Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tìm hiểu việc thu phí dịch vụ trong việc phát hành và sử dụng thẻ ATM của các ngân hàng thương mại theo quy định pháp luật và nêu ý kiến pháp lý khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.79 KB, 15 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang
tính chất tổng hợp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng, ngân hàng thương mại
hình thành trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi trao
đổi hàng hoá phát triển quay trở lại kích thích sản xuất hàng hóa. Cùng với sự
phát triển đó, các nghiệp vụ được phát triển dần như giữ tiền hộ, chi trả hộ... trên
cơ sở đó thực hiện hoạt động tín dụng.
Người ta cho rằng các ngân hàng về hình thức là những công ty tài chính
và nó giống với bất kỳ công ty tài chính nào khác. Việc tồn tại của ngân hàng
thương mại nhằm vào mục đích hình thành các yếu tố kích thích tiết kiệm trong
phạm vi nền kinh tế và bản thân nó luôn hướng vào mục đích lợi nhuận. Để đạt
được mục địch, thì khi ngân hàng cung cấp các dịch vụ sẽ đều thu phí dịch vụ
như một phần lợi nhuận. Trong đó, việc phát hành và sử dụng thẻ ATM của các
ngân hàng thương mại là vấn đề đáng được quan tâm. Hiện nay, cũng đã có
nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh vấn đề này. Để tìm hiểu rõ hơn, em xin chọn đề
tài:” Tìm hiểu việc thu phí dịch vụ trong việc phát hành và sử dụng thẻ ATM
của các ngân hàng thương mại theo quy định pháp luật và nêu ý kiến pháp lý
khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng?” Làm đề tài cho bài tiểu luận.

B. NỘI DUNG
1. Hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm hoạt động dịch vụ ngân hàng
Hiện nay tại mỗi quốc gia lại có cách hiểu khác nhau về dịch vụ mà chưa
có sự thống nhất về định nghĩa. Hiệp định chung về thương mại của Tổ chức


thương mại Thế giới cũng không nêu rõ về định nghĩa dịch vụ mà thay vào đó
chia thành 12 ngành lớn.
Nói đến dịch vụ ngân hàng người ta thường gắn nó với hai đặc điểm:
Thứ nhất: Đó là các dịch vụ chỉ có các ngân hàng với những ưu thế của nó mới


có thể thực hiện một cách tronhj ven đầy đủ.
Ưu thế của các ngân hàng thương mại được thể hiện ở các điểm sau đây:
-

Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp, không những ở trong nước

mà còn ở nước ngoài.
-

Có quan hệ với nhiều công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế…do đó nắm bắt

được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chỉnh của khách hàng một cách
cụ thể sâu sắc, biết được những điểm mạnh, điểm yếu của từng khách hàng.
-

Có trang bị hệ thống thông tin hiện đại đồng thời nhận và nắm bắt được

nhiều thông tin về tình hình kinh tế, tài chính, tình hình tiền tệ,giá cả, tỷ giá…và
diễn biến của nó trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ hai: đó là các dịch vụ gắn liền với hoạt động ngân hành, không những cho
phép các ngân hàng thương mại thực hiện tốt yêu cầu của khách hàng mà còn hỗ
trợ tích cực để ngân hàng thương mại thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng
và trung gian thanh toán.
Dịch vụ ngân hàng mà ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng không
chỉ thuần tuý để hưởng hoa hồng và dịch vụ phí(yếu tố làm tăng doanh thu và lợi
nhuận cho ngân hàng) mà dịch vụ ngân hàng cũng có tác dụng hỗ trợ các mặt
hoạt động chính của ngân hàng thương mại mà trước hết là hoạt động tín dụng.
1.2. Một số loại hình dịch vụ của ngân hàng thương mại



