Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Biến thể cú pháp của câu đơn tiếng việt từ bình diện cấu trúc chức năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 177 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG XUÂN QUANG

BIẾN THỂ CÚ PHÁP CỦA CÂU ĐƠN TIẾNG VIỆT
TỪ BÌNH DIỆN CẤU TRÚC - CHỨC NĂNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2017

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG XUÂN QUANG

BIẾN THỂ CÚ PHÁP CỦA CÂU ĐƠN TIẾNG VIỆT
TỪ BÌNH DIỆN CẤU TRÚC - CHỨC NĂNG
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số:

62 22 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỒNG CỔN


HÀ NỘI - 2017

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu Biến thể cú pháp của
câu đơn tiếng Việt từ bình diện cấu trúc - chức năng này do tôi thực
hiện. Các kết quả nghiên cứu đƣợc nêu trong luận án là trung thực và
chƣa từng đƣợc ai khác công bố trong bất cứ một công trình nào.
Hà Nội, ngày 08 tháng 09 năm 2017
Tác giả luận án

Dƣơng Xuân Quang

3


MỤC LỤC
MỤC LỤC

01

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU

05

DANH MỤC BẢNG BIỂU

06


MỞ ĐẦU

07

1. Lý do chọn đề tài

07

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

08

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

08

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

09

5. Nguồn ngữ liệu

09

6. Đóng góp của luận án

10

7. Bố cục của luận án


11

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ THUYẾT
1.1. Lƣợc sử nghiên cứu về biến thể cú pháp của câu
1.1.1. Các khuynh hướng nghiên cứu biến thể cú pháp của câu trong
ngôn ngữ học
1.1.2. Những nghiên cứu về biến thể cú pháp của câu trong Việt ngữ học
1.2. Đơn vị ngôn ngữ và biến thể của đơn vị ngôn ngữ

12
12
12
17
20

1.2.1. Đơn vị ngôn ngữ

20

1.2.2. Khái niệm biến thể của đơn vị ngôn ngữ

23

1.2.3. Tính đánh dấu và các biến thể của đơn vị ngôn ngữ

26
29


1.3. Câu và biến thể cú pháp của câu
1.3.1. Câu và phát ngôn

29

1.3.1.1. Khái niệm về câu

29

1.3.1.2. Phân biệt câu với phát ngôn

32

1.3.2. Biến thể cú pháp của câu

34

1.3.2.1. Khái niệm biến thể cú pháp của câu

4

34


1.3.2.2. Phân biệt biến thể cú pháp của câu với câu đồng nghĩa

36

1.3.2.3. Phân biệt biến thể cú pháp của câu với câu và phát ngôn


40
41

1.4. Biến thể cú pháp của câu tiếng Việt
1.4.1. Tiêu chí xác định biến thể cú pháp của câu tiếng Việt

41

1.4.1.1. Tiêu chí về nội dung

42

1.4.1.2. Tiêu chí về hình thức

47

1.4.2. Tính đánh dấu và việc nhận diện biến thể cú pháp của câu tiếng Việt

53

1.4.2.1. Tiêu chí đặc điểm hình thức (hình thái - cấu trúc)

53

1.4.2.2. Tiêu chí khả năng phân bố

53

1.4.2.3. Tiêu chí giá trị dụng học


53

1.4.2.4. Tiêu chí tần số sử dụng

54

1.4.3. Các kiểu biến thể cú pháp của câu tiếng Việt

54

1.4.3.1. Biến thể cú pháp trật tự thành tố

54

1.4.3.2. Biến thể cú pháp tỉnh lƣợc thành tố

55

1.4.3.3. Biến thể cú pháp thêm tác tử nhấn mạnh

55

1.4.3.4. Biến thể ngôn điệu

56

1.5. Tiểu kết chƣơng 1

57


CHƢƠNG 2. BIẾN THỂ CÚ PHÁP TRẬT TỰ THÀNH TỐ

58

2.1. Cấu trúc của biến thể cú pháp trật tự thành tố

58

2.1.1. Biến thể cú pháp vị trí chủ ngữ

60

2.1.1.1. Trƣờng hợp vị ngữ là vị từ quá trình

60

2.1.1.2. Trƣờng hợp vị ngữ là vị từ hành động

61

2.1.1.3. Trƣờng hợp vị ngữ là vị từ trạng thái

63

2.1.2. Biến thể cú pháp vị trí bổ ngữ

65

2.1.2.1. Trƣờng hợp câu có một bổ ngữ


66

2.1.2.2. Trƣờng hợp câu có hai bổ ngữ

71

2.1.3. Biến thể cú pháp vị trí trạng ngữ và các thành phần phụ khác
2.2. Chức năng của biến thể cú pháp trật tự thành tố
2.2.1. Chức năng nhấn mạnh

