Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Bằng lý luận và thực tiễn, đồng chí hãy phân tích những hạn chế, bất cập trong quá trình thực thi CSC.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.46 KB, 6 trang )

CHÍNH SÁCH CÔNG/1
Câu 3 Bằng lý luận và thực tiễn, đồng chí hãy phân tích những hạn chế, bất cập trong
quá trình thực thi CSC.
Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua việc ban hành
và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được hiện thực hóa. Ở Việt Nam,
với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thì CSC là công cụ tiền đề, không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý
khác như pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những
năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của CSC
như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy
mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao
và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực thi CSC ở nước ta đang
tồn tại những hạn chế, bất cập nào và đặt ra những vấn đề cần giải quyết.
1) Một số vấn đề cơ bản về chính sách công:
* Khái niệm: Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau của
chính quyền về việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó trên cơ
sở có những tính toán và chủ đích rõ ràng nhằm giải quyết một vấn đề, đáp ứng một nhu cầu
thiết yếu hay định hướng sự phát triển của thực tiễn xã hội.
* Chu trình CSC diễn ra có thể rất khác nhau tùy vào vấn đề chính sách và bối cảnh chính
sách nhưng nhìn chung chu trình chính sách có tính lặp đi lặp lại và bao gồm các giai đoạn:
hoạch định và ban hành chính sách; tổ chức thực thi chính sách và đánh giá chính sách.
- Hoạch định chính sách công là quá trình thiết kế một chính sách đáp ứng những nhu cầu
của thực tiễn xã hội. Việc hoạch định CSC có thể được tiến hành theo nhiều trình tự khác
nhau, nhưng về cơ bản nội dung thực hiện là tương tự nhau. Gồm có các bước cơ bản: xác
định vấn đề CSC từ các vấn đề xã hội nảy sinh; nghiên cứu sơ bộ và đưa ra các giải pháp
khái quát; đưa vấn đề vào nghị trình; nghiên cứu chính thức và dự thảo các giải pháp chính
sách; đánh giá và lựa chọn giải pháp tối ưu; ban hành CSC.
- Thực thi chính sách công là một giai đoạn quan trọng trong chu trình chính sách, là bước duy
nhất chuyển ý tưởng chính sách, cụ thể là các ý tưởng về mục tiêu, đối tượng, phương thức can
thiệp thành những hành động nhất định của các cơ quan, thiết chế, tổ chức chính quyền ở nhiều
cấp khác nhau và những người đại diện cho các cơ quan, thiết chế, tổ chức này để giải quyết các


vấn đề xã hội.
- Đánh giá chính sách: là công việc quan trọng trong chu trình chính sách, có thể được tiến
hành ngay sau khi chính sách được ban hành. Đó là sự đánh giá cả về nội dung, việc thực
hiện và tác động của chính sách. Việc đánh giá chính sách thường dẫn đến các vấn đề chính
sách mới, là sự khởi đầu cho một chu trình chính sách mới.
2) Thực trạng việc hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam; những hạn chế,
bất cập
a) Thực trạng:
Đi cùng với đổi mới, Việt Nam đã từng bước chủ động tích cực trong hội nhập kinh tế quốc
tế và nay là hội nhập quốc tế và sẵn sang cho vai trò thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế. Trước yêu cầu đó, thể chế và phương thức hoạch định, thực thi CSC càng cần
được đổi mới để thật sự trở thành công cụ quản lý, điều hành quan trọng của Nhà nước.
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ cả
về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức


CHÍNH SÁCH CÔNG/2
bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự, ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được
luận chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước
đầu đã tạo lập và hoàn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu cơ bản như: kịp thời,
đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, ngành. Một số địa
phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp
với đặc điểm của mình, có tính đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Công tác
tổng kết thực tiễn thi hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách
được sơ kết, tổng kết khá công phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn. Nhìn
tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với không ít kinh nghiệm
bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.

Hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm với tư cách là một trong những
công đoạn quan trọng của quy trình CSC. Tuy chưa nhiều và chưa thật sự phát huy hết hiệu
quả nhưng một số cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu và cá nhân có những sản phẩm phân
tích, đánh giá CSC rất tốt, giúp cho việc ban hành, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống chính
sách hiện hành theo hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội.
b) Tuy nhiên, trong việc hoạch định và thực thi CSC vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn
chế như:
* Đối với giai đoạn hoạch định chính sách:
- Làm chính sách vẫn đang được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà nước, của nhà nước
nói chung mà chưa phải là công việc chung của xã hội, của các doanh nghiệp, của các nhóm
lợi ích trong xã hội. Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của
những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do
những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một
số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong
muốn.
- Có quá nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây dựng phân tán; thiếu
sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm đích
thực nên chất lượng không cao. Trong khi đó, hầu hết các chiến lược hay chính sách đều thể
hiện sự liệt kê mục tiêu, quan điểm định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành
động cụ thể hay các biện pháp cần có.
- Trong quá trình hoạch định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp
thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. Trong khi đó,
chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp
đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát
hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và
có các phương án giải quyết phù hợp với thực tế. Một chính sách đúng đắn phải từ thực tế
khách quan.