1.2.1. Dịch vụ tín dụng
Ngân hàng làm chức năng trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối giữa
người thừa vốn và người thiếu vốn”. Nói cách khác, ngân hàng sau khi huy động
được các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế sẽ hình thành nên quỹ
cho vay của ngân hàng và sẽ sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ
thể trong nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này ngân
hàng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Hay nói cách khác,
nghiệp vụ tín dụng ngân hàng của Ngân hàng thương mại đi vay là để cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ
trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sở dĩ không phải là một tổ chức nào khác
trong nền kinh tế mà lại là ngân hàng đứng ra thực hiện chức năng này vì ngân
hành là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, họ có đầy đủ kinh
nghiệm và sự hiểu biết về tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế do vậy
họ có thể khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính đó là sự
không khớp nhịp giữa cung cầu tín dụng về thời hạn và số lượng tức là thông qua
việc thu hút tiền gửi với một số lượng lớn ngân hàng có thể giải quyết mối quan
hệ giữa cung cầu tín dụng cả về khối lượng vốn cho vay và thời gian cho vay .
Điển hình là dịch vụ thẻ ngân hàng. Thẻ ngân hàng là một công cụ thanh
toán hiện đại do ngân hàng phát hành và bán cho các đơn vị và cá nhân để họ sử
dụng trong thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt, nạp tiền,
chuyển khoản…thông qua hệ thống ATM, POS của ngân hàng.
Thanh toán thông qua POS là hình thức thanh toán không dung tiền mặt
bằng cách sử dụng giao tiếp giữa thiết bị đọc thẻ với thẻ ngân hàng. Qua đó hệ
thống tự động trích tiền từ tài khoản của người mua trả cho người bán tức thời.


Về hình thức,thẻ thanh toán có nhiều loại khác nhau, trước mắt ở nước ta
phát hành và sử dụng hai loại thẻ sau:
-Thẻ thanh toán( còn gọi là thẻATM): thẻ thanh toán áp dụng rộng rãi cho mọi
khách hàng trong nước và ngoài nước với điều kiện là khách hàng phải mở tài

khoản tại ngân hàng và được sử dụng thercos giá trị bằng số tiền trên tài khoản
đó để thanh toán.
-Thẻ tín dụng: khách hàng sau khi ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng sẽ được
ngân hàng cấp cho một thẻ tín dụng với một “ hạn mức tín dụng” được ghi vào
bộ nhớ của thẻ để thanh toán với người bán. Sau khi sử dụng thẻ, khách hàng
phải trả nợ gốc cho ngân hàng phát hành thẻ trong thời hạn quy định. Nếu như
trễ hạn thì phải trả lãi cho ngân hàng.
1.2.2. Dịch vụ thanh toán
a. Dịch vụ thanh toán trong nước
Ngân hàng thương mại được tổ chức thanh toán nội bộ, tham gia hệ thống
thanh toán liên ngân hàng quốc gia. Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao
gồm séc, lệnh chi, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân
hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ.
Với mạng lưới trải rộng khắp cả nước, các ngân hàng thương mại đã tận
dụng lợi thế thực hiện chức năng trung gian thanh toán cho các khách hàng của
mình và nhờ vậy mà việc thực hiện thanh toán thông qua ngân hàng của cá nhân
và doanh nghiệp trở nên đơn giản và rẻ hơn. Mặc dù dịch vụ này thông thường
có mức phí trên một giao dịch không cao nhưng do số lượng giao dịch lớn, số
tiền phí thu được không phải là nhỏ. Ngoài ra, nhờ có dịch vụ thanh toán trong
nước mà các ngân hàng thương mại tận dụng được số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng với chi phí khá thấp.


