Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Buổi thảo luận thứ năm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.19 KB, 9 trang )

Buổi thảo luận thứ năm: Trách nhiệm dân sự, vi phạm hợp
đồng
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra.
Câu 1: Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản tiền thiệt hại nào? Nêu rõ đoạn của bản án liên quan đến
từng khoản thiệt hại được bồi thường.
Trả lời:
Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản tiền là tiền tương đương giá trị căn hộ theo giá của hội đồng định giá và
thiệt về tiền thuê nhà.
Đoạn của bản án:
Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh phải trả cho bà Nguyễn Thị Bình giá trị căn hộ AE305
khu căn hộ cao cấp Bitexco số 91 Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, Quận Bình Thạnh số tiền 4.609.094.601 đồng và bồi thường tiền
thuê nhà số tiền 418.000.000 đồng. Tổng cộng Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh (Bitexco)
phải trả cho bà Bình 5.027.094.601 đồng.
Câu 2: Suy nghĩa của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án.
Trả lời:
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lí. Việc Tòa án buộc Bitexco bồi thường giá trị căn hộ và tiền thuê nhà giúp bà Bình đã đảm
quyền lợi của mình trong tranh chấp. Vì theo nhận định cũng như căn cứ của Tòa thì bà Bình đã không có vi phạm nghĩa vụ thanh
toán và Công ty Bitexco đã không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời việc này đã xảy ra thiệt hại là bà Bình phải đi thuê nhà và các
bên trong hợp đồng đã thống nhất cùng nhau hủy hợp đồng nên Tòa tuyên xử hủy hợp đồng và việc hủy hợp đồng mua bán phải bồi
thường theo qui định của pháp luật theo Khoản 2 Điều 307 BLDS 2005: ‘’2.Trách nhiệm bồi thường thiệt về vật chất là trách nhiệm
bù đắp tổn thất về thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.’’
Câu 3: Đoạn nào có cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần?
Trả lời:
Đoạn cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần:
‘’ Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Bính ngày 18/01/2008 thì ngoài những yêu cầu đã xem xét ở trên bà Bình còn yêu cầu bồi thường
thiệt hại về vật chất trong căn hộ AE 305: do nước trào ngược dơ bẩn làm hư hỏng một số tài sản với trị giá 5.000.000 đồng và bồi
thường thiệt hại tinh thần do chất lượng căn hộ không bảo đảm gây ảnh hưởng về tâm lý là 16.000.000 đông. Tại phiên tòa bà xin rút
lại yêu cầu nên cần phải đình chỉ.’’
Câu 4: Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng không? Vì sao?
Trả lời:


Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng. Vì theo khoản Điều 307 BLDS 2005 qui định ‘’trách nhiệm bồi thường thiệt
hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần’’. Như vậy, tổn thất về
tinh thần được bồi thường và qui định này áp dụng cho nghĩa vụ dân sự nói chung nên cũng áp dụng cho nghĩa vụ dân sự phát sinh từ
hợp đồng. Hơn nữa Luật thương mại 2005 yêu cầu phải có thiệt hại thực tế. Ở đây, các nhà làm luật không chỉ nêu thiệt hại thực tế
chứ không nói thiệt hại vật chất trong khi đó thiệt hại thiệt hại thực tế có thể không chỉ là thiệt hại vật chất mà có thể bao gồm tổn thất
về tinh thần. Với các qui định như Luật thương mại 2005 chúng ta có thể và nên suy luận tổn thất về tinh thần được bồi thường nếu nó
thực tế tồn tại. Như vậy, nhìn từ góc độ văn bản, tổn thất về tinh thần trong lĩnh vực hợp đồng cũng được bồi thường.
Câu 5: BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do không thực hiện đúng hợp đồng không? Nêu
rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
Trả lời:
BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do không thực hiện đúng hợp đồng. Theo khoản 3 Điều 419
BLDS 2015 về thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng ‘’theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc’’. Và
trong Luật thương mại 2005 cũng qui định bồi thường thiệt hại về tinh thần phát sinh khi không thực hiện hợp đồng. Cụ thể Điều 302
‘’1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. 2.
Gía trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm’’.

Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng.
Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
Trả lời:
Theo Điều 422 BLDS 2005 qui định về thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm còn Điều 418 BLDS 2015 qui định là thỏa
thuận phạt vi phạm. Cụ thể Khoản 2 Điều 418 BLDS 2015 thêm qui định ‘’trừ trường hợp pháp luật có qui định khác’’ . Ngoài trên sự
thay đổi giữa BLDS 2005 với BLDS 2015 về phạt vi phạm hợp đồng chủ yếu ở Khoản 3 Điều 418 BLDS 2015 và Điều 422 BLDS
2005. Về me62c phạt, BLDS 2005 qui định ‘‘mức phạt do các thỏa thuận’’ (Khoản 2 Điều 422) còn BLDS 2015 theo hướng ‘’mức


phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có qui định khác’’ (khoản 2 Điều 418). Như trên cho thấy là qui
định được bổ sung với lí do hiện nay vẫn có qui luật qui định khác về mức phạt như Luật xây dựng, Luật thương mại có qui định về
mức phạt tối đa (tức các bên không hoàn toàn tự do thỏa thuận về mức phạt). Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 theo hướng ‘’các bên có

thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không bồi thường thiệt hại hoặc vừa nộp phạt vi phạm
và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ nộp tiền phạt vi phạm’’. Ngày
nay, Khoản 3 Điều 418 BLDS 2015 qui định ‘’các bên có thể thỏa thuận về việc vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu phạt vi phạm mà
không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận về
phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
phải chịu phạt vi phạm’’. Từ trên cho thấy qui định cũ đã được lược bỏ vì đây là vấn đề bồi thường thiệt hại và đã có qui định khác
điều chỉnh (Điều 13, Điều 360 BLDS 2015).

* Đối với vụ việc thứ nhất.
Câu 1: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng .
Trả lời:
-Về đối tượng: là một khoản tiền mà buộc phải nộp cho một bên trong hợp đồng.
-Về hình thức: đều được lập thành văn bản.
-Về hậu quả pháp lí: bên vi phạm bị mất một khoản tiền (bên đặt cọc mất một khoản tiền) và không căn cứ vào thiệt hại thực tế.
Câu 2: Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Trả lời:
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc.
Câu 3: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30%.
Trả lời:
Theo em hướng giải quyết của Tòa án là chưa hợp lí. Theo Tòa án về khoản tiền trả trước 30% ban đầu Tòa đã xác định là tiền đặt cọc
theo Khoản 7 Điều 292 Luật thương mại 2005 và Điều 358 BLDS 2005. Khoản tiền này dùng để đảm bảo cho thực hiện hợp đồng.
Nhưng sau đó Tòa lại cho rằng hai bên đã đi vào thực hiện hợp đồng cho nên xác định tiền 30% được dùng để thực hiện đợt giao hàng
lần thứ nhất dẫn đến việc Tòa án bác bỏ kháng cáo của Nguyên đơn yêu cầu Tòa buộc bị đơn bồi thường khoản tiền này với căn cứ là
Khoản 2 Điều 358 BLDS 2005. Việc giải quyết mâu thuẫn như trên của Tòa án đã khiến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
không được đảm bảo.

* Đối với vụ việc thứ hai.
Câu 1: Trong Quyết định của Trọng tài, mức vi phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn như thế nào?
Trả lời:

Theo Quyết định của Trọng tài: ‘’Mức phạt Hợp đồng 30% giá trị của Hợp đồng là cao so với qui định của pháp luật Việt Nam, cụ thể
là Luật thương mại qui định mức phạt hợp đồng không quá 8% giá trị của Hợp đồng, do vậy Bị đơn sẽ chỉ phải thanh toán cho
Nguyên đơn khoản tiền phạt theo luật là 8% giá trị của Hợp đồng.” Như vậy Trọng tài quyết định mức phạt vi phạm hợp đồng được
giới hạn theo Luật thương mại chứ không theo hợp đồng theo Điều 301 Luật thương mại 2005 nên mức vi phạm hợp đồng được giới
hạn không quá 8% giá trị hợp đồng.
Câu 2: So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:
So với văn bản mức phạt vi phạm thuyết phục. Vì Tòa đã dựa theo Điều 301 Luật thương mại 2005 về mức phạt vi phạm như sau
‘’mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng,
nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng vi phạm, trừ trường hợp qui định tại Điều 266 của Luật này.’’ Do mức thỏa thuận
phạt vi phạm là quá cao mất tính công bằng nên Tòa đã lấy giá trị vi phạm là 8%, nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên vi phạm. Mặc dù
Khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 có qui định ‘’mức phạt do các bên qui định’’. Trong trường hợp này đây là tranh chấp về hợp đồng
mua bán nên việc áp dụng Luật thương mại để xử lý mức phạt là hợp lí cho thấy các bên bị giới hạn trong việc định đoạt mức phạt.
Câu 3: Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có được kết hợp với bồi thường thiệt hại
không nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời?
Trả lời:
Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng không kết hợp với bồi thường thiệt hại.
Cơ sở pháp lí:
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 qui định về thực hiện hợp đồng có thỏa thuận vi phạm ‘’3.Các bên có thể thỏa thuận về
việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nọp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệ hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa
phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại’’. Nếu 2 bên
không có thỏa thuận về việc kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ nộp tiền phạt vi phạm.
Tuy nhiên, trong Điều 301 Luật thương mại 2005 lại qui định riêng về mức phạt vi phạm như sau ‘’’mức phạt đối với vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng vi phạm, trừ trường hợp qui định tại Điều 266 của Luật này’’. Và Khoản 2 Điều 307 Luật thương mại 2005 qui
định về chế tài bồi thường thiệt hại và chế tài phạt vi phạm ‘’2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có


quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật có qui định khác’’. Như vậy thì theo luật
thương mại có thể kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại nếu các bên không thỏa thuận về vấn đề này và trừ trường hợp luật

khác qui định.
Câu 4: Trong Quyết định của Trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không? Đoạn nào của quyết
định cho câu trả lời?
Trả lời:
Theo quyết định của Trọng tài phạt vi phạm có kết hợp với bồi thường thiệt hại. Đoạn quyết định là: ‘’ Điều 301 LTM cũng qui định
ngoài mức phạt như trên, bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường
thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị đơn. HĐTT cho rằng
có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao
quá 30% giá trị hợp đồng.
Câu 5: Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng.
Trả lời:
Điểm giống: điều được coi là chế tài mà luật dân sự qui định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm hợp đòng. Cơ sở để áp dụng hai
biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế và bên vi phạm phải có lỗi. Mục đích của việc qui định cũng như áp
dụng biện pháp này là nhằm ngăn ngừa hành vi vi phạm hợp đồng.
Khác nhau:
Phạt hợp đồng
Bồi thường thiệt hại
Cơ sở để áp dụng
Phải có sự thỏa thuận của các Không cần có sự thỏa thuận.
chủ thể về việc áp dụng biện Biện pháp này sẽ được áp dụng
pháp phạt hợp đồng.
khi có hành vi vi phạm gây ra
Không cần có hành vi vi phạm thiệt hại cho chủ thể bị vi phạm
cũng có thể áp dụng.
trên thực tế.
Mục đích chủ yếu
Ngăn ngừa vi phạm
Khắc phục hậu quả thiệt hại do
vi phạm.
Mức độ thiệt hại về vật chất của Do thỏa thuận của các bên. Tối Tùy theo mức độ thiệt hại. Thiệt

người bị áp dụng
đa không quá 5%-8% giá trị hại được tính cả bao gồm cả
phần hợp đồng bị vi phạm.
thiệt hại thực tế và trực tiếp do
hành vi vi phạm hợp đồng gây
ra, những khoản lợi mà người bị
vi phạm đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi phạm.
Câu 6: Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Vì sao?
Trả lời:
Theo văn bản khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn. Vì theo Khoản 2 Điều 307 LTM 2005 có qui
định về chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại như sau ‘’2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi
phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật có qui định khác’’. Vậy bộ luật qui
định mức phạt do các bên thỏa thuận, nghĩa là pháp luật đã giới hạn mức phạt chính bằng mức mà các bên đã thỏa thuận.
Câu 7: Trong quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ
của anh chị về giải pháp trong Quyết định về vấn đề này.
Trả lời:
Trong quyết định của trọng tài khoản tiền do kết hợp phạm vi bồi thường thiệt hại có giới hạn. Do theo qui định ‘’Điều 301 LTM cũng
qui định ngoài mức phạt như trên, bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị đơn. HĐTT
cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không
được cao quá 30% giá trị hợp đồng.’’. Việc này đảm bảo quyền lợi của bên vi phạm phù hợp với các qui định của luật. Tôn trọng
quyền tự do trong quyết định giao kết hợp đồng quyền thỏa thuận vi phạm hợp đồng và Tòa án đã xem xét để đúng với qui định của
pháp luật.
Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Trả lời:
Theo qui định của pháp luật Việt Nam mức phạt vi phạm được áp dụng cho các quan hệ dân sự là mức phạt do các bên thỏa thuận.
Điều này có thể hiểu là các bên có quyền tự ý lựa chọn mức phạt mà không bị khống chế bởi qui định của pháp luật. Riêng đối với các
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, mà cụ thể là các quan hệ pháp luật được pháp luật thương mại điều chỉnh thì mức phạt vi phạm bị hạn
chế ở mức 8%. vì thế chúng ta phải phân biệt những quan hệ nào được luật dân sự điều chỉnh, những quan hệ nào được luật thương

