ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ QUẤT
NHÂN VẬT NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1975
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ QUẤT
NHÂN VẬT NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1975
Chuyên ngành: Lý luận văn học
MÃ SỐ: 62 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS LÝ HOÀI THU
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chƣa
từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Quất
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn Lý luận văn học, các
thầy cô trong Khoa Văn học, Phòng Sau đại học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Ban
Giám đốc Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thƣờng xuyên Huyện Hoài
Đức đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận án.
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Lý Hoài Thu - ngƣời
đã tận tình chỉ dạy cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận án.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ủng hộ tôi trong suốt
quá trình làm luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Quất
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................ 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án .................................... 5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án ..................................... 6
3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 6
3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án ................................................... 6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................... 7
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ............................................... 8
7. Cấu trúc của luận án ............................................................................. 8
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................................9
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài của luận án ........................... 9
1.1.1. Khái niệm loại hình nhân vật......................................................................9
1.1.2. Khái niệm trí thức ......................................................................................12
1.1.3. Vài nét về nhân vật người trí thức trong văn học ...................................16
1.2. Tình hình nghiên cứu nhân vật ngƣời trí thức trong văn học Việt
Nam 21
1.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945......................................................21
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 .....................................................................23
1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX .......................................................25
1.2.4. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay ........................................................................27
Chƣơng 2. DIỆN MẠO CHUNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 VÀ
SỰ TIẾP NỐI ĐỀ TÀI NGƢỜI TRÍ THỨC ............................................................31
2.1. Diện mạo chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 ...................... 31
2.1.1. Vài nét về bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và tình hình văn học ........31
2.1.2. Đặc điểm của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 .........................................33
2.2. Sự tiếp nối đề tài ngƣời trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam .......... 42
2.2.1. Khái quát về nhân vật người trí thức trong văn học Việt Nam trước
năm 1975 ..................................................................................................................42
2.2.2. Sự kế thừa và phát triển đề tài người trí thức của tiểu thuyết Việt Nam
sau 1975 ....................................................................................................................45
Chƣơng 3. NHÂN VẬT NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
SAU 1975 NHÌN TỪ ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH ......................................................52
3.1. Nhân vật ngƣời trí thức - những con ngƣời mang nhiều phẩm chất cao
quý 52
3.1.1. Những con người tài năng, giàu khát vọng.............................................52
3.1.2. Những con người có nhân cách cao đẹp.................................................56
3.2. Những con ngƣời có ý thức phản tƣ và tƣ tƣởng đổi mới ............... 69
3.2.1. Phản tư về lịch sử và văn hóa..................................................................70
3.2.2. Phản tư về chiến tranh ..............................................................................73
3.2.3. Phản tư về các cơ chế chính sách ............................................................76
1
3.2.4. Phản tư về chính giới trí thức ...................................................................80
3.3. Những con ngƣời mang nỗi đau thân phận ..................................... 84
3.3.1. Bi kịch lạc thời, vỡ mộng...........................................................................84
3.3.2. Bi kịch đổ vỡ tình yêu, hôn nhân ..............................................................93
3.3.3. Bi kịch tha hóa nhân cách.........................................................................98
Chƣơng 4. NHÂN VẬT NGƢỜI TRÍ THỨC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
SAU 1975 NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN ...........................................103
4.1. Nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật ..................................... 103
4.1.1. Miêu tả ngoại hình và hành động ......................................................... 103
4.1.2. Biểu hiện nội tâm .................................................................................... 110
4.2. Thể hiện nhân vật trong không - thời gian nghệ thuật .................. 119
4.2.1. Không gian vật thể và thời gian hiện tại............................................... 120
4.2.2. Không gian hồi ức và thời gian quá khứ .............................................. 126
4.2.3. Kiểu không gian phi thời gian ............................................................... 128
4.3. Thể hiện nhân vật qua ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật .......... 130
4.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................................. 130
4.3.2. Giọng điệu nghệ thuật ............................................................................ 136
KẾT LUẬN .............................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ......................................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................152
PHỤ LỤC ................................................................................................................168
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Ngƣời trí thức vốn xuất hiện sớm trong đời sống xã hội. Ngay từ khi có
nền văn minh, tri thức đƣợc đề cao thì cũng là lúc ngƣời trí thức xuất hiện. Cho dù
đƣợc gọi bằng các danh từ khác nhau nhƣ: nhà nho, kẻ sĩ, sĩ phu, học giả, trí thức…,
nhƣng bao giờ ngƣời trí thức cũng tiêu biểu cho trí tuệ, lƣơng tri, cho đỉnh cao tri
thức, bao giờ cũng là đại diện tiêu biểu cho thời đại của họ. Từ chỗ giữ vị trí quan
trọng trong đời sống, ngƣời trí thức bƣớc vào văn chƣơng và trở thành nhân vật
trong các tác phẩm. Từ khi văn học viết ra đời đến nay, nhân vật ngƣời trí thức luôn
là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn của các nhà văn thuộc nhiều thế hệ. Lịch
sử văn học thế giới đã cho thấy, sự xuất hiện của kiểu nhân vật trí thức có vai trò to
lớn trong việc làm nên thành tựu văn học Phục Hƣng ở Tây Âu thế kỷ XVI, văn học
lãng mạn, văn học hiện thực Pháp thế kỷ XVIII - XIX, văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn học thời kỳ cải cách, mở cửa
ở Trung Quốc những năm 60 - 70 của thế kỷ XX… Ở Việt Nam, nhân vật ngƣời trí
thức xuất hiện khá sớm, để lại dấu ấn sâu sắc trong cả văn học trung đại và hiện đại,
nó là nhân vật xuyên suốt trong nền văn học nƣớc nhà. Các tên tuổi lớn trên thế giới
nhƣ W.Shakespeare, J.W.Goethe, L.Tolstoy, N.V.Gogol, I.Turgenev, A.Chekhov,
B.Pasternak… hay các tên tuổi lớn của Việt Nam nhƣ Nam Cao, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng… đều đƣợc khẳng định từ việc thể hiện hình tƣợng ngƣời trí thức. Để
phản ánh những bƣớc tiến quan trọng trong nhận thức thời đại, để thể nghiệm
những cách tân quan trọng trên phƣơng diện nghệ thuật, các nhà văn thƣờng chọn
hình tƣợng ngƣời trí thức. Khi đó, nhân vật trí thức xuất hiện nhiều hơn, đƣợc thể
hiện đậm nét hơn, trở thành đối tƣợng trung tâm để lan tỏa làn sóng đổi mới.
1.2. Sau 1975, Việt Nam đƣợc độc lập, thống nhất, bƣớc vào thời kỳ xây
dựng và phát triển đất nƣớc. Cùng với sự biến chuyển nhiều mặt của đời sống xã
hội, văn học Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng có những bƣớc
ngoặt lớn. Từ chỗ lấy việc phản ánh đời sống cách mạng, cổ vũ chiến đấu là nhiệm
vụ trọng tâm, văn học dần chuyển hƣớng quan tâm sang các vấn đề của đời sống
thƣờng nhật, trong đó tiểu thuyết là thể loại có sự vận động mạnh mẽ nhất. Một
3
trong những cách tân quan trọng của tiểu thuyết là cơ cấu thành phần nhân vật thay
đổi, nhân vật ngƣời trí thức xuất hiện ngày càng nhiều, không chỉ trong tác phẩm
của các cây bút từng thành danh ở giai đoạn trƣớc mà còn xuất hiện trong sáng tác
của nhiều cây bút trẻ xuất hiện sau này. Ngƣời trí thức không chỉ xuất hiện trong
các tác phẩm viết theo lối truyền thống, “nửa truyền thống nửa cách tân” mà còn
xuất hiện trong các tác phẩm viết theo lối mới. Trƣớc 1945, nhân vật trí thức trong
tiểu thuyết Việt Nam đã từng để lại ấn tƣợng đậm nét, trong ba mƣơi năm chiến
tranh, nhân vật này tuy vẫn xuất hiện nhƣng có phần mờ nhạt hơn, phải đến sau
1975, sự xuất hiện trở lại với một số lƣợng lớn trong một tâm thế mới của kiểu nhân
vật trí thức mới thực sự trở thành một hiện tƣợng đặc biệt không thể không lƣu tâm.