b. Dịch vụ thanh toán quốc tế
Ngân hàng thương mại được tham gia hệ thống thanh toán quốc tế sau khi
được ngân hàng nhà nước chấp thuận. Khi tham gia vào các giao dịch mua bán
với các đối tác nước ngoài, khách hàng thường được sử dụng các dịch vụ thanh
toán quốc tế của ngân hàng để thanh toán ứng trước hoặc mua hàng trả chậm, trả
ngay bằng các phương thức thanh toán khác nhau. Thông qua việc sử dụng các
dịch vụ trên, ngân hàng thương mại cũng thu được các loại phí của khách hàng,

nâng cao uy tín của mình đối với các đối tác bên ngoài.
1.2.3. Dịch vụ ngoại hối
Cung ứng dịch vụ ngoại hối là hoạt động cần thiết trong đời sống kinh tếxã hội nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng ngoại hối đa dạng của tổ chức, cá nhân
trong hoạt động dân sự và thương mại. Ở Việt Nam, cung ứng dịch vụ ngoại hối
có thể thực hiện bởi ngân hàng thương mại. Để cung ứng dịch vụ ngoại hối đến
tay khách hàng với chất lượng tốt nhất, các ngân hàng phải kí kết và thực hiện
các hợp đồng dịch vụ ngoại hối. Hợp đồng này có thể do từng ngân hàng quy
định mẫu hoặc tuân theo mẫu chung về hợp đồng do Hiệp hội ngân hàng quy
định.
Theo quy định hiện hành, khi đáp ứng các điều kiện do ngân hàng nhà
nước quy định, các ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ ngoại hối
sau:
- Cung cấp các giao dịch hối đoái dưới hình thức giao dịch giao ngay, giao
dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, giao dịch quyền lựa chọn, giao dịch hợp đồng
tương lai và các giao dịch hối đoái khác theo thông lệ quốc tế.
- Huy động vốn, cho vay và bảo lãnh bằng ngoại tệ dưới các hình thức
theo quy định của pháp luật,


- Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền, thanh toán trong nước và quốc tế cho
người cứ trú và không cư trú, thực hiện các nghiệp vụ nhận và chi trả ngoại tệ,
- Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá bằng ngoại tệ,
-…..
Trong quá trình cung cấp dịch vụ ngoại hối, mỗi ngân hàng phải niêm yết
công khai bằng giá dịch vụ ngoại hối tại hội sở chính hoặc văn phòng giao dịch
của chi nhánh, sở giao dịch để khách hàng tham khảo. Việc dành cho khách hàng
lựa chọn tốt nhất về giá cả và chất lượng dịch vụ ngoại hối chính là cách để mỗi
ngân hàng nâng cao uý tín và khẳng định thương hiệu của mình trên thương
trường.
1.2.4. Một số dịch vụ khác

a. Dịch vụ bảo hiểm
Ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo hiểm và hưởng phí môi giới cho tất cả
khách hàng qua các công ty con và các nhà mô giwois bảo hiểm. Các dịch vụ
bảo hiểm mà ngân hàng thương mại có thể thực hiện: bảo hiểm tín dụng, bảo
hiểm nhân thọ,bảo hiểm tài sản…
b. Dịch vụ tư vấn, đầu tư, cung cấp thông tin
Ngân hàng chọn lọc và cung cấp cho khách hàng những thông tin như giá
cả hàng hoá, tỷ gía hối đoái, thị trường chứng khoán, tình hình tài chính của
khách hàng chuản bị giao dịch với doanh nghiệp… Ngoài ra hoạt động tư vấn
của ngân hàng cho khách hàng còn có các dịch vụ: quản lý hiệu quả dòng tiền,
xác định cơ cấu vốn hiệu quả, tư vấn trong quản lý rủi ro trong kinh doanh…
c. Dịch vụ giữ hộ(dịch vụ giữ hộ két sắt)