mại điều chỉnh để có cách áp dụng phù hợp. Biện pháp phạt là một biện pháp trách nhiệm được thiết lập vì lợi ích của bne6 bị vi phạm
do đó bên bị vi phạm lựa chọn hay kết hợp bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi của mình. Việc áp dụng chế tài này là phù hợp,


quyền lợi bên bị vi phạm được bảo vệ. Và Tòa đã áp dụng luật thương mại để bảo đảm quyền lợi của bên bị vi phạm và bảo vệ quyền
của bên vi phạm cũng như giúp bên vi phạm thực hiện đúng trách nhiệm của mình.

Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng.
Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường
hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ sở khi trả lời.
Trả lời:
Những điều kiện được coi là bất khả kháng:
- Sự kiện bất khả kháng là một dự kiện khách quan. Sự kiện này tồn tại ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các
hiểm họa thiên nhiên.
- Các bên không thể lường trước được.
- Sự việc xảy ra không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Các bên có thể thỏa thuận với nhau về sự kiện bất khả kháng.
Cơ sở pháp lí:
Theo Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: ‘’ Trường hợp bên có nghãi vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì
không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định’’.
Câu 2: Những hệ quả pháp lí trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và
LTM sửa đổi.
Trả lời:
Căn cứ theo Điểm b Khoản 2 Điều 294 LTM 2005 qui định các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm ‘’ xảy ra sự kiện
bất khả kháng’’ và theo Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: ‘’ Trường hợp bên có nghãi vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất
khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định’’.
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 302 BLDS quy định “trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự” như sau:
“2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”,
Và Khoản 3 Điều 546 BLDS quy định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại” trong Hợp đồng vận chuyển tài sản như sau:

“3. Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì
bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”.
Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với
tình huống trên.
Trả lời:
Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng. Điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng trên là:
- Thứ nhất đây là sự kiện xảy ra một cách khách quan do yếu tố là hiểm họa thiên nhiên nó tồn tại ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi
phạm hợp đồng.
- Thứ hai các bên không thể lường trước được do các bên không thể nào biết được tàu cả thể bị chìm tại thời điểm giao kết.
- Thứ ba không thể khắc phục được mặc dù không biết là bên vận chuyển có áp dụng các biện pháp cần thiết và khả năng cho phép
hay chưa.
Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng hóa bị hư hỏng
không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
Trả lời:
Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng thì anh Văn không phải bồi thường cho anh Bình theo qui định của pháp luật. Cụ thể
tại Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: ‘’ Trường hợp bên có nghãi vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không
phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định’’. Thì anh Văn không chịu trách nhiệm
dân sự đồng nghĩa với việc anh không cần bồi thường.
Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng hóa hư
hỏng thì anh Văn có được yêu cầu công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản
và thực tiễn xét xử.
Trả lời:
Anh Văn có thể yêu cầu Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền trên. Thực tiễn xét sử theo Bản án trong Luật hợp đồng của PGS.TS
Đỗ Văn Đại có Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30-5-2003 của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bản án được tóm tắt như sau:
‘’Ông Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ông Điền và ông Trình bằng tàu của ông. Ông khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ
tàu và trong hợp đồng có nêu rõ điều kiện bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt nhận
trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do
mưa gió to, nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000 đồng số tiền vịt. Vì ông Khóm
thỏa thuận trong hợp đồng với ông Trình ông Điền nên đã bồi thường số tiền trên.Nay ông Khóm yêu cầu Bảo Việt hoàn trả ông số

tiền nói trên.Về vụ việc trên, theo Tòa vì các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm nói trên và theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho
phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả


kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trình, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An
Giang. Mặt dù Bảo Việt cho rằng theo Điều 30 Thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy nội địa thì bên vận chuyển được miễn
bồi thường trong trường hợp thiên tai, địch họa hay bất khả kháng’’.