Trong nghiên cứu phê bình văn học, nhân vật đƣợc coi là một trong những
đối tƣợng nghiên cứu quan trọng hàng đầu. Nó không chỉ là nơi thể hiện những
chiêm nghiệm cuộc sống, tƣ duy nghệ thuật, gửi gắm ƣớc mơ khát vọng của nhà
văn mà còn là hình ảnh phản chiếu văn hóa, tƣ tƣởng và những bƣớc tiến của thời
đại từ nhiều góc độ. Muốn hiểu nhà văn, không thể không nghiên cứu nhân vật,
muốn hiểu thời đại cũng không thể không nghiên cứu nhân vật, đặc biệt muốn đánh
giá thành tựu của một thời kỳ văn học lại càng không thể bỏ qua nhân vật. Hơn nữa,
trong đời sống văn học đƣơng đại, nhân vật ngƣời trí thức đang làm nên một hiện
tƣợng đặc biệt, đó là lí do khiến việc nghiên cứu về nhân vật trí thức trong tiểu
thuyết sau 1975 trở nên hấp dẫn đối với chúng tôi.
Cho đến nay, tiểu thuyết Việt Nam vẫn ở thì hiện tại chƣa hoàn thành và
vẫn còn nhiều khoảng trống cần đƣợc khai thác. Tìm hiểu một số công trình nghiên
cứu về tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, chúng tôi nhận thấy, nhân vật ngƣời trí thức
đã đƣợc một số tác giả đề cập đến nhƣng chƣa thực sự chuyên sâu, hệ thống và toàn
diện. Do vậy, việc nghiên cứu nhân vật ngƣời trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam
sau 1975 vẫn là một yêu cầu đặt ra đối với khoa học. Từ việc nhận định tầm quan
trọng của kiểu nhân vật trí thức trong tiến trình vận động và phát triển của văn học
Việt Nam nói chung và tiểu thuyết sau 1975 nói riêng, chúng tôi quyết định chọn
Nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975 làm đề tài cho
luận án tiến sĩ của mình.
4
1.3. Trong khi tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã có, chúng tôi nhận thấy
các nhà nghiên cứu chủ yếu quan tâm đến nhân vật từ góc nhìn xã hội học, góc
nhìn thi pháp học, còn hƣớng nghiên cứu từ góc độ loại hình chƣa đƣợc quan tâm.
Bởi vậy, thực hiện đề tài Nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1975, hƣớng tiếp cận chủ yếu của chúng tôi là từ các đặc điểm loại hình. Đây là
hƣớng tiếp cận có nhiều ƣu thế giúp chúng tôi khám phá tổng thể, toàn diện nhân
vật ngƣời trí thức trong cả một chặng đƣờng dài của tiểu thuyết. Từ việc khám phá
hình tƣợng ngƣời trí thức, mong muốn của chúng tôi không chỉ là khái quát một
kiểu hình tƣợng tiêu biểu của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, nhận diện một số
phong cách tác giả tiêu biểu mà còn góp thêm tiếng nói khẳng định thành tựu mới
của tiểu thuyết Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Chúng tôi khái quát hình tƣợng ngƣời trí thức trong tiểu thuyết để từ đó
khẳng định thành công của các thế hệ nhà văn Việt Nam sau 1975 từ việc thể hiện
hình tƣợng ngƣời trí thức. Từ việc nghiên cứu nhân vật trí thức trong tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975, chúng tôi mong muốn có những đóng góp cụ thể vào việc
nghiên cứu con ngƣời trong văn học nói chung.
2.2. Nhiệm vụ
- Thứ nhất: Luận án làm rõ các khái niệm “loại hình”, “trí thức”, khái quát nhân
vật ngƣời trí thức trong văn học” và tình hình nghiên cứu nhân vật trí thức trong văn
học Việt Nam làm cơ sở để khẳng định việc nghiên cứu nhân vật trí thức trong tiểu
thuyết sau 1975 là một yêu cầu đặt ra đối với khoa học.
- Thứ hai: Luận án khái quát bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học, sự phát
triển đề tài ngƣời trí thức trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại và khẳng định
nhân vật trí thức là kiểu nhân vật quan trọng của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.
- Thứ ba: Luận án khái quát hình tƣợng nhân vật ngƣời trí thức trong tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975 từ các đặc điểm loại hình, từ đó khám phá ý nghĩa của nó trong
việc phản ánh hiện thực và bày tỏ tƣ tƣởng của nhà văn.
5
- Thứ tư: Luận án khám phá những nét độc đáo trong phƣơng thức thể hiện nhân
vật ngƣời trí thức của các nhà văn sau 1975 (có đối chiếu với các phƣơng thức thể
hiện các kiểu nhân vật khác) để thấy đóng góp của họ cho công cuộc cách tân thi
pháp nhân vật, rộng hơn là cách tân thi pháp tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ sau 1975,
đặc biệt là sau đổi mới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài luận án, chúng tôi xác định đối tƣợng nghiên cứu chính
là nhân vật ngƣời trí thức trong một số tiểu thuyết tiêu biểu của Việt Nam sáng tác
sau năm 1975 (có phụ lục kèm theo). Tuy nhiên, để làm rõ đối tƣợng này, chúng tôi
còn nghiên cứu nhân vật trí thức trong văn học Việt Nam trƣớc 1975, nhân vật trí
thức trong một số tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới và các kiểu nhân vật khác nhƣ
công nhân, nông dân, ngƣời lính… trong mối quan hệ so sánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu chính của luận án là tiểu thuyết Việt
Nam sáng tác từ sau 1975 đến hết năm 2016 viết về nhân vật ngƣời trí thức.
- Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu thêm các tác phẩm văn học Việt Nam
trƣớc 1975, các tác phẩm văn học nƣớc ngoài tiêu biểu viết về nhân vật ngƣời trí
thức để làm cơ sở để so sánh .
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp, có
thể kể đến các phƣơng pháp chính:
4.1. Phương pháp loại hình: Đƣợc sử dụng nhằm tìm ra các đặc trƣng loại
hình của nhân vật ngƣời trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 để phân biệt
nó với đối tƣợng cùng loại trong văn học trƣớc 1975, trong các tác phẩm văn học
lớn trên thế giới và các kiểu nhân vật khác trong văn học.
4.2. Phương pháp so sánh: Luận án sử dụng kết hợp phƣơng pháp so sánh
đồng đại và lịch đại để thấy sự khác nhau trong cách nhìn nhận, cách khám phá của
nhà văn về nhân vật trí thức, thấy đƣợc sự xuất hiện của kiểu nhân vật trí thức nằm
6
trong xu hƣớng chung của các nền văn học có đặc điểm tƣơng đồng, có nguồn gốc
sâu xa từ sự vận động chung của kiểu nhân vật này trong dòng chảy tiểu thuyết Việt
Nam và thế giới chứ không phải là một hiện tƣợng ngẫu nhiên, đột xuất.