74
78
78

2.2.1.1. Nhấn mạnh tiêu điểm thông báo

78

2.2.1.1. Nhấn mạnh chủ đề/ cơ sở thông báo

81

5


2.2.2. Chức năng mạch lạc

83

2.2.3. Chức năng biểu thái


86

2.3. Tiểu kết chƣơng 2

88

CHƢƠNG 3. BIẾN THỂ CÚ PHÁP TỈNH LƢỢC THÀNH TỐ

89

3.1. Cấu trúc của biến thể cú pháp tỉnh lƣợc thành tố

90

3.1.1. Biến thể cú pháp tỉnh lược chủ ngữ

90

3.1.1.1. Trƣờng hợp chủ ngữ đƣợc xác định bằng chuỗi phát ngôn

90

3.1.1.2. Trƣờng hợp chủ ngữ đƣợc xác định qua ngữ cảnh

92

3.1.1.3. Trƣờng hợp chủ ngữ không đƣợc xác định cụ thể

97


3.1.2. Biến thể cú pháp tỉnh lược vị ngữ

98

3.1.3. Biến thể cú pháp tỉnh lược bổ ngữ

101

3.1.4. Biến thể cú pháp tỉnh lược nhiều thành phần

103

3.1.4.1. Biến thể cú pháp tỉnh lƣợc chủ ngữ và vị ngữ

104

3.1.4.2. Biến thể cú pháp tỉnh lƣợc chủ ngữ, vị ngữ và bổ ngữ

105

3.1.4.3. Biến thể cú pháp tỉnh lƣợc chủ ngữ và bổ ngữ

106

3.2. Chức năng của biến thể cú pháp tỉnh lƣợc thành tố

107

3.2.1. Chức năng nhấn mạnh


107

3.2.2. Chức năng mạch lạc

112

3.2.3. Chức năng biểu thái

116

3.3. Tiểu kết chƣơng 3

120

CHƢƠNG 4. BIẾN THỂ CÚ PHÁP THÊM TÁC TỬ NHẤN MẠNH

122

4.1. Cấu trúc của biến thể cú pháp thêm tác tử nhấn mạnh

123

4.1.1. Biến thể cú pháp thêm tác tử nhấn mạnh chủ ngữ

123

4.1.1.1. Biến thể cú pháp với Chính + CN

124


4.1.1.2. Biến thể cú pháp với Đích thị + CN

124

4.1.1.3. Biến thể cú pháp với Cả + CN

125

4.1.1.4. Biến thể cú pháp với Đến + CN

126

4.1.1.5. Biến thể cú pháp với Ngay + CN

127

4.1.1.6. Biến thể cú pháp với tác tử phức + CN

128

4.1.1.7. Biến thể cú pháp với CN + tác tử chủ ngữ giả

129

4.1.2. Biến thể cú pháp thêm tác tử nhấn mạnh vị ngữ

6

131



4.1.2.1. Biến thể cú pháp với Chính + VN

131

4.1.2.2. Biến thể cú pháp với Đích thị + VN

132

4.1.2.3. Biến thể cú pháp với Rõ + VN

132

4.1.2.4. Biến thể cú pháp với Quả + VN

133

4.1.2.5. Biến thể cú pháp với Đã + VN

134

4.1.2.6. Biến thể cú pháp với Mới + VN

134

4.1.2.7. Biến thể cú pháp với (Không/ Chƣa/ Chẳng +) Hề + VN

135


4.1.2.8. Biến thể cú pháp với Quyết (+ Không/ Chƣa/ Chẳng) + VN

135

4.1.2.9. Biến thể cú pháp với Tịnh (+ Không) + VN

136

4.1.2.10. Biến thể cú pháp với Tổ + VN

136

4.1.2.11. Biến thể cú pháp với Ƣ + VN

137

4.1.3. Biến thể cú pháp thêm tác tử nhấn mạnh bổ ngữ

137

4.1.3.1. Biến thể cú pháp với tác tử nhấn mạnh khẳng định + BN

137

4.1.3.2. Biến thể cú pháp với tác tử nhấn mạnh phủ định + BN

140

4.1.3.3. Biến thể cú pháp với tác tử nhấn mạnh lâm thời + BN


142

4.2. Chức năng của biến thể cú pháp thêm tác tử nhấn mạnh

144

4.2.1. Chức năng nhấn mạnh

144

4.2.2. Chức năng biểu thái

151

4.3. Tiểu kết chƣơng 4

155

KẾT LUẬN

156

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

161
162

7



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU

BN

Bổ ngữ

BTCP

Biến thể cú pháp

CN

Chủ ngữ

N - NP

Danh từ - Cụm danh từ / Ngữ danh ngữ

S

Câu

SV

Cấu trúc Chủ ngữ - Vị ngữ

SVO


Cấu trúc Chủ ngữ - Vị ngữ - Bổ ngữ

V - VP

Vị từ - Cụm vị từ / Ngữ vị từ (Từ loại)

VN

Vị ngữ (Thành phần câu)

Ký hiệu +

Mang thuộc tính, đặc trƣng ấy

Ký hiệu –

Không mang thuộc tính, đặc trƣng ấy

Ký hiệu ?

Phát ngôn đáng ngờ, có thể đƣợc chấp nhận
hoặc không tùy theo điều kiện

Ký hiệu *

Phát ngôn không thể đƣợc chấp nhận

8



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1.