Vấn đề 4: Tìm kiếm bản án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Mỗi nhóm tự tìm ít nhất 01 bản án (Quyết định) của Tòa án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà Tòa án đã áp dụng
BLDS 2015.
Cho biết suy nghĩ của nhóm về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án (quyết định) liên quan đến chậm thanh toán mà nhóm đã
tìm thấy.
Bản án: Bản án số 191/2017/DS-ST Ngày 18/8/2017 ‘’Vụ việc tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản’’.
TÒA ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN AN
PHÚ
TỈNH AN GIANG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 191/ 2017 / DS - ST Ngày:
18 / 8 / 2017
“V/v tranh chấp hợp đồng dân sự vay
tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Quang Bảo.
Các Hội thẩm nhân dân:

1. Ông Huỳnh Thanh Bình
2. Bà Nguyễn Thị Kim Uyên
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Sang - Thư ký Tòa án nhân dân huyện An Phú.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú tham gia phiên tòa: Ông Hồ Nguyễn Thiết Bảnh – Kiểm sát viên
Ngày 18 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú xét xử công khai vụ án thụ lý số:
45/2017/TLST - DS ngày 07 tháng 3 năm 2017 về việc “ Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 305/2017/QĐXXST - DS ngày 14 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự.

1.

Nguyên đơn: Ông Bùi Văn H, sinh năm: 1963;

Địa chỉ: Tổ 43, ấp Đồng Ky, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

2.

Bị đơn:

Ông Nguyễn Phú C, sinh năm 1984

Địa chỉ: Tổ 05, ấp Quốc Khánh, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang.
( Ông H có mặt, ông C vắng mặt )
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, ông H trình bày: Xuất phát từ mối quan hệ quen biết, ngày 01/5/2016
AL ông C đến gặp ông hỏi mượn số tiền là 50.000.000 đồng, hẹn sau 01 tháng sẽ trả nhưng khi ông đến gặp ông C yêu
cầu trả nợ thì ông C chỉ hứa hẹn mà không thực hiện.
Nay ông yêu cầu ông C trả lại cho ông 50.000.000 đồng, trả một lần, không yêu cầu tính lãi, ngoài ra không yêu

cầu gì khác.
Bị đơn là ông Nguyễn Phú C không có bản tự khai trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông H.


Tòa án đã mở phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải để các đương sự thực
hiện quyền, nghĩa vụ của mình và thỏa thuận với nhau về cách giải quyết vụ án nhưng do ông C vắng mặt nên không hòa
giải được. Tại phiên họp ông H không cung cấp thêm chứng cứ mới hoặc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, người
tham gia tố tụng khác.
Để đảm bảo quyền lợi cho bị đơn, Tòa án đã thực hiện thủ tục xác minh tình trạng cư trú và tống đạt Quyết định
yêu cầu cung cấp chứng cứ về việc đã thanh toán khoản nợ mà ông H yêu cầu cho ông C theo quy định nhưng ông C
không có văn bản trình bày ý kiến gửi cho Tòa án.
Tại phiên tòa, ông H bảo lưu ý kiến đã trình bày tại phiên hòa giải ngày 18/4/2017, trình bày bổ sung thời điểm
cuối cùng ông đến gặp ông C yêu cầu trả nợ là sau Tết nguyên đán 2017 nhưng do ông C tránh mặt nên không gặp. Ông
C vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tiến hành tố
tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự phát biểu ý kiến: Thẩm phán trong quá trình tiến hành tố tụng như
xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ...đúng theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự; tại phiên tòa Hội đồng xét xử đúng thành phần không thuộc trường hợp phải thay đổi hay bị
thay đổi, bị đơn vắng mặt lần thứ hai mặc dù đã triệu tập hợp lệ nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng
pháp luật.
Về nội dung vụ án, theo quan diểm của đại diện Viện kiểm sát thì: Tòa án thụ lý yêu cầu của ông H là đúng thẩm
quyền. Do ông C vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ông H khởi kiện là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông H, buộc ông C có nghĩa vụ thanh toán theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình
bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Bùi Văn H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện An Phú giải quyết buộc ông Nguyễn Phú C
thanh toán khoản nợ vay; ông C có địa chỉ thường trú tại xã Quốc Thái, huyện An Phú. Căn cứ quy định tại Khoản 1
Điều 28, và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án tranh chấp Hợp đồng vay tài sản và