4.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Nhằm nghiên cứu đối tƣợng từ góc
độ thi pháp. Qua những đặc điểm loại hình nhân vật trí thức để khẳng định những
nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của một số nhà văn tiêu biểu và những
đóng góp của họ vào việc cách tân tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.
4.4. Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Sử dụng nhằm mục đích đặt nhân
vật vào trong bối cảnh cụ thể, phát hiện sự chi phối của các yếu tố văn hóa đến đặc
điểm loại hình nhân vật trí thức – một kiểu mẫu văn hóa có ý nghĩa thời đại rõ nét.
4.5. Phương pháp xã hội học: Sử dụng nhằm mục đích đặt nhân vật trí thức
vào hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để phát hiện các yếu tố xã hội chi phối đặc điểm
loại hình nhân vật trí thức. Đó cũng là cơ sở để đánh giá thái độ của nhà văn trƣớc
hiện thực đời sống và con ngƣời.
4.6. Phương pháp phân tích – tổng hợp: Đƣợc vận dụng để phân tích nhân
vật, nghệ thuật thể hiện nhân vật nhằm đƣa ra những kết luận chung.
Ngoài các phƣơng pháp trên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử
dụng một số phƣơng pháp hỗ trợ nhƣ: phƣơng pháp tiểu sử, phƣơng pháp tâm lí
học… để việc nghiên cứu đạt hiệu quả cao hơn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Luận án khẳng định vị trí quan trọng của nhân vật ngƣời trí thức trong
tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.
5.2. Luận án làm rõ các đặc điểm loại hình, khái quát ý nghĩa hình tƣợng nhân
vật ngƣời trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.
5.3. Luận án chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật của các nhà văn sau 1975
trong việc thể hiện hình tƣợng ngƣời trí thức, đồng thời khẳng định phong cách
nghệ thuật độc đáo của một số nhà văn từ việc xây dựng nhân vật ngƣời trí thức.
5.4. Luận án đặt đề tài ngƣời trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
nói riêng, đề tài ngƣời trí thức trong văn học Việt Nam nói chung vào trong mối
7
tƣơng quan với sự phát triển của đề tài ngƣời trí thức trong dòng chảy văn học
thế giới.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Luận án khẳng định một hƣớng nghiên cứu mới cho kiểu hình tƣợng
nhân vật trí thức, đồng thời khẳng định nghiên cứu nhân vật từ đặc điểm loại hình là
hƣớng nghiên cứu có nhiều ƣu điểm.
6.2. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên
cứu, giảng dạy Lí luận văn học và Văn học Việt Nam ở bậc trung học phổ thông và
đại học.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chƣơng:
- Chương 1 .Tổng quan vấn đề nghiên cứu
- Chương 2. Diện mạo chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và sự tiếp nối đề
tài ngƣời trí thức trong văn học
- Chương 3. Nhân vật ngƣời trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nhìn từ
đặc điểm loại hình
- Chương 4. Nhân vật ngƣời trí thức trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 nhìn từ
phƣơng thức biểu hiện.
8
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài của luận án
1.1.1. Khái niệm loại hình nhân vật
“Loại hình” (Tiếng Anh là type) có nghĩa là kiểu, loại. Theo Từ điển tiếng
Việt, “loại hình” là khái niệm đƣợc dùng để gọi “tập hợp sự vật, hiện tƣợng cùng có
chung những đặc trƣng cơ bản nào đó” [156, tr. 574]. Còn từ điển mở Wiktionary
thì nhấn mạnh “loại hình” là những “phần tử thuộc cùng một loại, trong đó các tính
chất riêng đều bình thƣờng nhƣng các tính chất chung của loại thể hiện rõ nét và
thu hút sự chú ý tới mức có thể dùng làm cơ sở cho việc nghiên cứu loại” [245].
Trên thế giới, tƣ duy loại hình có ngay từ thời cổ đại khi các học giả ngƣời Hy Lạp
tiến hành phân loại và công nhận sự tồn tại của bốn ngành khoa học: số học, hình
học, âm nhạc, thiên văn học. Tuy nhiên, khái niệm “loại hình” chỉ thực sự đƣợc sử
dụng ở Đức vào thế kỷ XIX khi ở đây xuất hiện phong trào nghiên cứu ngôn ngữ
học so sánh. Vì mục đích của việc nghiên cứu là phân chia ngôn ngữ thành các
nhánh, dòng, họ, loại hình nên khái niệm “loại hình” lần đầu tiên đƣợc sử dụng cho
ngôn ngữ. Về sau khái niệm này mở rộng phạm vi sử dụng, nó xuất hiện ở hầu hết
các lĩnh vực khoa học. Loại hình học vào Việt Nam khoảng những năm 1960 và đã
đƣợc sử dụng trong nghiên cứu văn học. Đinh Gia Khánh vận dụng phƣơng pháp
loại hình vào việc nghiên cứu kiểu truyện cổ tích Tấm Cám trong cuốn sách Sơ bộ
tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám (xuất bản năm 1968)
nhƣng ông chƣa sử dụng khái niệm loại hình mà sử dụng khái niệm “kiểu” (thực
chất cũng là loại hình). Đến khoảng năm 1970, Trần Đình Hƣợu chính thức sử dụng
khái niệm “loại hình” nhƣ một thuật ngữ khoa học để phân loại tác giả văn học
trung đại thành ba nhóm: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử. Kế
thừa thành quả nghiên cứu đó, Trần Ngọc Vƣơng đã đi sâu nghiên cứu loại hình tác
giả nhà nho tài tử trong cuốn chuyên luận Loại hình học tác giả văn học- nhà nho
tài tử và văn học Việt Nam (1995). Gần đây, Lê Văn Tấn trên cơ sở tiếp thu kết quả
nghiên cứu của Trần Đình Hƣợu, Trần Ngọc Vƣơng, tiếp tục đi sâu nghiên cứu loại
hình nhà nho ẩn dật và trình bày trong cuốn Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học
trung đại Việt Nam (2013). Trong quá trình nghiên cứu, để làm rõ loại hình tác giả,
9
loại hình tác phẩm, các nhà nghiên cứu không thể không quan tâm đến đặc điểm
loại hình của kiểu nhân vật trong sáng tác. Bởi vậy, việc nghiên cứu nhân vật ở góc
độ loại hình cũng đã bƣớc đầu đƣợc tiến hành, tuy nhiên vẫn chƣa có những công
trình nghiên cứu chuyên sâu về loại hình nhân vật.