Bảng tổng hợp các tiêu chí nhận diện biến thể cú pháp
của câu đơn tiếng Việt

9

51-52


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống ngôn ngữ, câu là đơn vị thể hiện rõ ràng nhất một tƣ tƣởng,
phản ánh trọn vẹn nhận thức của con ngƣời. Do vậy, đơn vị này từ lâu đã trở thành
một trong những đối tƣợng nghiên cứu đƣợc ƣu tiên hàng đầu của các nhà ngôn ngữ
học. Tuy nhiên, khái niệm câu với bản chất trừu tƣợng từ định đề lý luận của
Ferdinand de Saussure về đối lập giữa ngôn ngữ và lời nói chƣa mô tả đƣợc hết tính
đa dạng về hình thức cũng nhƣ sự phong phú về chức năng của đơn vị này trong thực
tế hoạt động giao tiếp của các cộng đồng ngôn ngữ. Từ đó để hiểu lý do vì sao những
hiện dạng khác nhau của một câu trừu tƣợng hay các biến thể của câu lại là một hiện
tƣợng rất đáng quan tâm, một đề tài rất đáng nghiên cứu trong tổng thể những tìm tòi,
định vị ngôn ngữ giữa đời sống giao tiếp.
Tìm hiểu những biến thể hiện thực rất đa dạng của câu sẽ mang lại nhiều giá trị
cả về lý luận cho khoa học nghiên cứu ngôn ngữ lẫn những ứng dụng ngôn ngữ học
phục vụ xã hội. Trƣớc tiên, ở bình diện lý thuyết, phân tích lý do tồn tại của các biến
thể sẽ giúp giải mã sự tác động của từng ngữ cảnh sử dụng đối với mỗi hình thức biểu
hiện cụ thể, xét rộng hơn là ảnh hƣởng của chức năng đối với cấu trúc của toàn hệ
thống. Mối quan hệ tƣơng tác giữa những điều kiện giao tiếp với hình thức ngôn ngữ
thông qua lăng kính tƣ duy của con ngƣời vẫn luôn là một nội dung quan trọng trong

nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại. Còn về giá trị ứng dụng, nghiên cứu biến thể của
câu sẽ cung cấp hệ thống những khả năng hiện hữu của mỗi câu trừu tƣợng. Nắm
đƣợc quy luật hình thành biến thể này, việc dạy bản ngữ cho trẻ nhỏ và dạy ngoại ngữ
cho ngƣời nƣớc ngoài sẽ có những tiện ích. Đồng thời, thông qua những cấu trúc
tƣơng đồng của các biến thể, các chƣơng trình ứng dụng ngôn ngữ trong máy tính hiện
đại nhƣ dịch tự động, xây dựng cơ sở ngữ liệu, v.v. sẽ có thêm nền tảng vững chắc.
Biến thể ngôn ngữ nói chung, biến thể câu nói riêng là một hiện tƣợng tất yếu
trong hoạt động ngôn ngữ, bởi lẽ đơn vị hệ thống của ngôn ngữ rất hữu hạn nhƣng nội
dung giao tiếp mà con ngƣời cần/ muốn diễn đạt lại là vô hạn. Có thể nói, lâu nay,
ngôn ngữ học dƣờng nhƣ chỉ tập trung vào việc lý giải các cơ chế nội tại của câu từ
10


các bình diện khác nhau với ý thức về sự quy chuẩn hóa, mà chƣa thực sự chú ý nhiều
đến tính đa năng, đa trị, đa phong cách của đơn vị hệ thống này trong hành chức ở lời
nói cụ thể (phát ngôn). Lựa chọn vấn đề nghiên cứu biến thể cú pháp của câu đơn
tiếng Việt từ bình diện cấu trúc - chức năng làm đề tài nghiên cứu, chúng tôi mong
muốn có những phát hiện mới, giúp cho bức tranh nghiên cứu cú pháp trong tiếng
Việt thêm phong phú và minh xác; đồng thời, cũng tạo cơ sở cho những nghiên cứu
tƣơng lai về câu tiếng Việt theo định hƣớng “ngôn ngữ học của lời nói” nói chung và
“ngữ pháp của lời” nói riêng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ những lý do nêu trên, luận án xác định mục đích nghiên cứu là
làm rõ hiện tƣợng biến thể cú pháp của câu từ hai góc nhìn: cấu trúc của hình thức và
chức năng trong hoạt động, trên nguồn ngữ liệu câu đơn tiếng Việt. Nhằm đạt đƣợc
mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án bao gồm:
(1) Nhận diện và miêu tả về mặt hình thức các biến thể cú pháp của câu đơn
tiếng Việt trong tƣơng quan với cấu trúc cú pháp của câu.
(2) Phân tích giá trị ngữ nghĩa, ngữ dụng của các biến thể cú pháp trong mối
quan hệ với ngữ cảnh đƣợc sử dụng.