Dịch vụ giữ vụ là nghiệp vụ mà các ngân hàng giữ hộ tài sản quay, các tài
liệu quan trọng cho khách hàng như vàng, đá quý, sổ tiết kiệm, giấy tờ nhà….
d. Dịch vụ chi trả kiều hối
Là dịch vụ mà các ngân hàng làm trung gian để chuyển nguồn tiền của
kiều bào về nước cho than nhân để đầu tư, mua nhà ở, tài sản… Các ngân hàng
thương liên kết với các tổ chức chuyên về dịch vụ chuyển tiền cá nhân quốc tế
phục vujnhu cầu chuyển tiền về nước của kiều bào.
Đây là một loại hình dịch vụ phí khá hấp dẫn khi môi trường kinh tế xã
hội của Việt Nam ngày càng ổn định làm an tâm kiều bào ở các nước, giúp cho
doanh số chuyển tiền kiều hối qua hệ thống ngân hàng tăng dần qua các năm.
Ngoài các khoản phí chuyển tiền kiều hối thu được, các ngân hàng có cơ hội thu
lợi nhuận từ hoạt động chuyển đổi ngoại tệ trong các giao dịch kiều hối.
2. Tìm hiểu việc thu phí dịch vụ trong việc phát hành và sử dụng thẻ ATM
của các ngân hàng thương mại theo quy định pháp luật
Việc thu phí và lệ phí được quy định tại Luật phí và lệ phí năm 2015. Về
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: thì ngân hàng thương mại

được quyền ấn định và niêm yết mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Ngân hàng và khách hàng có thể thỏa thuận về mức phí
theo quy định về pháp luật. Trong trường hợp

hoạt động ngân hàng có diễn

biến bất thường, để đảm bảo an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng
nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí trong hoạt động kinh doanh.
Nội dung này được quy định tại Điều 91, Luật tổ chức tín dụng năm 2010.
Việc thu phí dịch vụ của ngân hàng thương mại thì tuỳ vào loại hình dịch
vụ của ngân hàng lại có những văn bản pháp lý quy định riêng sao cho phù hợp.


Thứ nhất đối với dịch vụ cấp tín dụng:
Điển hình là dịch vụ thẻ ATM: Kể từ ngày 1/3/2013, Thông tư số
35/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành quy định về phí
dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa có hiệu lực thi hành. Ngoài phí rút tiền ngoại mạng thì
chủ thẻ gánh thêm hàng loạt phí khác như phí rút tiền nội mạng (rút tại chính
máy ATM của ngân hàng phát hành thẻ), phí chuyển khoản...Trong giai đoạn
hiện nay, mục đích của việc thu phí đối với giao dịch ATM rút tiền nội mạng
không nhằm bù đắp, thu hồi toàn bộ chi phí giao dịch mà chỉ giúp các ngân hàng
cân đối một phần chi phí bỏ ra, dung hòa lợi ích giữa khách hàng với ngân hàng,
hướng đến sự phát triển bền vững của dịch vụ ATM...về cơ sở pháp lý và thực
tiễn thì việc thu phí ATM là cần thiết và đã được quy định theo lộ trình cụ thể, có
sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng nhà nước.
Thứ hai đối với dịch vụ thanh toán:
Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt của Chính
phủ,tại điều 17 có quy định: “1. Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và tổ chức
cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán ấn định và phải niêm yết công khai các
mức phí cung ứng dịch vụ.

2. Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm
an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế
xác định phí dịch vụ thanh toán và phí dịch vụ trung gian thanh toán.”
Như vậy việc quy định mức phí dịch vụ sẽ do ngân hàng thương mại ấn
định, tuỳ vào mức độ tự cho là có chất lượng phục vụ tốt để ngân hàng tự đưa ra
mức phí cao hay thấp.
Thứ ba ,đối với dịch vụ ngoại hối,tại Nghị định số 70/2014/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số diều của Pháp ệnh ngoại hối và pháp lệnh sửa đổi,