“Nhân vật văn học” (tiếng Anh: character) là khái niệm đƣợc sử dụng để chỉ
con ngƣời, sự vật, hiện tƣợng nổi bật đƣợc nhà văn xây dựng trong tác phẩm văn
học. Nó không chỉ là “phƣơng tiện khái quát hiện thực” [125, tr. 284], “khái quát
tính cách” [60, tr. 202] mà còn là đối tƣợng để “thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí
tƣởng thẩm mĩ của nhà văn về con ngƣời” [60, tr. 203]. Đối với ngƣời cầm bút,
nhân vật là nơi giãi bày tâm tƣ tình cảm, là nơi trình bày nhận thức về con ngƣời,
đời sống, thể hiện lí tƣởng thẩm mĩ. Đối với bạn đọc, nhân vật là tâm điểm để giải
mã các vấn đề về con ngƣời và hiện thực, là cơ sở để đánh giá tài năng và đóng góp
của mỗi nhà văn. Nhân vật vừa là trung tâm của hoạt động sáng tác, vừa là trung
tâm của hoạt động tiếp nhận, vì thế, nó sớm nhận đƣợc sự quan tâm. Ngay từ thời
cổ đại, khi xuất hiện những công trình nghiên cứu văn học đầu tiên, nhân vật đã đi
vào đời sống lí luận. Trong Nghệ thuật thi ca, Aristotle lần đầu tiên nói đến nhân
vật kịch (Chƣơng XIII), đƣa ra nhận định về bốn điểm quan trọng hơn cả ở tính
cách kịch là: “cao thƣợng, thích hợp, giống nhƣ thật và nhất quán” (Chƣơng XV)
[3, tr. 64]. Việc Aristotle nhắc đến và phân tích nhân vật kịch trong mối liên hệ với
sự mở nút của cốt truyện cho ta thấy ông đã ý thức đƣợc vai trò quan trọng của nhân
vật trong tác phẩm. Cùng với sự phát triển của lí luận, nhân vật văn học ngày càng
đƣợc quan tâm, hầu hết các công trình quan trọng của lí luận văn học Đông - Tây
đều dành một phần cho việc nghiên cứu con ngƣời trong tác phẩm văn học. Ở Việt
Nam, nền lí luận văn học đƣợc hình thành đầu thế kỷ XX trên cơ sở học tập, tiếp
thu thành tựu lí luận của phƣơng Tây. Việc nghiên cứu về con ngƣời trong văn học
đã đƣợc thực hiện ngay từ đầu thế kỷ XX nhƣng mới chỉ dừng lại ở mức độ khiêm
tốn trong các công trình nghiên cứu về tác giả tác phẩm. Số công trình nghiên cứu
dài hơi và chuyên sâu về nhân vật chƣa nhiều, đáng chú ý nhất lúc này là cuốn
Phương Tây - văn học và con người (1969) của Hoàng Trinh. Phải đến sau 1975 và
đặc biệt là sau Đại hội Đảng VI (1986), việc nghiên cứu con ngƣời trong văn học
10
mới thu hút đƣợc sự quan tâm đặc biệt, nhiều công trình nghiên cứu xác định con
ngƣời là đối tƣợng trung tâm ngay từ việc xác định tên của đề tài. Ví dụ nhƣ: Nhân
vật xấu xí và tài ba trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam (1996, Luận án tiến sĩ
của Nguyễn Thị Huế, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội), Kiểu nhân vật trung tâm trong sáng tác của Hê- ming- uê (1998,
Luận án tiến sĩ của Lê Huy Bắc, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội), Con người cá nhân và tính sáng tạo trong sáng tác văn
chương Nguyễn Công Trứ (2003, Luận án tiến sĩ của Nguyễn Viết Ngoạn, Trƣờng
Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh), Con
người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1975 (2000, chuyên luận của Phùng Ngọc
Kiếm - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội), Thế giới nhân vật kỳ ảo trong
truyện cổ tích thần kỳ các dân tộc Việt Nam (2012, Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị
Dung, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội), Về con người cá nhân trong văn học cổ
Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vƣơng, Trần
Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân), Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong
văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV (2014, Luận án tiến
sĩ của Nguyễn Thị Giang, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học
Quốc gia Hà Nội), Nhân vật trong tác phẩm của Franz Kafka (2012, Luận án tiến sĩ
của Nguyễn Thị Thắng, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội), Con người trong tiểu
thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (2012, Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Tiến,
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội), Con
người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (2013, Luận án
tiến sĩ của Nguyễn Thúy Hằng, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội)....
Trong nghiên cứu văn học, chúng ta đã sử dụng tƣ duy loại hình vào việc
phân loại nhân vật. Giáo trình Lí luận văn học của Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
và Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đều
phân loại nhân vật văn học dựa trên tƣ duy loại hình. Căn cứ vào vị trí, vai trò nhân
vật trong tác phẩm ta có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Căn cứ
vào tƣ tƣởng và lí tƣởng xã hội của nhà văn có nhân vật chính diện (tích cực), nhân
vật phản diện (tiêu cực). Căn cứ vào phƣơng thức biểu hiện có nhân vật trữ tình,
11
nhân vật tự sự và nhân vật kịch. Căn cứ vào quan niệm của thời đại về vai trò của
nhân vật ta có: nhân vật chức năng, nhân vật tính cách, nhân vật tƣ tƣởng, nhân vật
ngụ ngôn...[49, tr. 44]. Trong nghiên cứu nhân vật chúng ta còn thấy xuất hiện cách
phân loại nhân vật căn cứ vào công việc, nghề nghiệp: công nhân, nông dân, ngƣời
lính, trí thức, quan chức... Có thể hiểu loại hình nhân vật là tập hợp tất cả các nhân
vật có chung những đặc trƣng cơ bản nào đó đƣợc lặp đi lặp lại trong lịch sử văn
học để phân biệt với kiểu nhân vật khác trong thế giới nhân vật. Việc phân loại nhân
vật để xác định loại hình có thể dựa trên nhiều căn cứ nhƣ: nghề nghiệp, công việc,
vị trí xã hội; đặc điểm tâm lí, tƣ tƣởng; vai trò, vị trí trong việc tổ chức tác phẩm;
vai trò trong việc thể hiện lý tƣởng xã hội của nhà văn... Tùy theo mục đích nghiên
cứu mà ngƣời nghiên cứu lựa chọn các cách phân loại riêng. Tuy nhiên, việc phân
loại cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối.
1.1.2. Khái niệm trí thức
Đầu thế kỷ XX, khái niệm “trí thức” mới xuất hiện nhƣng trong thực tế,
ngƣời trí thức xuất hiện từ khi xã hội có sự phân công lao động thành lao động chân
tay và lao động trí óc. Trí thức không làm việc trong một nghề nhất định, họ là
ngƣời lao động trí óc làm việc trong nhiều ngành nghề khác nhau, đƣợc gọi bằng
các tên gọi khác nhau theo ngành nghề nhƣ: nhà thiên văn học, học giả, quân sƣ,
nhà khoa học, nhà nho, kẻ sĩ, thầy thuốc, thầy giáo, nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc
sĩ, kỹ sƣ, luật sƣ..., nhƣng ở thời đại nào, họ cũng là hình ảnh biểu trƣng cho đỉnh
cao trí tuệ, lƣơng tri, cho khát vọng hƣớng tới chân lí. Trên thế giới, vấn đề về
ngƣời trí thức đƣợc bàn đến từ rất sớm. Ở phƣơng Đông, vấn đề trí thức (ngƣời
quân tử) đƣợc nhắc đến ngay từ trƣớc công nguyên. Khổng Tử (551 TCN – 479
TCN) - giảng sƣ, triết gia nổi tiếng ngƣời Trung Quốc - nhấn mạnh năm phẩm chất
cơ bản của ngƣời quân tử là: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” trong đó “Nhân” là trung
tâm của các đức tính. Khái niệm “ngƣời trí thức” (tiếng Pháp là intellectuel, tiếng
Anh là intellectual) chỉ thực sự đƣợc sử dụng rộng rãi từ năm 1906, trong sự kiện
121 trí thức tiến bộ ở Pháp bao gồm các nhà văn, các nhà khoa học, đứng đầu là nhà
văn Émile Zola viết một bản kháng nghị nhằm chống lại án oan, đòi lại công bằng
cho đại úy Dreyfus - ngƣời bị kết tội phản quốc bằng các chứng cứ giả, bị kết án
12
chung thân và bị đi đày. Mặc dù bị chính quyền chỉ trích, hăm dọa, thậm chí tù đày
nhƣng họ vẫn không nao núng, vẫn theo đuổi sự việc và cuối cùng giành thắng lợi.