(3) Từ đó, tìm hiểu vai trò của các nhân tố chức năng ảnh hƣởng tới các biến
thể cú pháp nhằm giải thích động cơ tạo lập và sử dụng các biến thể cú pháp.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Căn cứ vào đề tài nghiên cứu, luận án xác định đối tƣợng nghiên cứu là: biến
thể cú pháp của câu tiếng Việt, hay gọi tắt là biến thể của câu tiếng Việt, biến thể câu
tiếng Việt. Biến thể của câu, theo quan niệm của luận án, phân biệt với câu đồng
nghĩa, một hiện tƣợng gần gũi và dễ gây nhầm lẫn; đồng thời cũng phân biệt với biến
thể câu thuần túy thuộc bình diện ngữ âm (những phân biệt cụ thể và chi tiết đƣợc sẽ
đƣợc trình bày ở Chƣơng 1 khi luận bàn tới nội hàm của khái niệm biến thể cú pháp).
Thực chất, mẫu khảo sát của luận án là biến thể cú pháp của câu đơn tiếng Việt
– là những câu “bao gồm mỗi câu một nòng cốt đơn” [Ủy ban KHXH 1983/2003 (tb);
207], “có nòng cốt là hai trung tâm cú pháp chính làm thành một cụm chủ - vị”
[D.Q.Ban 1989; 127], “kiểu câu có một cụm chủ - vị” [N.V.Hiệp 2009; 352]. Nguyên
do sự thu hẹp phạm vi nghiên cứu vì câu đơn, loại câu có một cụm chủ - vị làm nòng

11


cốt, đƣợc thừa nhận là loại câu có cấu trúc cơ bản nhất của ngôn ngữ, trong khi câu
ghép và câu phức đƣợc chấp nhận nhƣ sự mở rộng cấu trúc của câu đơn. Câu phức là
kiểu câu đƣợc mở rộng bằng một cụm chủ - vị đƣợc chọn làm một thành phần câu nào
đó, còn câu ghép là câu do các cụm chủ - vị ghép lại với nhau theo một quan hệ cụ
thể. Hơn nữa, nếu bao quát đối tƣợng nghiên cứu tới cả câu ghép và câu phức thì
phạm vi quá rộng, vấn đề quá phức tạp, trong khi dung lƣợng của luận án lại không
cho phép.
Để thuận tiện cho việc trình bày, các biể u thƣ́c “câu (tiế ng Viê ̣t)”, “biến thể cú
pháp của câu (tiế ng Viê ̣t)” sử dụng trong luận án đƣợc hiểu thống nhất là “câu đơn
(tiế ng Viê ̣t)”, “biến thể cú pháp của câu đơn (tiế ng Viê ̣t)”. Trong trƣờng hơ ̣p cầ n nhắc
tới câu phức và câu ghép để so sánh, luận án sẽ nêu rõ là “câu phức” và “câu ghép”.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo xuyên suốt luận án là phương pháp miêu tả
với các thủ pháp cụ thể sau:
+ Thủ pháp phân bố để xem xét sự có mặt hay vắng mặt cũng nhƣ vị trí
xuất hiện của từng thành phần trong các biến thể cú pháp; thủ pháp phân tích thành tố
cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa để tìm hiểu những biểu hiện cụ thể của từng
biến thể cú pháp; thủ pháp phân loại, thống kê cung cấp cái nhìn toàn diện về khối
ngữ liệu thu đƣợc nhằm rút ra những nhận xét về đặc điểm hình thức, đặc trƣng bản
chất của biến thể.
+ Thủ pháp phân tích ngữ cảnh đƣợc sử dụng nhằm mô tả chức năng,
phạm vi xuất hiện cũng nhƣ điều kiện sử dụng, hƣớng tới khám phá bình diện chức
năng của biến thể câu.
+ Ngoài ra, một số thao tác trong phân tích cú pháp nhƣ: cải biến, lƣợc,
thế, bổ sung, v.v. cũng đƣợc sử dụng để nhận diện và phân tích các biến thể của câu.
- Phương pháp tư duy khoa học diễn dịch và quy nạp đƣợc áp dụng triệt để
trong quá trình thực hiện nghiên cứu cũng nhƣ trình bày kết quả nghiên cứu. Từ định
đề lý thuyết soi đƣờng đến thực tiễn quan sát và miêu tả những hiện tƣợng biến thể cá
biệt trong giao tiếp, luận án cố gắng hệ thống hóa những đặc trƣng quan yếu của cơ
chế biến đổi, khái quát về hiện tƣợng ngôn ngữ này.
5. Nguồn ngữ liệu

12


Ngữ liệu của luận án đƣợc chọn lọc sử dụng từ những nguồn chính sau:
- Ngữ liệu chủ yếu là các phát ngôn trong giao tiếp hội thoại đƣợc tập hợp từ
các tác phẩm văn học tiếng Việt (truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, v.v.) qua các giai
đoạn từ đầu thế kỷ XX đến nay bởi chúng thể hiện đầy đủ nhất, rõ ràng nhất những
đặc trƣng của hoạt động lời nói. Tiêu chí lựa chọn tác phẩm là các tác giả tiêu biểu có
ảnh hƣởng với nền văn học nƣớc nhà và các tác phẩm mang tính đại diện cho phong
cách tác giả đó.