CHÍNH SÁCH CÔNG/3

- Năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách còn hạn chế. Điều này dẫn đến tình
trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận cách giải quyết vấn đề chưa đúng.
- Việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện nay tại Việt Nam còn rất hạn
chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban hành là việc làm rất quan trọng để có thể lường
trước được những mặt tiêu cực có thể do thực thi chính sách mang lại cho đối tượng chịu tác
động trực tiếp của chính sách đó. Hiện nay các nước trên thế giới hoạt động phản biện chính
sách là một khâu rất quan trọng nhưng tại Việt Nam thì hoạt động này lại bị coi nhẹ.
- Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát huy nên đã tạo
những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất lượng chưa cao, thậm chí xã
hội không đồng tình.
- Hiện tượng "vận động chính sách" (lobby) tuy chưa được chính thức thừa nhận ở phương
diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với những biểu hiện tiêu cực khác
nhau làm ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách, gây những nguy hại nhất định cho
xã hội lại chưa được quan tâm nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu
lực, hiệu quả.
* Đối với giai đoạn thực thi chính sách
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung và yêu cầu của chính sách có khi
chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng liên quan (nhà chức trách, những người
thực thi và người dân), dẫn đến hiểu sai.
- Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau.
Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ nghị định và thông tư hướng dẫn diễn
ra khá phổ biến, cản trở việc áp dụng.
- Sự phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị tổ chức thực thi chính sách chưa thực sự khoa học,
vẫn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa quyền hạn và lợi ích. Cơ chế phối hợp giữa các cấp và
giữa các cơ quan đồng cấp chưa chặt chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi, công khai
thông tin. Bên cạnh đó, một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, công chức thiếu năng lực, trình độ
và sự trong sạch trong thực thi chính sách cũng đang là một trong những nguyên nhân bóp
méo, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của chính sách.
- Những quy chế, thủ tục lập ra trong quá trình tổ chức thực thi chính sách thường thiếu tính
ổn định tương đối, gây xáo trộn cho quá trình thực thi chính sách công. Thủ tục hành chính

còn nhiều phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực thi chính sách.
* Đối với giai đoạn đánh giá chính sách:
- đánh giá chính sách còn đơn giản, phiến diện.
- Các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá chính sách. Trên thực tế,
rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc, bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm
quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ trì tổ chức thực hiện chính sách) không đưa
việc đánh giá chính sách vào chương trình hoạt động của mình.
- Việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện “vấn đề”. Trong một
số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong một thời gian dài, chỉ đến khi “vấp váp”
trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được những “lỗ hổng” của chính sách.


CHÍNH SÁCH CÔNG/4
- Thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Khi đánh giá chính sách,
người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu chính sách ban đầu. Việc đánh giá
chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định lượng,
chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường...
- Đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh nhận xét của các cơ quan
nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ xã hội, từ những đối tượng mà
chính sách hướng vào.
3) Các giải pháp:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một cách có hiệu quả của mọi cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch
định và thực thi CSC. Nói cách khác, làm cho CSC từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền của các cơ
quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội.
- Đổi mới quy trình hoạch định CSC theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã
hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Từng bước tạo lập một quy trình làm
chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác
động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.

- Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá trình tổ chức thực thi
CSC. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các khâu tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã
hội trong quy trình thực hiện chính sách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát về tiến độ,
hiệu quả thực hiện CSC. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các khiếu kiện, vi phạm
pháp luật nảy sinh.
- Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi CSC theo hướng thường xuyên, thiết
thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó.
- Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá CSC như là một điều kiện tối quan trọng để từng
bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ
quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá CSC
- Tăng cường công tác thu thập, lấy ý kiến của người dân về các vấn đề đang phát sinh trong cuộc
sống và nguyện vọng về cách xử lý của Nhà nước như các hình thức lấy ý kiến qua mạng, báo đài,
hay tại địa phương thông qua đội ngũ cán bộ cơ sở rồi tổng hợp, đánh giá để ban hành những chính
sách kịp thời nhất.
- có cơ chế đảm bảo sự tham gia của đối tượng bị tác động bởi chính sách để có cái nhìn toàn diện
hơn trước khi ban hành chính sách mới, tránh phản ứng gay gắt và gây bất mãn với đối tượng ảnh
hưởng.
- Đào tạo 1 cách chuyên nghiệp và bài bản đội ngũ làm công tác hoạch định chính sách. Đây chính là
hạt nhân của chính sách tốt, có hiệu quả, có tầm nhìn bao quát và có tính chất dự đoán bước ứng phó
tốt cho tương lai.
Liên hệ:


CHÍNH SÁCH CÔNG/5
Ngày 7/7/2014, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách
phát triển thủy sản, trong đó quy định chính sách về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm; chính sách ưu
đãi thuế và một số chính sách khác áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động thủy
sản; tổ chức, cá nhân (gọi là chủ tàu) đặt hàng đóng mới tàu, nâng cấp tàu phục vụ hoạt động
khai thác thủy sản.
NĐ 67 có hiệu lực từ tháng 8/2014. Đến nay chính sách tín dụng ưu đãi nhằm phát triển ngành thuỷ

sản này đã và đang đi vào cuộc sống, góp phần hiện thực hoá giấc mơ tàu lớn từ bao đời này của bà
con ngư dân. Nhờ chính sách này, nhiều con tàu có công suất lớn đã được hạ thủy, vững vàng thẳng
tiến Hoàng Sa, Trường Sa… giúp nâng cao đời sống của ngư dân, góp phần phát triển ngành kinh tế
biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Tuy nhiên, NĐ 67 là một hệ thống các chính sách đồng bộ lớn nhất từ trước tới nay để hỗ trợ người
dân đóng mới, nâng cấp tàu công suất lớn, do chưa có tiền lệ nên đã phát sinh một số vướng mắc
trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách:
* Hạn chế trong hoạch định:
- Không tham khảo ý kiến của ngư dân
- Thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành
- Đưa ra các chỉ tiêu quá cao mà ngư dân không đáp ứng được
* Hạn chế trong thực thi:
- Các địa phương, ngư dân còn lúng túng về trình tự, thủ tục đăng ký, thẩm định dự án đóng tàu ;
chậm xây dựng thiết kế các mẫu tàu cá đáp ứng yêu cầu cho ngư dân lựa chọn theo các nghề đã đăng
ký đóng mới. Việc hướng dẫn cụ thể các quy định thực hiện Nghị định 67/CP còn chậm như hướng
dẫn thực hiện cơ chế hỗ trợ 01 lần sau đầu tư, hướng dẫn quy định nhập khẩu máy thủy cũ, hướng dẫn
thực hiện việc hoàn thuế VAT...
- Về phía Ngân hàng: Một số ngân hàng thương mại đóng trên địa bàn mức phán quyết cho vay của
Giám đốc Chi nhánh đối với khách hàng cá nhân chỉ từ 2-3 tỷ đồng trở xuống nên phải trình hồ sơ về
Hội sở chính phê duyệt làm kéo dài thời gian xem xét, cho vay. Một số ngân hàng còn chưa tích cực,
chưa gắn kết với ngư dân trong việc vay vốn thực hiện đóng tàu theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP. Một
số ngân hàng thực hiện cho vay theo chỉ tiêu phân bổ nên gặp khó khăn trong việc tiếp nhận thẩm
định hồ sơ khi gần hết chỉ tiêu được giao.
- Chính sách thuế còn bất cập, chủ tàu mua các nguyên vật liệu bên ngoài đều có tính thuế VAT,
nhưng không được giảm trừ do người bán không thể xác định chủ tàu nào mua để sử dụng đóng tàu
theo NĐ 67, mức thuế phải chịu khiến chi phí đóng tàu tăng lên.
- Trình độ của ngư dân còn hạn chế, khó tiếp cận và hiểu được các chính sách trong Nghị định và
Thông tư hướng dẫn...
* Đánh giá:
- Tổ chức tổng kết

- Do vậy, để kịp thời điều chỉnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/2015/NĐ-CP (NĐ 89) ngày
7/10/2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều của NĐ 67 để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
Tóm lại: CSC có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội và quản lý nhà nước;
Việc nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kỹ năng về CSC là yêu cầu khách quan, cấp thiết; đồng
thời cần tiếp thu có chọn lọc lý luận và kinh nghiệm trên thế giới về CSC. Trong một xã hội
đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa như ở Việt Nam, CSC ngày càng trở thành đòi hỏi
chính đáng và cấp thiết. CSC phản ánh rõ nét nhất các mục tiêu của Nhà nước và các giải
pháp mà Nhà nước sử dụng để đạt tới các mục tiêu này. Trong một môi trường không ngừng
biến đổi, việc hoạch định, thực thi và đánh giá các CSC sẽ tạo cơ sở vững chắc cho sự phát


CHÍNH SÁCH CÔNG/6
triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo, hướng đến một Nhà nước thực sự của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân./.



×