bổ sung một số Điều của pháp lệnh ngoại hối của Chính phủ thì không nói đến
về việc thu phí dịch vụ.
Tuy nhiên đối với giao dịch ngoại tệ, tại Điều 11 Thông tư số 15/2015/TTNHNN hướng dẫn giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ của các tổ chức tín
dụng được phép hoạt động ngoại hối của ngân hàng nhà nước lại quy dịnh :” Tổ
chức tín dụng được phép không được thu phí giao dịch đối với giao dịch ngoại
tệ.”
Như vậy tuỳ vào loại hình dịch vụ mà pháp luật có quy định có hay không
việc thu phí dịch vụ, nếu có thì mức phí dịch vụ sẽ do ngân hàng ấn định hoặc 2
bên khách hàng sẽ ấn định với nhau…
Thứ tư, đối với dịch vụ uỷ thác, tại thông tư số 30/2014/TT-NHNN quy
định về uỷ thác và nhận uỷ thác của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài cũng chỉ quy định mức phí là một trong điều khoản bắt buộc đối với
hợp đồng uỷ thác , còn mức phí như thế nào thì lại do các bên thoả thuận…
Ngoài ra còn một số các dịch vụ khác của ngân hàng thương mại pháp luật
cũng không quy định cụ thể về việc thu phí dịch vụ:
Ví dụ như với dịch vụ môi giới tiền tề Tại Điều 8, Thông tư số 17/2016/TTNHNN quy định về hoạt động môi giới tiền tệ của ngân hàng thương mại và chi
nhánh ngân hàng nước ngoài có quy đinh: “Phí môi giới tiền tệ và các chi phí
khác có liên quan do bên môi giới và khách hàng thỏa thuận”. Như vậy phí dịch
vụ sẽ do bên ngân hàng thương mại với khách hàng tự thoả thuận sao cho phù
hợp.

Hay đối với dịch vụ bảo hiểm ngày 02/7/2014, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành Thông tư liên tịch số 86/2014/TTLT-BTC-NHNNVN (Thông
tư 86) hướng dẫn hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng, chi nhánh


ngân hàng nước ngoài cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Thông tư 86 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/ 9 /2014. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên hướng dẫn toàn
diện hoạt động cung ứng dịch vụ bảo hiểm nhân thọ của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài với tư cách là đại lý bảo hiểm cho các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ, theo đó có nội dung quy định về phí dịch vụ: “ Thu
phí bảo hiểm: Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thu hộ các
khoản phí bảo hiểm từ khách hàng và chuyển lại cho doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ theo thỏa thuận tại hợp đồng đại lý bảo hiểm”….
Tóm lại, việc thu phí dịch vụ của ngân hàng thương mại thì tuỳ vào loại
hình dịch vụ mà pháp luật sẽ có những quy định riêng, có những loại hình mà
pháp luật cho thu phí, có loại hình lại không cho thu phí. Nếu được thu phí dịch
vụ, thì lại có cái ngân hàng ấn định giá, có cái thì tự ngân hàng với khách hàng
sẽ thoả thuận với nhau cho phù hợp…
3. Thực tiễn việc thu phí dịch vụ trong việc phát hành và sử dụng thẻ ATM
của accs ngân ahfng thương mại
Thực tế mỗi ngân hàng lại có những chính sách về thu phí dịch vụ khác
nhau để thu hút khách hàng. Một số ngân hàng miễn phí dịch vụ này nhưng lại
thu phí dịch vụ khác, cũng có ngân hàng lại thu phí cao hơn với bình quân với lý
do là tự cho có chất lượng phục vụ tốt.
Tuy nhiên, theo các phân tích trên chúng ta thấy rằng thu nhập từ các dịch
vụ ngân hàng hiện đại của các Ngân hàng thương mại đã tăng qua các năm
nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập của ngân hàng . Và trên
thực tế thời gian vừa qua, trong khi các Ngân hàng thương mại Việt Nam lao vào
cuộc đua lãi suất cho vay, giảm điều kiện các tài sản đảm bảo tín dụng thì từ lâu,
ở phạm vi toàn cầu, các ngân hàng nước ngoài đã lấy chất lượng dịch vụ và sự đa