- Ngoài ra để bổ sung cho ngữ liệu thêm đa dạng, chúng tôi còn khai thác một
số tiểu thuyết cổ điển, truyện thơ Nôm khuyết danh, Truyện Kiều, v.v. Luận án cũng
sử dụng một số bài phát biểu, các tác phẩm kịch với văn phong mang đậm tính khẩu
ngữ nhƣ một nguồn ngữ liệu tham khảo.
- Ngữ liệu đời sống đƣợc thu thập từ những đàm thoại trong đời sống giao tiếp
tiếng Việt, trên báo đài hằng ngày hiện nay của ngƣời Việt bản ngữ, do đây là nguồn
ngữ liệu cập nhật và cũng rất phong phú, sinh động.
6. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về biến thể cú pháp của
câu trên nguồn ngữ liệu câu đơn tiếng Việt. Với định hƣớng nhất quán, luận án cố
gắng triển khai nghiên cứu hƣớng tới ba đóng góp chính:
(1) Luận án phân tích và lý giải có cơ sở khoa học hiện tƣợng cùng một nội
dung sự tình nhƣng có nhiều hình thức thể hiện. Những nghiên cứu cụ thể tập trung
làm rõ từng hiện tƣợng của Việt ngữ học hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ bảo tồn và
phát triển tiếng Việt.
(2) Những khái quát tổng quan về lý thuyết liên quan cũng nhƣ khung lý luận
về biến thể phần nào làm rõ hơn mối quan hệ giữa cấu trúc câu và biến thể cú pháp
của câu, giữa câu và phát ngôn, giữa câu/phát ngôn và ngữ cảnh, v.v. Luận án cũng
góp thêm những cơ sở hữu ích về lý thuyết, về phƣơng pháp cho những nghiên cứu
rộng hơn trong ngôn ngữ học nhƣ: ngữ pháp học, ngữ nghĩa ngữ pháp, ngôn ngữ trong
hành chức, ngôn ngữ phản ánh tƣ duy bản ngữ, nghiên cứu diễn ngôn hội thoại v.v.
(3) Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể đƣợc ứng dụng
trong biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt, sách dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài,

13


đồng thời cũng có thể cung cấp cơ chế xử lý ngữ liệu cho việc mã hóa câu đơn tiếng
Việt trong ngân hàng ngữ liệu của máy tính, hƣớng tới ứng dụng dịch tự động.
7. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu (05 trang), phần Kết luận (05 trang), và Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung chính của luận án đƣợc trình bày trong bốn chƣơng:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và Cơ sở lý thuyết
Trên cơ sở tổng quan khái lƣợc về đối tƣợng nghiên cứu dựa vào các khuynh
hƣớng, trào lƣu nghiên cứu của nền ngôn ngữ học thế giới và những quan tâm về hiện
tƣợng đồng nghĩa cú pháp trong Việt ngữ học, những vấn đề lý thuyết cơ bản liên
quan tới biến thể cú pháp của câu đƣợc trình bày ở chƣơng đầu tiên của luận án nhƣ là
cơ sở cho những nghiên cứu cụ thể về từng loại biến thể triển khai ở những chƣơng
sau. Khái niệm quan trọng nhất đƣợc tập trung làm rõ là biến thể cú pháp trên nền
tảng của những lý luận ngôn ngữ học đại cƣơng nhƣ đối lập ngôn ngữ - lời nói, đơn vị
ngôn ngữ, tính đánh dấu; trong sự so sánh với câu và phát ngôn; để từ đó định hình
đƣợc bộ tiêu chí xác định các biến thể cú pháp của câu tiếng Việt.
Chương 2. Biến thể cú pháp trật tự thành tố
Chƣơng này dành để miêu tả và phân tích những biến thể cú pháp trật tự thành
tố của tiếng Việt. Vì những chức năng khác nhau mà trong tiếng Việt có sự hoán đổi
vị trí của các thành phần câu không nhƣ trật tự thông thƣờng CN-VN-BN (tƣơng ứng
với trật tự phổ quát S-V-O). Chƣơng 2 sẽ góp phần lý giải sự hiện diện của những trật
tự đánh dấu ấy trên cơ sở những cấu trúc hình thức đƣợc tập hợp.
Chương 3. Biến thể cú pháp tỉnh lược thành tố
Thông qua những quan niệm về tỉnh lƣợc, các biến thể cú pháp tỉnh lƣợc thành
phần nào đó của câu sẽ đƣợc mô tả một cách hệ thống về cấu trúc. Những hiện dạng
cấu trúc hình thức đó là cơ sở để tìm hiểu những đặc trƣng chức năng, với tƣ cách nhƣ
là những động lực hình thành biến thể cú pháp do lƣợc bỏ thành phần chứa thông tin
không quan trọng.
Chương 4. Biến thể cú pháp thêm tác tử nhấn mạnh
Cấu trúc hình thức và chức năng của các biến thể cú pháp bổ sung tác tử nhấn
mạnh (chủ yếu là trợ từ) của câu tiếng Việt sẽ đƣợc tiến hành xem xét ở chƣơng 4. Từ

14



giá trị ngữ nghĩa và ngữ dụng của các tác tử nhấn mạnh, những phân tích về kiểu biến
thể cú pháp này sẽ đƣợc phân tích làm rõ bằng các dẫn chứng phong phú và cụ thể.