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Phú.
Tại phiên tòa, ông C vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật
tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông.
Ông Nguyễn Phú C không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không
tham gia hòa giải, không cung cấp chứng cứ chứng minh việc đã
thanh toán khoản nợ vay cho Tòa án. Căn cứ Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án theo những chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án.

[2] Về nội dung vụ án và căn cứ áp dụng pháp luật: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các
đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Ngày 01/5/2016 AL, ông C có vay của ông H số tiền là 50.000.000 đồng,
không thỏa thuận lãi suất, thời điểm thanh toán và có làm biên nhận. Mặc dù việc vay tiền phát sinh trước ngày Bộ luật
dân sự 2015 có hiệu lực thi hành nhưng thời điểm quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn bị xâm phạm là sau ngày
01/01/2017, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, Tòa án áp dụng những quy định của Bộ luật dân
sự 2015 để giải quyết vụ án.
Việc vay tiền được lập thành văn bản nhưng không ấn định thời gian thanh toán. Các bên tham gia giao dịch là
người có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi, việc tham gia giao dịch xuất phát từ sự tự nguyện và nội
dung giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Mặc dù nguyên đơn cho rằng khi vay
các bên thỏa thuận thời điểm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là sau 01 tháng kể từ ngày nhận tiền nhưng ngoài lời trình
bày của nguyên đơn thì không có chứng cứ khác thể hiện các bên có thỏa thuận thời gian cũng như phương thức thanh
toán nên có căn cứ xác định đây là hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn và không có lãi theo quy định tại Điều 469 Bộ
luật dân sự năm 2015. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên nguyên đơn khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.


[3] Về lãi suất và số tiền vốn phải thanh toán: quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa, ông H cho biết khi vay các bên
không có thỏa thuận lãi suất và ông cũng không yêu cầu tính lãi đối với khoản tiền này, do vậy Hội đồng xét xử không
xem xét.
Đối với yêu cầu buộc bị đơn trả một lần dứt điểm số nợ còn thiếu của nguyên đơn là không có cơ sở xem xét bởi
lẽ phương thức trả nợ do các bên đương sự tự thỏa thuận tại cơ quan Thi hành án. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông H, buộc ông C có nghĩa vụ trả cho ông H 50.000.000 ( năm chục triệu ) đồng.


[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: ông H
không phải chịu án phí, ông được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Ông C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 91,
147, 227, 273, 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 351, 466, 469, 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều
26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn H.
Buộc ông Nguyễn Phú C phải trả cho ông Bùi Văn H số tiền 50.000.000 ( năm chục triệu ) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành đầy đủ khoản tiền nêu trên thì
còn phải chịu lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.
Án phí: Ông C phải chịu 2.500.000 ( hai triệu năm trăm ngàn ) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông H không phải chịu án phí, ông được nhận lại số tiền 1.250.000 ( một triệu hai trăm năm chục ngàn ) đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005731 ngày 07/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng
mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án thì thời hạn kháng cáo được tính 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án
hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người
được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

*Nơi gủi:
- TAND tỉnh AG;
- VKS H. AP;
- THA H. AP;
- Các đương sự;.
- Lưu HS + VP.


TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ
THẨM
Thẩm phán –Chủ tọa phiên tòa

Nguyễn Quang Bảo
Suy nghĩ: Trong Quyết định trên Tòa đã xử đúng theo qui định pháp luật. Mặc dù không có mặt của bị đơn nhưng Tòa vẫn đảm bảo
quyền của Nguyên đơn do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.





Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×