Tính trọng
âm và Đặc trưng 3: Tính ưu hài hịa nên thành Tính hài hịa thiên về dương
tính”. Vì:
Bước sang hịa bình, cùng với việc mở cửa hội nhập và tham gia vào q
trình tồn cầu hóa, tồn bộ văn hóa truyền thống đang có những thay đổi căn bản.
Chúng ta đang ở trong một giai đoạn có sự đối lập rất gay gắt giữa truyền thống
văn hóa nơng thơn, nông nghiệp với thực trạng của xã hội, hướng đến lối sống đơ
thị và cơng nghiệp. Văn hóa nơng thơn, nông nghiệp truyền thống đang biến đổi
mạnh, mọi điều kiện khơng cịn như cũ.
Trong khi đó chúng ta vẫn chưa có được xã hội cơng nghiệp và lối sống đơ thị. Xã
hội Việt Nam hiện nay đầy rẫy những người nơng dân khốc áo đơ thị. Việc làm thì
giống như người đơ thị nhưng hành xử thói quen sinh hoạt, cách quản lý, suy nghĩ,
cách làm việc vẫn là anh tiểu nơng
Chính là vào lúc này, những đặc trưng văn hóa trước đây đã giúp ta làm nên chiến
thắng trong chiến tranh thì nay lại bộc lộ hết những mặt hạn chế của nó.
Trong khi người phương Tây mạnh về tư duy phân tích, giờ nào việc nấy, làm ra
làm chơi ra chơi, đã làm thì phải hướng tới hiệu suất cao nhất, thì chúng ta quen lối
tư
duy
tổng
hợp,
vừa
làm
vừa
chơi.
10
Vừa làm vừa uống trà uống nước, việc gì cũng “chín bỏ làm mười”, đại khái, hời
hợt, khơng đến nơi đến chốn – đây hoàn toàn là cách sống của người tiểu nông sản
xuất nhõ lẻ, manh mún.
Lịch sử văn hóa quản lý của phương Tây phát triển theo hướng chính quy, nề
nếp, bài bản; xã hội được tổ chức và quản lý tuyệt đối theo luật pháp, nên từ đó mà
phát triển lên thành xã hội cơng nghiệp, đơ thị vì vậy phương Tây khơng có vấn đề
xung
đột
văn
hóa.
Trong khi văn hóa Việt Nam truyền thống đặc trưng bởi tính linh hoạt rất mạnh mẽ.
Điều đó là thế mạnh trong chiến tranh, nhưng khi chuyển sang hịa bình, xây dựng
xã hội cơng nghiệp - đơ thị, tính linh hoạt chuyển thành tùy tiện. Người quản lý làm
việc theo tình cảm, xử lý công việc tùy tiện; khiến dân chúng không tin tưởng vào
luật pháp, phổ biến tình trạng lách luật, có việc gì thì chủ trương “tự xử”…
Người Việt dù ở đâu cũng luôn phát huy tối đa khả năng linh hoạt biến báo, xoay
xở sao cho có lợi tối đa cho mình, với đủ loại mánh khóe. Đến mức chúng ta quên
rằng phải biết xấu hổ với những thói xấu đó nên thoải mái lên mạng dạy nhau, viết
sách dạy nhau gian lận, trốn vé khi vào bảo tàng, khi đi xe; quay cóp khi thi cử;
trốn visa, nhập cảnh bất hợp pháp khi ra nước ngoài… Cuốn sách “Xách ba lô lên
và đi” đang gây phản ứng mạnh trong cộng đồng mạng của tác giả trẻ Huyền Chíp
là
một
ví
dụ…
Chính tính tổng hợp và tính linh hoạt mà trong chiến tranh giúp ta có lợi thế trước
phương Tây bao nhiêu thì bây giờ đang bộc lộ hết mặt hạn chế, gây nên những bất
cập mà chúng ta đang gặp phải hiện nay khi chuyển từ xã hội nông nghiệp - nơng
thơn
sang
xã
hội
cơng
nghiệp
đơ
thị.