15


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chƣơng đầu tiên của luận án trình bày hai nội dung cơ sở và cần thiết cho việc
triển khai những nghiên cứu cụ thể về các biến thể cú pháp ở những chƣơng sau. Nội
dung thứ nhất là bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu cũng nhƣ những quan
niệm khác nhau của giới ngôn ngữ học thế giới và Việt ngữ học về biến thể của đơn vị
ngôn ngữ và vấn đề biến thể của câu trong nghiên cứu cú pháp. Nội dung thứ hai là
những cơ sở lý thuyết có liên quan đến đề tài nhƣ khái niệm về biến thể cú pháp, tiêu
chí nhận diện biến thể cú pháp và các loại biến thể cú pháp của câu đơn tiếng Việt.
1.1. Lƣợc sử nghiên cứu về biến thể cú pháp của câu
Trong khoảng mấy chục năm trở lại đây, khi những nghiên cứu liên ngành
trong ngôn ngữ học nhƣ ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học văn hóa, ngôn ngữ học
tâm lý, v.v. trở thành một bộ phận không thể thiếu của lịch sử phát triển ngành, khái
niệm biến thể cũng trở nên quen thuộc hơn với nghiên cứu của W. Labov (1966) về
phƣơng ngữ học xã hội. Tuy nhiên, từ trƣớc đó, trong địa hạt nghiên cứu ngôn ngữ
học lý thuyết, biến thể đã đƣợc một số tác giả thuộc nhiều trƣờng phái khác nhau nhắc
tới. Có chấp nhận, có bài bác, song dù sao biến thể cũng đã trở thành một khái niệm
gắn bó chặt chẽ với khái niệm then chốt của ngôn ngữ học đại cƣơng – đơn vị ngôn
ngữ. Bên cạnh những thành công trong nghiên cứu về biến thể âm vị, biến thể cú pháp
cũng đã đƣợc đề cập khi nghiên cứu về sự đồng nghĩa.
1.1.1. Các khuynh hướng nghiên cứu biến thể cú pháp của câu trong ngôn ngữ học
Từ thời Hy Lạp cổ đại, những nghiên cứu trong địa hạt tu từ học đã có khái
niệm “παράφρασις” với thuật ngữ tƣơng đƣơng trong tiếng Latin là “paraphrasis”,

mang ý nghĩa “cộng thêm một cách, một dạng của biểu thức”, để thấy mối quan tâm
tới hiện tƣợng đồng nghĩa của câu. Tuy nhiên, những ý tƣởng luận bàn về câu đồng
nghĩa cũng nhƣ những phân biệt cụ thể và chi tiết về khái niệm “gần gũi” biến thể cú
pháp phải chờ đến thế kỷ XX cùng những trào lƣu nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện
đại mới thực sự có những đóng góp quan trọng. Cấu trúc luận xuất phát từ nền tảng
nghiên cứu của F. de Saussure đã xác lập mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ (trừu

16


tƣợng, khái quát) và lời nói (cụ thể, đa dạng). Khởi đầu từ trƣờng phái Genève với
Saussure và những môn đệ, ngôn ngữ học cấu trúc đã có ảnh hƣởng trực tiếp và sâu
rộng tới nhiều trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX nhƣ:
trƣờng phái cấu trúc - chức năng Praha cùng những tên tuổi V. Mathesius, R.
Jakobson, N. Trubetzkoy, v.v.; trƣờng phái Ngữ vị luận Cophenhagen của L.
Hjelmslev và V. Brøndal; trƣờng phái cấu trúc Pháp do A. Martinet khởi xƣớng và
trƣờng phái Miêu tả Mỹ với các công trình của L. Bloomfield và các học trò; cùng
một số nhà ngữ học Nga – Xô viết ở hai trung tâm Moskva và Leningrad. Vì vậy việc
chấp nhận câu đồng nghĩa hay những biến thể của một câu ở chừng mực nào lại tùy
thuộc vào chủ kiến của từng tác giả. S. Z. Harris (1969) cho rằng trong đời sống ngôn
ngữ có hiện tƣợng những câu cùng biểu đạt một nội dung thông báo. Còn Ju.D.
Apresjan (1974) xác định: “Câu đồng nghĩa là những câu cùng diễn đạt một nội
dung” [dẫn theo N.H.Chƣơng 1999; 20]. Bao quát hơn từ mối quan hệ ngôn ngữ và lời
nói, John Lyons chấp nhận: “…các hiện dạng của các phát-ngôn-thành-phẩm khác
nhau có thể có được bằng cách phát ngôn cùng một câu trong những ngữ cảnh khác
nhau.” [J. Lyons 1995 – N.V.Hiệp dịch; 257]. Hoặc nhƣ Ju. Stepanov (1976) trong sự
phân biệt cấp độ trừu tƣợng và tƣơng ứng là tầng bậc ngôn ngữ, đã quan niệm: câu là
đặc thù, là kiểu loại phân biệt còn phát ngôn là đơn nhất, là quan sát đƣợc [dẫn theo
L.T.Thắng 2004; 12]. Hiển nhiên, đó nhƣ sự xác tín về quá trình ánh chiếu của một
nội dung thành nhiều hình thức trong thực tiễn nói năng đa dạng. Còn V. B. Kasevich