dạng của sản phẩm để làm công cụ cạnh tranh chủ yếu nhằm mang lại các khoản


thu phí hấp dẫn và an toàn. Chúng ta có thể xem xét các con số cụ thể của một số
ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam (VCB), Sacombank, Ngân hàng á Châu, Eximbank Việt Nam,
Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB Bank), United Overseas Bank (ngân
hàng của Singapore đã có chi nhánh tại Việt Nam), ANZ (ngân hàng của New
Zealand đã có chi nhánh tại Việt Nam), HSCB (ngân hàng của Anh Quốc đã có
chi nhánh tại Việt Nam).
Đối với mảng dịch vụ tín dụng, Nhìn chung, các ngân hàng thương mại đã
chú trọng đến mảng dịch vụ như phát hành tín dụng thư, thanh toán quốc tế,
chuyển tiền dàng cho doanh nghiệp, phát hành thẻ ATM, thẻ thanh toán quốc tế,
chuyển tiền cho khách hàng cá nhân để tăng thu lợi nhuận. Các ngân hàng
thương mại cũng tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, phát triển sản phẩm dịch
vụ và quan tâm đến công tác chăm sóc khách hàng.
Cụ thể, với thẻ ngân hàng đang ngày càng phổ biến nhờ sự tiện dụng và
các ưu đãi mà nó mang lại. Tuy nhiên, xung quanh phí dịch vụ gắn liền với các
loại thẻ thời gian qua đã gây nhiều tranh cãi mà một phần là do từ phía người
tiêu dùng vẫn còn mù mờ về phí dịch vụ. Để cạnh tranh số lượng thẻ phát hành,
giữa các ngân hàng đã diễn ra các cuộc đua ưu đãi. Nhiều loại thẻ được phát
hành miễn phí, thậm chí còn được đi kèm nhiều khuyến mãi. Tuy nhiên, hầu như
những ưu đãi này chỉ kéo dài một thời gian ngắn, và khách hàng, sớm hay muộn
vẫn phải làm quen với việc trả phí. Sử dụng loại thẻ nào, của ngân hàng nào để
tối thiểu hóa chi phí vẫn là băn khoăn của rất nhiều người sử dụng thẻ.
Qua khảo sát cho biết thẻ ATM của VietinBank đang là một trong những
loại thẻ ngân hàng có phí thường niên đối với thẻ tín dụng quốc tế hạng chuẩn
thấp nhất, hiện tại ngân hàng này đang áp dụng mức phí 90.000 đồng/tháng. Các
ngân hàng thương mại khối quốc doanh còn lại tuy áp dụng mức phí cao hơn



nhưng vẫn đang nằm trong nhóm thấp trong hệ thống, Vietcombank là 200.000
đồng, BIDV là 200.000- 4000.000 đồng. Không chỉ phí thường niên, lãi suất vay
của các ngân hàng này cũng thuộc dạng thấp, tại Vietcombank là 18%/ năm ( tức
1,5%/tháng), BIDV là 1,25-1,5%/ tháng .
Trong khi đó, nhóm ngân hàng thương mại tư nhân hay ngân hàng nước
ngoài lại thu phí cao hơn khá nhiều...Thẻ tín dụng của HSBC có mức lãi suất từ
2,2 – 2,6%/tháng, phí thường niên cũng tùy loại, từ 350.000 đồng đối với thẻ
chuẩn và 1,2 triệu đồng cho thẻ Bạch kim. ANZ cũng thu phí từ 350 nghìn đồng
trở lên, cùng lãi suất quá hạn từ 2,7%/tháng. Citibank đang là ngân hàng có các
mức phí cao nhất, phí thường niên của ngân hàng này lên đến 800.000 đồng – 1,
5 triệu đồng; lãi suất 2,15-2,5% /tháng.
4. Ý kiến pháp lý khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc thu phí dịch vụ
trong việc phát hành và sử dụng thẻ ATM của các ngân hàng thương mại
Nhận thức về xu thế của sự phát triển dịch vụ trong hoạt động ngân hàng
hiện đại nên nhiều ngân hàng thương mại đã và đang đầu tư công nghệ hiện đại,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh các hoạt động Marketing ... nâng
cao và hoàn thiện chất lượng sản phẩm theo chuẩn mực quốc tế nhưng có sự
tương thích với thực tế thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó có sự sắp xếp lại cơ
cấu tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ quản trị điều hành, mở
rộng mạng lưới giao dịch ... gắn với cơ chế lương để phát triển mạnh kinh doanh
dịch vụ. Các ngân hàng thương mại đã chủ động hình thành phong cách chủ
động đến với khách hàng, tạo ra nhu cầu sử dụng dịch vụ để thu hút khách hàng,
đặc biệt là trong dịch vụ ngoại hối, phát hành thẻ tín dụng, thẻ ATM, dịch vụ trả
lương tự động ... Nhiều ngân hàng đã đề ra chiến lược tiếp cận và cung cấp trọn
gói tất cả các dịch vụ đối với một khách hàng, một doanh nghiệp giao dịch thay
vì cung cấp những dịch vụ đơn lẻ theo nhu cầu của khách hàng như trước đây.