Sau 12 năm bị oan (1895 - 1906), nhờ sự nỗ lực của những ngƣời trí thức, Dreyfus
đƣợc tuyên vô tội. Bản kháng nghị này đƣợc thủ tƣớng Pháp Clemenceau gọi là
“Tuyên ngôn của Trí thức”(tham khảo tài liệu số 246). Ở thời điểm diễn ra vụ
Dreyfus, khái niệm “trí thức” đƣợc dùng để chỉ những ngƣời có học vấn cao nhƣng
sẵn sàng bƣớc ra khỏi lĩnh vực chuyên sâu của mình để lên tiếng về những bất cập
xã hội. Từ đó đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về trí thức: “Trí thức là ngƣời
phát hiện những điều thuộc về bản chất sự vật mà ngƣời khác không nhìn ra đƣợc”
(Jean Paul Sartre), “Trí thức là ngƣời đem lại giá trị cho những gì mà tự chúng
không có” (Paul Valéry), “Trí thức là những ngƣời hoạt động trong lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật” (Crane Briton), “trí thức có nhiều loại nhƣ: thƣ lại, nhà văn, nghệ
sĩ, chuyên gia...” (Raymond Aron), “Trí thức không chỉ bao gồm các nhà hoạt động
văn hóa mà là tất cả những ngƣời có học vấn, những đại biểu của lao động trí óc để
phân biệt với đại biểu của lao động chân tay” (V. I. Lenin) [98, tr. 27- 28]...
Ở Việt Nam thời trung đại, ngƣời trí thức đƣợc xã hội đánh giá rất cao. Họ
đƣợc coi là đỉnh cao của trí tuệ, tri thức, là nhân vật không thể thiếu trong xã hội
văn minh. Trong Bài ký đề tên tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ
ba, Thân Nhân Trung có nhắc đến vai trò của ngƣời trí thức trong xã hội phong
kiến: “Hiền tài là nguyên khí của đất nƣớc. Nguyên khí thịnh thì thế nƣớc mạnh mà
vƣơn lên cao; nguyên khí suy thì thế nƣớc yếu rồi xuống thấp. Bởi vậy các đấng
Thánh đế minh vƣơng chẳng ai không lấy việc gây dựng ngƣời tài, kén chọn kẻ sĩ
bồi đắp nguyên khí làm việc đầu tiên” [150, tr. 76]. Trong Chiếu cầu hiền do Ngô
Thì Nhậm thay lời Quang Trung viết vào năm 1788 - 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu
Bắc Hà (các trí thức của triều đại Lê - Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn cũng
khẳng định vai trò rƣờng cột của ngƣời trí thức: “Từng nghe nói rằng: Ngƣời hiền
xuất hiện ở đời, thì nhƣ ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc
Thần, ngƣời hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu nhƣ che mất ánh sáng, giấu đi vẻ
đẹp, có tài mà không đƣợc dùng thì đó không phải là ý trời sinh ra ngƣời hiền vậy”
[12, tr. 68]. Cao Bá Quát trong sáng tác của mình thể hiện rõ quan điểm khi chia trí
13
thức thành ba loại: “ngƣời có trí lớn nhƣ chim hồng hạc bay tít trên mây xanh”,
“ngƣời thanh cao nhƣ chim hạc đen ngủ một mình bên sƣờn núi”, “loại ... đáng
khinh nhƣ những con chim hoàng điểu chỉ tìm chỗ kiếm ăn ở nơi quyền quý” và thể
hiện rõ quan điểm “chỉ có hai loại trên mới đáng là trí thức”, bởi vì “không thể gọi
là trí thức những kẻ chỉ biết lo lắng cho bản thân mình mà không thấy đƣợc lẽ sống,
không có trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân” [98, tr. 29].
Thời hiện đại, vấn đề về ngƣời trí thức đƣợc nói đến nhiều hơn, có nhiều
quan điểm khác nhau về trí thức. Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lƣơng
Ngọc trong bài “Trí thức” (Trong cuốn Xuân thu nhã tập, xuất bản năm 1942) khi
bàn về trí thức cho rằng có “bằng cấp nọ khoa học kia” chƣa phải là trí thức, “thấy
rộng nghe nhiều chƣa phải là trí thức”, “trí khôn ngoan chƣa phải là trí thức”, trí
thức “ở sâu và cao hơn” bằng cấp, “biết cảm thông với sự vật”, “không theo đuôi
ngƣời”, “không vụ lợi”, phải “giữ thái độ tiên phong”, phải luôn “sáng suốt”, phải
“tự do” về tinh thần, phải luôn “sáng tạo”, biết “vun trồng cốt cách hiền nhân”, biết
“trọng mình” [204, tr. 401 - 402]. Đàm Đức Vƣợng khi nghiên cứu trƣớc tác của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận diện một số quan điểm của Ngƣời về trí thức: “Trí
thức phải biết đem kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và sự hiểu biết của mình áp
dụng vào thực tế. Xa rời thực tế, trí thức trở thành lí luận suông”, “Trí thức phải tiếp
tục học hỏi, không ngừng chiếm lấy đỉnh cao của khoa học kỹ thuật”, “Trí thức phải
có cuộc sống lành mạnh, có đạo đức và tƣ cách”... [241]. Nghị quyết số 27- NQ/TW
ngày 06 tháng 8 năm 2008 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc cũng đã đƣa ra quan điểm: “Trí thức là
những ngƣời lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất
định, có năng lực tƣ duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra
những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [7]. Còn Từ điển
tiếng Việt giải thích: trí thức là “ngƣời chuyên làm việc lao động trí óc và có những
kiến thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [156, tr.