trong nghiên cứu về hệ đối vị của cú pháp, quan niệm hiện tƣợng nói vòng nhƣ những
phát ngôn đồng nghĩa của cùng một câu. “Các quy tắc nói vòng có thể được nghiên
cứu ở hai bình diện: như các quy tắc chuyển đổi từ cùng một nghĩa tới những cấu trúc
cú pháp khác nhau và như những biến đổi qua lại từ câu này sang câu khác mà vẫn
giữ nguyên ý nghĩa.” [V.B. Kasevich 1977 – Nhiều dịch giả 1998; 160]. Với những
mô hình cấu trúc chặt chẽ cùng những hệ hình tồn tại của chúng, cấu trúc luận ngầm
chấp nhận sự tồn tại của các biến thể câu, nhƣng chƣa có khu biệt với câu đồng nghĩa.
Mặc dù ít luận bàn tới nghĩa mà đẩy những nghiên cứu cấu trúc đến triệt để
hình thức, N. Chomsky và các môn đệ cũng dành một vị trí cho trƣờng hợp tƣơng
đồng nội dung phản ánh của câu. Tạo sinh luận, trong những năm 60-70 của thế kỷ
trƣớc, sử dụng hai khái niệm cơ bản: cấu trúc tầng sâu (deep structure) và cấu trúc bề

17


mặt (surface structure). Theo quan niệm của N. Chomsky (1965, 1972), R.A. Jakob &
P. Rosenbaum (1968), hai câu nếu có chung cấu trúc tầng sâu thì nhất định sẽ cùng
giá trị ý nghĩa. Tuy nhiên, lƣỡng phân cấu trúc tầng sâu và cấu trúc bề mặt của
Chomsky không nằm ngoài mục đích kiểm nghiệm các phép cải biến ngữ pháp trên
khung chung của Ngữ pháp tạo sinh - cải biến. Ví dụ, dựa vào một trong những thủ
pháp cải biến là thay đổi vị trí của Tặng cách: NP1 V NP2 NP3 > NP1 V NP3 NP2, ta
có hai cấu trúc bề mặt khác hình thức cú pháp nhƣng chỉ từ một cấu trúc tầng sâu:
S1: Cô ấy tặng sách cho tôi.



S2: Cô ấy tặng cho tôi sách.

S


= NP + VP:

Cô ấy + Tặng sách cho tôi

VP

= V + NP’:

Tặng + Sách cho tôi

NP’

= NP2 + NP3:

Sách + Cho tôi

Hoặc trái lại, có những trƣờng hợp nhƣ câu mơ hồ, dù cùng một cấu trúc bề mặt
nhƣng vốn dĩ chúng lại thuộc về hai cấu trúc tầng sâu khác nhau:
S: Tôi tặng cô chủ nhiệm lớp 10 quyển sách.



S1

= NP + VP:

VP

= V + NP’:


NP’

= NP2 + NP3:

S2

= NP + VP:

VP

= V + NP’:

NP’

= NP2 + NP3:

Tôi + Tặng cô chủ nhiệm lớp 10 quyển sách
Tặng + Cô chủ nhiệm lớp 10 quyển sách
Cô chủ nhiệm lớp 10 + Quyển sách
Tôi + Tặng cô chủ nhiệm lớp 10 quyển sách
Tặng + Cô chủ nhiệm lớp 10 quyển sách
Cô chủ nhiệm lớp + 10 quyển sách

NP3 = Num + N:

10 + quyển sách

Mặc dù không có những nghiên cứu chi tiết về hiện tƣợng tƣơng đồng ngữ nghĩa của
câu cũng nhƣ một thao tác cụ thể cho việc xác lập những biến thể cú pháp do lý thuyết
của N. Chomsky không hƣớng quan tâm vào chức năng giao tiếp của ngôn ngữ để lý

giải hiện tƣợng cùng một nội dung sự tình lại có thể sản sinh ra nhiều cấu trúc hình
thức khác nhau, nhƣng những đề cập của Tạo sinh luận về trƣờng hợp hai câu bề mặt
đƣợc hình thành từ cùng một cấu trúc tầng sâu là sự khẳng định về một hiện thực ngôn
ngữ cần có thêm những nghiên cứu.
Nhƣ một sự bổ khuyết cho Cấu trúc luận, song hành phát triển để cùng phản
biện với Tạo sinh luận, Chức năng luận trở lại quan tâm tới mặt “phƣơng tiện giao tiếp
của ngôn ngữ”. Nhằm tôn vinh ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, trào lƣu này có