Đang có sự đầu tư và cạnh tranh giữa các ngân hàng về các sản phẩm mới trên

nền tảng công nghệ hiện đại. Một số sản phẩm tiêu biểu của các ngân hàng trong
năm là Thẻ ATM và các dịch vụ đi kèm, thẻ Visa, Master, thẻ tín dụng, e-banking
(thanh toán online qua ngân hàng), internet banking (truy vấn thông tin trực
tuyến) ...
Các hạn chế trong khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt
Nam là bề dày kinh nghiệm kinh doanh ngân hàng còn hạn chế. Các ngân hàng
nước ngoài với hàng trăm năm kinh nghiệm đã thật sự lão luyện trong việc liên
tục duy trì và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho tất cả các đối tượng
khách hàng trên toàn cầu. Theo đó, khi các ngân hàng trong nước lấy hoạt động
tín dụng là nguồn thu chính (hơn 80%) thì các ngân hàng nước ngoài dùng hoạt
động tín dụng như một bàn đạp nhằm khai thác các cơ hội thu phí từ khách hàng.
Nói chung, các ngân hàng thương mại Việt Nam xét về mặt kinh nghiệm
cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng thì còn thua kém rất nhiều so ngân hàng
của các nước có nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy, các ngân hàng trong nước
vẫn chưa thể gia tăng nhanh doanh số thu phí từ các khách hàng giao dịch qua
ngân hàng mình. Sự chậm chạp, phiền hà kèm với sự kém sáng tạo đã làm hạn
chế sự kết gắn giữa khách hàng và ngân hàng thương mại Việt Nam. Ngoài ra,
mặc dù có số lượng ít hơn tại Việt Nam (xét kể cả về mạng lưới) nhưng các ngân
hàng nước ngoài có mặt tại Việt Nam luôn là các đối thủ đáng gờm đối với các
ngân hàng Việt Nam và 36 họ cũng đang chia sẻ một thị phần không nhỏ trong
hoạt động cung cấp và thu phí dịch vụ cho các khách hàng cá nhân và doanh
nghiệp hoạt động tại Việt Nam.

C. KẾT LUẬN


Như vậy qua tìm trên đây cho thấy xu thế chung hiện nay các ngân hàng
tập trung hoàn thiện tốt hơn các dịch vụ của mình nhằm không ngừng tăng nhanh
tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân hàng. Đây là những nghiệp vụ
thuộc tài sản có của ngân hàng thương mại. Từ đó đòi hỏi các ngân hàng thương

mại cần có nhưng chiến lược phù hợp để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của
mình để thu được lợi nhuận cao, góp phần phát triển vào kinh tế đất nước

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1 Đại học luật Hà Nội, Giao trình luật ngân hàng, NXB.CAND, 2015.
2 Luật tổ chức tín dụng năm 2010
3 Luật phí và lệ phí năm 2015
4 Nghị định số 70/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số diều của
Pháp lệnh ngoại hối và pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số Điều của pháp
lệnh ngoại hối
5 Thông tư số 15/2015/TT-NHNN hướng dẫn giao dịch ngoại tệ trên thị
trường ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối
của ngân hàng nhà nước
6 Thông tư số 30/2014/TT-NHNN quy định về uỷ thác và nhận uỷ thác của
tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài
7 Thông tư số 17/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động môi giới tiền tệ
của ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài
8 Thông tư liên tịch số 86/2014/TTLT-BTC-NHNNVN (Thông tư 86) hướng
dẫn hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ



×