1034]. Trong thực tế đã có những cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề trí thức, nhiều
cá nhân cũng đƣa ra quan điểm riêng: “Trí thức là ngƣời có sự hiểu biết và biết thức
tỉnh xã hội” (Giản Tƣ Trung), “Không có tinh thần phản biện không phải là trí
14
thức”(Chu Hảo), “Ngƣời trí thức là ngƣời không để cho xã hội ngủ” (Cao Huy
Thuần), “Đã là trí thức thì phải là ngƣời có tầm, có trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội”
(Nguyễn Huệ Chi), “Trí thức là ngƣời có tầm nhìn đứng cao hơn tầm nhìn chuyên
môn của một chuyên viên” (Nguyễn Quang Minh), “Tôi không đồng ý với việc coi
phản biện xã hội nhƣ một chỉ tiêu để đƣợc phong hàm trí thức… Đối với tôi, trí
thức là ngƣời lao động trí óc. Cũng nhƣ những ngƣời lao động khác, anh ta cần
đánh giá trƣớc hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị
của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò
phản biện xã hội” (Ngô Bảo Châu), “Đóng góp theo kiểu ngƣời trí thức có nghĩa là
dùng những khả năng mà ngƣời ta đặc biệt “associate” với trí thức: khả năng suy
nghĩ độc lập, không để mình bị nhồi sọ hay bịt mắt, biết tự mình suy xét, khả năng
tự học, tự tìm “information”, đánh giá và kết hợp information để có một cái nhìn
đúng đắn về xã hội, tự tìm hiểu về những vấn đề của xã hội, và từ đó tự suy ra con
đƣờng phải làm do sự thúc đẩy của lƣơng tâm…” (Phạm Quang Tuấn), “trí thức
trƣớc hết phải là ngƣời có tri thức”, và "phải biết đấu tranh cho chân lí, không vào
hùa với số đông để cảm thấy mình hòa đồng hoặc tự tách mình ra để mặc kệ đời”
(Đặng Vũ Tuấn Sơn), “Trí thức là ngƣời nuôi dƣỡng, bảo vệ, truyền bá những giá
trị phổ quát của nhân loại và sử dụng chúng nhƣ những trung giới trong các quá
trình vận động biện chứng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội” (Giáp Văn Dƣơng)
(Tham khảo tại tài liệu 237). Trong cuốn Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử
dân tộc, tác giả Nguyễn Văn Khánh khẳng định trí thức “là những ngƣời có học vấn
cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh. Trí thức
bao gồm các nhà khoa học, kỹ sƣ, kỹ thuật viên, thầy giáo, thầy thuốc, luật sƣ, nhà
văn, nghệ sĩ...” [98, tr. 29 - 30]. Ông khẳng định trí thức có bốn chức năng cơ bản:
- Chức năng sáng tạo: Đây là chức năng cơ bản nhất. Trí thức làm việc
để sáng tạo ra các giá trị mới trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật,
khoa học, kỹ thuật...
- Chức năng phê phán: Chức năng này góp phần thúc đẩy khoa học,
giáo dục, văn học nghệ thuật không ngừng vận động và phát triển. Theo
15
C.Mác, trí thức là ngƣời “phê bình không nhân nhƣợng những gì đang
hiện hữu”.
- Chức năng đào tạo, bồi dƣỡng: Trí thức có nhiệm vụ đào tạo lớp trí
thức mới kế cận cho đất nƣớc.
- Chức năng xã hội: Giáo dục cộng đồng, quản lý xã hội, quản lý đất
nƣớc, dự báo và định hƣớng dƣ luận xã hội, đề xuất các chính sách và
biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội [98, tr. 32]...
Điểm qua ta thấy, trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam có rất nhiều ý kiến khác
nhau xung quanh khái niệm trí thức nhƣng tựu trung lại có ba xu hƣớng chính: Xu
hướng thứ nhất giản đơn cho rằng tất cả những ngƣời làm việc trí óc đều là trí thức,
với xu hƣớng này việc nhận diện trí thức chỉ cần căn cứ vào tiêu chí duy nhất là
công việc (lao động trí óc để phân biệt với lao động chân tay). Xu hướng thứ hai thu
hẹp hơn, cho rằng những ngƣời có trình độ học vấn cao, có khả năng tự học, có tƣ
duy độc lập, có đóng góp quan trọng cho xã hội mới đƣợc coi là trí thức. Xu hướng
thứ ba khắt khe hơn, đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm đối với các vấn đề xã hội,
khả năng phản biện xã hội, coi phản biện xã hội là yếu tố hàng đầu để nhận diện trí
thức. Tạm thời, chúng ta chƣa thể thống nhất khái niệm này trong một định nghĩa
chung nhƣng việc đƣa ra những tiêu chí cơ bản để nhận diện trí thức là rất cần thiết.
Để thực hiện đề tài luận án, chúng tôi tạm thời đƣa ra quan niệm của mình về trí
thức. Theo chúng tôi, trí thức phải đạt đƣợc các tiêu chí cơ bản sau:
- Là ngƣời lao động trí óc, có kiến thức sâu rộng ít nhất ở một lĩnh vực, biết vận
dụng kiến thức một cách sáng tạo trong công việc để đạt hiệu quả cao.
- Là ngƣời nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng tự trọng, ý thức cá nhân phát triển
cao, có tƣ duy phản biện, tƣ duy độc lập trên con đƣờng nhận thức chân lý.
Những tiêu chí trên đây cũng là căn cứ để chúng tôi nhận diện nhân vật trí thức
trong văn học và lựa chọn đối tƣợng nghiên cứu cho luận án của mình.
1.1.3. Vài nét về nhân vật người trí thức trong văn học
Nhân vật ngƣời trí thức là kiểu nhân vật quen thuộc trong văn học, nó xuất
hiện khá sớm, xuất hiện trong nhiều thể loại khác nhau và để lại nhiều dấu ấn đậm
16
nét. Ở mỗi thể loại, hình tƣợng ngƣời trí thức lại đƣợc khai thác ở một góc độ khác
nhau. Tác phẩm trữ tình khai thác ngƣời trí thức ở phƣơng diện tâm tƣ tình cảm,
ƣớc mơ khát vọng. Tác phẩm kịch khai thác ngƣời trí thức ở phƣơng diện nhận
thức, tƣ tƣởng qua các xung đột (bao gồm cả xung đột nội tâm, xung đột xã hội).
Tác phẩm nghị luận khai thác ngƣời trí thức ở khía cạnh thái độ. Chỉ với tác phẩm
tự sự, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, trí thức mới đƣợc khai thác một cách đầy đủ,
toàn vẹn cả hình thể và nội tâm, ở các chi tiết phong phú về cuộc đời, số phận.
Trong văn học thế giới, nhân vật ngƣời trí thức xuất hiện trong nhiều
khuynh hƣớng, trào lƣu văn học khác nhau, góp phần làm nên nhiều tài năng văn
chƣơng lớn. W.Shakespeare (1564 – 1616), nhà viết kịch của Anh thời Phục Hƣng,
đƣợc nhân loại biết đến một phần bởi đã xây dựng đƣợc hình tƣợng Hamlet bất tử
(trong vở kịch Hamlet). M.Lermontov từng ca ngợi: “Nếu nhƣ Shakespeare vĩ đại
thì đó là ở Hamlet. Nếu nhƣ Shakespeare thật là Shakespeare, một thiên tài vô cũng
rộng lớn, đi sâu vào lòng ngƣời và những quy luật của vận mệnh, một thiên tài độc
đáo, nghĩa là một Shakespeare không ai bắt chƣớc đƣợc thì đó chính là ở Hamlet”
[38, tr. 216]. J.W.Goethe (1749 – 1832), nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch
ngƣời Đức, cũng trở nên vĩ đại nhờ kịch thơ Faust, tác phẩm thể hiện những dằn vặt
nội tâm, hành trình kiếm tìm sự thật và những nỗ lực để thay đổi thế giới của ngƣời
trí thức. Nói về Goethe có ý kiến cho rằng: “chỉ riêng vở kịch Faust cũng đã đủ
khiến ông trở thành bất tử” [38, tr. 373]. Ngoài Faust, Goethe còn nổi tiếng với tiểu
thuyết Vecte, một tác phẩm có yếu tố tự truyện rõ nét. H.Balzac (1799 – 1850) tiểu
thuyết gia vĩ đại ngƣời Pháp cũng không quên khắc họa đậm nét hình ảnh ngƣời trí
thức tha hóa gợi nhiều trăn trở cho độc giả khi đọc Tấn trò đời. F.Kafka (1883 1924), nhà văn nổi tiếng ngƣời Tiệp gốc Do Thái xây dựng nhân vật trí thức gợi
nhiều ám ảnh, cùng với các nhân vật khác, ngƣời trí thức trong tác phẩm của ông
góp phần nói lên “tiếng nói đa âm về thân phận con ngƣời”. Các nhà văn Nga đặc
biệt quan tâm đến trí thức. Đọc truyện của N.V.Gogol (1809 - 1852, ngƣời đọc có
thể nhận ra trí thức là nguồn cảm hứng lớn. Nhân vật trí thức hấp dẫn nhất trong
sáng tác của ông thƣờng là những con ngƣời đau khổ (Đại lộ Nevsky, Nhật kí người
điên, Chiếc áo khoác) hoặc tha hóa (Bức chân dung). N.G.Chernyshevsky (1828 –
17
1889) cũng để lại dấu ấn riêng bởi xây dựng đƣợc những chân dung trí thức cách
mạng đầy sức hấp dẫn. Đây là những trí thức có trình độ văn hóa, khoa học, ôm ấp
khát vọng đƣợc sống trong tự do (Những con người mới). I.X.Turgenev (1818 –
1883) có hẳn một chủ đề về ngƣời trí thức, những con ngƣời mới, những nhà cách
mạng trẻ tuổi (Đêm trước, Cha và con, Đất hoang), những con ngƣời giàu mộng
tƣởng nhƣng không thực tế, bạc nhƣợc, những con ngƣời thừa (Rudin, Tổ Quý tộc).