Bên cạnh tính tổng hợp và tính linh hoạt, những đặc trưng bản sắc khác của văn
hóa truyền thống Việt Nam cũng đang bộc lộ những mặt hạn chế.
Thứ nhất là tính cộng đồng trong văn hóa làng xã của người Việt. Điểm mạnh của
nó là mọi người trong cộng đồng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó với nhau tạo
thành một tập thể nhưng đặc trưng đó chỉ phát huy trong làng xã khép kín, có quen
biết thì có cộng đồng mà khơng quen biết thì khơng có cộng đồng.
Bước vào xã hội công nghiệp - đô thị rộng lớn, nơi mà mọi người không thể quen
biết thân thiết hết được với nhau, mọi hậu quả xấu bắt đầu nảy sinh. Lẽ ra mỗi
người một việc, cứ việc mình mình làm thì người Việt chúng ta cứ phải la cà trị
chuyện, rồi tự cho mình cái quyền can thiệp vào việc riêng của người khác, nhà
khác ngay cả khi người ta khơng làm gì ảnh hưởng đến mình, đến cộng đồng.
Khi có cơng việc, người phương Tây xếp một hàng thẳng, người đến trước đứng
11
trước người đến sau đứng sau, thì người Việt chúng ta cứ phải đứng dàn hàng
ngang ra để còn túm lại nói chuyện với nhau”,
Tính cộng đồng kéo theo hệ lụy khác là thói cào bằng: Người Việt Nam khơng
muốn ai hơn mình nên cứ thấy ai hơn mình là tìm cách phá họ, dìm họ xuống. Thói
nói xấu sau lưng cũng từ đây mà ra. Cho nên Nguyễn Du mới nói “Chữ tài liền với
chữ tai một vần”. Vì thế người có tài phải học cách giấu mình đi; từ đó mà nảy sinh
sinh ra đức tính khiêm tốn giả vờ, không dám bộc lộ năng lực.
Trong khi phương Tây thì coi trọng việc thể hiện năng lực, khả năng của mình để tự
khẳng định và để xã hội tiện sử dụng. Tính cộng đồng trong văn hóa Việt cịn sinh
ra thói sĩ diện, “bệnh sĩ”, dù khơng được như thế nhưng người ta vẫn cố phơ
trương ra mình như vậy – đó là nguyên nhân của căn bệnh “nổ”, “chém gió”, mà từ
trẻ đến già đều mắc phải.
Thứ hai là tính ưa hài hịa của người Việt tức là lối suy nghĩ ln ln thấy mình ở
giữa: “nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống thì chẳng ai bằng”. Đây là một triết lý
sống rất hay vì nó ln tạo cho mình một cuộc sống ổn định, hạnh phúc. Vì vậy
người phương Tây trước đây đến Việt Nam từng nhận định rằng tuy Việt Nam
nghèo nhưng khuôn mặt mọi người ln rạng ngời niềm vui, sự hài lịng.
Các cuộc điều tra xã hội học trên thế giới hiện nay cũng cho biết rằng Việt Nam là
một trong số ít quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao. “Tuy nhiên trong cuộc sống hiện
nay tính ưa hài hịa lại kiềm chế sự phát triển, hạn chế ý chí vươn lên
Thứ ba là người Việt thiên về “âm tính”. Đây là đặc trưng mà người Việt cần phải
thay đổi hoàn tồn. Nó liên quan đến tất cả những hạn chế của các đặc trưng trên.
Xã hội cũng như tự nhiên đều ln biến động, tức là thiên về dương tính. Cho nên
khuynh hướng thiên về “âm tính”, hậu quả của nền văn hóa nơng nghiệp lúa nước
nay khơng cịn phù hợp. Văn hóa Việt Nam hiện tại phải chuyển sang hài hịa thiên
về “dương tính”, tức là phải năng động hơn, chủ động hơn, mạnh mẽ hơn.
Tài Liệu Tham Khảo
PGS.TS. Trần Ngọc Thêm, Giáo trình CƠ SỞ VĂN HỐ VIỆT NAM, năm 1997
12