L.Tolstoy (1828 – 1910) viết về ngƣời trí thức quý tộc trẻ sống trong xã hội thƣợng
lƣu ngột ngạt vô nghĩa trong quá trình đi tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời (Chiến
tranh và hòa bình). A.Chekhov (1860 – 1904) viết về ngƣời trí thức bạc nhƣợc, mất
phƣơng hƣớng trong xã hội Nga (Phòng số 6, Người trong bao...). A.M.Gorki (1868
– 1936) phê phán nhân vật trí thức trƣởng giả, xa rời thực tiễn (Bị quỷ ám, Một cuộc
gặp gỡ, Thức tỉnh, Trả thù, Những người đi nghỉ mát, Những đứa con của mặt trời,
Bọn dã man) đồng thời ca ngợi nhân vật trí thức mới tiến bộ (Những người đi nghỉ
mát, bọn dã man). A.N.Tolstoy (1883 – 1945) châm biếm trí thức tƣ sản suy đồi
(Con người đeo kính kẹp mũi, Những ảo ảnh ban đêm), trí thức vỡ mộng (Những
thành phố màu thanh thiên, Con rắn lục) và ngƣời trí thức tự thanh lọc mình để
vƣơn lên (Con đường đau khổ). L.M.Leonov (1899 – 1996) viết về ngƣời trí thức cũ
tự chuyển hóa bản thân để nhập cuộc vào tiến trình xây dựng xã hội mới (Dòng
sông Soviet). B.Pasternak (1890 – 1960) viết về bi kịch của ngƣời trí thức trong
chiến tranh. D. A. Granin viết về ngƣời cán bộ khoa học hăng say, không lùi bƣớc
trƣớc khó khăn tiêu biểu cho ngƣời trí thức trẻ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội (Tác phẩm Những người phát hiện khi dịch sang tiếng Việt đổi tên là Kĩ sư
Lobanov)... Trong văn học Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa, trí thức cũng là
một đề tài lớn. Ngƣời trí thức xuất hiện trong hầu hết các trƣờng phái, trào lƣu tiểu
thuyết, đặc biệt là văn học vết thƣơng, văn học phản tƣ, tiểu thuyết thế hệ mới sinh.
Nhân vật ngƣời trí thức xuất hiện trong nhiều tác phẩm làm nên dấu ấn đặc biệt
trong tác phẩm của Lƣu Tâm Vũ, Trƣơng Hiền Lƣợng, Thẩm Dung, Tƣởng Tử
Long, Lƣu Sách Lạp, Lục Văn Đình, Lý Quốc Văn, Trƣơng Khiết...
Trong văn học Việt Nam, chúng ta thấy nhân vật trí thức xuất hiện ngay từ
thời kỳ đầu của văn học viết. Nhắc đến thơ Thiền thời Lý, chúng ta không thể
18
không nhớ đến ngƣời trí thức, những vị thiền sƣ thấu hiểu quy luật, an nhiên tự tại
trƣớc những biến đổi của cuộc đời, luôn nghĩ cho dân cho nƣớc (Cáo tật thị chúng
của Thiền sƣ Không Lộ, Vận nước của Thiền sƣ Pháp Thuận). Nhắc đến thơ
Nguyễn Trãi là nhớ đến hình ảnh ngƣời quân tử thẳng ngay chính trực lúc nào cũng
lo cho nƣớc cho dân (Tùng, Bảo kính cảnh giới - số 43). Nghĩ đến thơ Lê Thánh
Tông là hình dung tới ngƣời quân tử khí tiết thanh cao, coi thƣờng danh lợi, ông vua
hiền minh “Trống dời canh còn đọc sách/ Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”. Nghĩ
đến Nguyễn Bỉnh Khiêm là nghĩ tới hình ảnh nhà nho ẩn dật chọn cách sống lánh
đục về trong để di dƣỡng tinh thần (Nhàn). Nói đến Nguyễn Du không khỏi suy tƣ
trƣớc nỗi băn khoăn ngƣời nghệ sĩ chẳng biết ba trăm năm sau liệu còn có ai đồng
cảm (Độc tiểu thanh ký). Nói đến Nguyễn Công Trứ không thể không nói đến ngƣời
anh hùng thƣ kiếm rất mực tài hoa (Chí làm trai, Bài ca ngất ngưởng). Còn bàn về
Nguyễn Dữ là nhớ đến ngƣời trí thức đầy lòng tự tôn dân tộc, ngƣời trí thức sẵn
sàng đứng lên bảo đấu tranh với cái xấu cái ác để bảo vệ công lí, ngƣời trí thức xem
thƣờng chuyện công danh, bỏ ngoài tai chuyện thế sự, lấy nhàn làm trọng (Câu
chuyện ở đền Hạng Vương, Chức phán sự đền Tản Viên, Câu chuyện đối đáp của
người tiều phu ở núi Na); bàn đến Lê Hữu Trác không thể không khâm phục một
thầy thuốc đầy lƣơng tâm trách nhiệm, một bề tôi trung thành, không ham vinh hoa,
chỉ thích nơi điền viên thôn dã (Thượng kinh ký sự)... Nhƣng phải đến đầu thế kỷ
XX, khi văn xuôi chữ quốc ngữ ra đời thì hình tƣợng ngƣời trí thức mới đƣợc thể
hiện đầy đủ, rõ nét. Tác phẩm của các nhà văn lãng mạn đầu thế kỷ XX nhƣ Hoàng
Ngọc Phách (Tố Tâm), Khái Hƣng (Nửa chừng xuân), Nhất Linh (Đoạn tuyệt) hấp
dẫn ngƣời đọc bởi xây dựng đƣợc hình tƣợng ngƣời thanh niên trí thức tiểu tƣ sản
có tƣ tƣởng duy tân, mạnh dạn phá bỏ rào cản của chế độ hôn nhân phong kiến bao
đời ngự trị để ca ngợi tình yêu và cuộc sống tự do. Ngô Tất Tố để lại dấu ấn riêng
khi thể hiện hình tƣợng ngƣời trí thức nho sĩ và con đƣờng khoa cử (Lều chõng).
Nam Cao ghi dấu ấn đặc biệt của mình một phần cũng bởi đã xây dựng đƣợc hình
tƣợng ngƣời trí thức tiểu tƣ sản, những nhà giáo, nhà văn, có lí tƣởng cao đẹp
nhƣng không cất nổi mình lên vì bị “cơm áo ghì sát đất” (Đời thừa, Trăng sáng,
Sống mòn...), ngƣời trí thức và vấn đề “cách nhìn” (Đôi mắt). Nguyễn Huy Tƣởng,
19
Nguyễn Đình Thi cũng thể hiện đƣợc sự độc đáo riêng khi đi vào thể hiện ngƣời trí
thức gắn bó với thủ đô (Sống mãi với thủ đô), ngƣời trí thức dằn vặt, trăn trở trong
quá trình “nhận đƣờng” để đến với cách mạng (Vỡ bờ). Ma Văn Kháng khiến ngƣời
đọc không khỏi trăn trở xót xa trƣớc những thân phận trí thức tài hoa, nhân cách
mà bị vùi dập không thƣơng tiếc (Mưa mùa hạ, Đám cưới không có giấy giá thú,
Ngược dòng nước lũ, Chó Bi - đời lưu lạc). Nguyễn Khải lại làm cho ngƣời đọc suy
tƣ về vấn đề ngƣời trí thức và vấn đề ứng xử trong các hoàn cảnh khác nhau (Thời
gian của người, Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười)...
Hình tƣợng ngƣời trí thức trong văn học chịu sự chi phối của nhiều yếu
tố, bao gồm cả yếu tố văn học và phi văn học. Xét từ góc độ xã hội, nhân vật ngƣời
trí thức thƣờng xuất hiện khi xã hội xuất hiện nhiều vấn đề cần luận bàn, trong đó
có vấn đề về trí thức, việc thể hiện ngƣời trí thức là một yêu cầu của đời sống. Xét
từ góc độ ngƣời sáng tác, nhân vật ngƣời trí thức thƣờng đƣợc lựa chọn khi ý thức
cá nhân của nhà văn phát triển cao, nhu cầu bày tỏ nhận thức riêng của họ về con
ngƣời và cuộc sống trở nên thôi thúc. Tìm hiểu về nhân vật trí thức trong các nền
văn học khác nhau, xuất hiện ở các bối cảnh lịch sử văn hóa khác nhau, chúng ta
thấy họ vừa mang những đặc điểm chung giống nhau lại vừa có những đặc điểm
riêng khác biệt. Vậy điều gì chi phối, làm nên sự giống nhau và khác biệt đó? Qua
thực tế văn học, chúng ta có thể khẳng định rằng: hình ảnh ngƣời trí thức trong đời
sống; sự nhìn nhận của nhà cầm quyền, sự nhìn nhận của xã hội, sự nhìn nhận của
cá nhân nhà văn về ngƣời trí thức; quan niệm thẩm mĩ của thời đại, môi trƣờng lịch
sử, văn hóa nơi ngƣời trí thức xuất hiện; thể loại tác phẩm, lý tƣởng thẩm mĩ, quan
niệm nghệ thuật về con ngƣời, trình độ nghệ thuật của thời đại, năng lực nghệ thuật
của nhà văn sẽ quyết định nhân vật ngƣời trí thức trở thành một hình tƣợng thẩm mĩ
nhƣ thế nào. Cũng do phải chịu sự chi phối của nhiều yếu tố bên ngoài mà nhân vật
trí thức ở các thời đại khác nhau, các nền văn hóa khác nhau, các trào lƣu khuynh
hƣớng văn học khác nhau, các tác giả, tác phẩm khác nhau sẽ có những điểm khác
nhau. Tuy nhiên, hình tƣợng ngƣời trí thức còn chịu sự chi phối của một mạch
ngầm bên trong, đó là đặc trƣng trí tuệ, nhân cách, cách ứng xử của mẫu ngƣời trí
thức, điều đó sẽ quyết định những đặc tính chung của kiểu nhân vật đặc biệt này.
20
Nhân vật ngƣời trí thức là kiểu nhân vật đặc biệt của văn học Việt Nam cũng
nhƣ của văn học thế giới. Nhiều tác phẩm thành công nhờ thể hiện nhân vật ngƣời
trí thức, nhiều nhà văn đã làm nên phong cách nghệ thuật văn chƣơng riêng khi thể
hiện hình tƣợng ngƣời trí thức, nhiều nền văn học có thành tựu lớn cũng một phần
nhờ hình tƣợng ngƣời trí thức. Bởi vậy nghiên cứu kiểu nhân vật đặc biệt này là một
trong những công việc mà giới nghiên cứu cần quan tâm khi muốn đánh giá thành
công của một tác phẩm, tác giả, trào lƣu, khuynh hƣớng hay một nền văn học.
1.2. Tình hình nghiên cứu nhân vật ngƣời trí thức trong văn học Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Đầu thế kỷ XX, nền lí luận văn học hiện đại Việt Nam chính thức ra đời trên
cơ sở tiếp thu thành tựu của lí luận văn học phƣơng Tây. Có thể coi giai đoạn từ đầu
thế kỷ XX đến khoảng năm 1932 là giai đoạn khởi động của lí luận văn học. Trong
giai đoạn này các nhà nghiên cứu chủ yếu quan tâm đến các vấn đề lí luận chung.
Từ 1932 đến 1945, cùng với những thành tựu rực rỡ trong sáng tác, lí luận văn học
phát triển mạnh mẽ và đạt đƣợc các thành tựu quan trọng. Ngoài các vấn đề lí luận
chung, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến các vấn đề cụ thể. Việc nghiên cứu
nhân vật văn học, trong đó có nhân vật ngƣời trí thức bƣớc đầu đƣợc quan tâm.
Tìm hiểu thành tựu lí luận của giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945, chúng ta
thấy số công trình có nhắc đến nhân vật trí thức còn rất hiếm hoi. Có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu của thời kì này, đó là bài viết “Tố Tâm của Song An” của
Trƣơng Tửu (Loa, 25 Juillet 1935), “Nhân vật văn chƣơng lãng mạn hay là tinh thần
của giai cấp tiểu tƣ sản nƣớc ta trong ba tác phẩm Tố Tâm, Hồn bướm mơ tiên,
Người sơn nhân” (Báo Tin văn số 25 ngày 01 đến 15/9/1936) của tác giả Thạch
Động và cuốn sách “Văn chƣơng và xã hội” (xuất bản 1944) của Lƣơng Đức Thiệp.
Trong bài viết của mình, Trƣơng Tửu nhận định về bi kịch tình yêu của ngƣời trí
thức tiểu tƣ sản: “Ông Song An mƣợn cái thảm trạng của Đạm Thủy và Tố Tâm để
bày ra cái nguy hiểm của ái tình trong phạm vi xã hội lúc ông viết truyện. Ông thấy
rằng, nếu lòng gia quyến còn mãnh liệt thì ai vƣơng vào ái tình chỉ mua chuốc lấy
nỗi đau lòng” [202, tr. 492 - 493]. Thạch Động cho rằng trong các tác phẩm văn học
lãng mạn Tố Tâm, Hồn bướm mơ tiên, Người sơn nhân có ba kiểu nhân vật: “nhân
21