18


nguồn gốc khởi đầu từ trƣờng phái cấu trúc - chức năng Praha. Một trong những quan
điểm cơ bản của trƣờng phái Praha là nghiên cứu cấu trúc hệ thống đặt trong mối quan
hệ với chức năng của ngôn ngữ. Từ góc nhìn của chức năng, mà cụ thể là chức năng
giao tiếp, N. Trubetzkoy và tiếp theo đó là ngƣời cộng sự R. Jakobson đã đƣa ra
những khái niệm mới dựa trên nền tảng đối lập giữa ngôn ngữ trừu tƣợng và lời nói
hiện thực về biến thể âm vị (allophone), biến thể hình vị (allomorph). Ở địa hạt nghiên
cứu cú pháp, với quan niệm phân biệt các phối cảnh chức năng của câu với cấu trúc cú
pháp của câu, hiện tƣợng nhiều hình thức biểu hiện của cùng một nội dung sự tình
cũng đƣợc nhắc tới ở những ví dụ phân tích dựa trên cơ sở nền tảng của nguyên lý về
phân đoạn thực tại trong các công trình của V. Mathesius, J. Firbas và F. Daneš. Mặc
dù chƣa có những nghiên cứu chi tiết về hiện tƣợng biến thể cú pháp của câu nhƣng
những ví dụ trong phân tích về từng phát ngôn gắn liền với một hoạt động giao tiếp cụ
thể, phụ thuộc vào một ngữ cảnh nhất định khi bàn luận tới sự tác động của phối cảnh
chức năng đối với câu lại chính là những phản ánh sinh động về hiện tƣợng ngôn ngữ
cùng một câu nói (với cùng một cấu trúc cú pháp và thành phần từ vựng - ngữ nghĩa)
nhƣng lại thể hiện những nội dung thông báo, những nhiệm vụ thông báo khác nhau
tùy theo mục đích của ngƣời tham gia giao tiếp, bấy lâu đã bị cấu trúc luận bỏ qua.
Định hƣớng nghiên cứu lý thuyết của trƣờng phái Praha là cấu trúc dùng để hành
chức, nhằm hƣớng tới những chức năng cụ thể, và dĩ nhiên không có cấu trúc phi chức

năng. Quan niệm này là nền tảng cho những công trình của các nhà ngôn ngữ học
chức năng và cũng chính là tiền đề cho những nghiên cứu về biến thể của các cấp độ
ngôn ngữ sau này. Từ những nội dung về biến thể ở cấp độ ngữ âm-âm vị học và hình
thái học, K. Lambrecht (1994) đã xem xét biến thể của câu, kế thừa những ý tƣởng
của F. Daneš (1964). Bổ khuyết cho những khoảng trống từ quan niệm của Tạo sinh
luận, Lambrecht cho rằng: “…phân tích cấu trúc thông tin giúp chúng ta giải quyết
được một vấn đề cơ bản từng bị bỏ qua nhiều trong ngữ pháp tạo sinh: vấn đề về việc
tại sao ngữ pháp lại đưa ra nhiều cách khác nhau để diễn đạt cùng một mệnh đề đến
vậy” [K. Lambrecht 1994 – N.H.Cổn, H.V.Hằng dịch 2015; 446]. Và ở những nghiên
cứu cụ thể về trật tự từ, Simon Dik khẳng định vai trò của ngữ pháp chức năng trong
nghiên cứu các dạng thức khác nhau đƣợc mã hóa từ cấu trúc tiềm ẩn: “Cách tiếp cận
của ngữ pháp chức năng đối với thao tác sắp xếp trật tự hoàn toàn tương thích với

19


nhiều mô hình khác nhau cùng tồn tại, được sử dụng trong những điều kiện khác nhau
và vì những mục đích khác nhau.” [S. Dik 1989; 335].
Định hình từ những năm 80 của thế kỷ XX, Tri nhận luận quan tâm tới sự tác
động của năng lực tƣ duy con ngƣời đối với ngôn ngữ. Cùng chia sẻ với Chức năng
luận trong việc đề cao, nhấn mạnh vai trò của ngữ nghĩa và chức năng trong quan hệ
với cấu trúc hình thức nhƣng Tri nhận luận khẳng định ngữ pháp của một ngôn ngữ
luôn có nghĩa. Định hƣớng chủ đạo chi phối khuynh hƣớng này là luôn cần phát hiện
ra lý do ngữ nghĩa ẩn tàng trong các cấu trúc ngữ pháp nên gần nhƣ chƣa có những
nghiên cứu cụ thể về hiện tƣợng tƣơng đồng ngữ nghĩa của câu. Các nhà ngôn ngữ
học tri nhận chấp nhận mọi sự khác biệt về cấu trúc ngữ pháp đều có thể đƣợc lý giải
do những khoảng cách của nhận thức mỗi con ngƣời cụ thể trong từng hoàn cảnh
riêng biệt. Tuy nhiên, trên nền quan niệm kết cấu ngữ pháp mang tính biểu hiệu
(symbolic) với quan hệ giữa nội dung và hình thức của R. Langacker (1987), ý tƣởng
về biến thể của cú pháp đã đƣợc một số nhà ngôn ngữ học tri nhận nhƣ E. Traugott và

E. König (1991), D. Geeraerts (2006) nhắc tới. Quan niệm ngữ pháp là sự ý niệm hóa,
họ cho rằng mọi thay đổi của ngữ pháp tƣơng ứng với những quá trình ẩn dụ và hoán
dụ trong nhận thức của con ngƣời. Vì vậy không thể phủ nhận những khác biệt của
ngữ pháp đều đƣợc phái sinh trên một khuôn mẫu gốc mà sự lựa chọn hình - nền trong
nhận thức mỗi cá nhân sử dụng ngôn ngữ là cơ sở. Dù vậy, trong nguồn tài liệu chúng
tôi tiếp cận đƣợc, cho đến nay, tất cả mới chỉ dừng lại ở những tuyên ngôn trong mối
liên hệ của ngữ pháp với từ vựng mà ngữ nghĩa là trọng tâm nghiên cứu chứ chƣa có
nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện nào của trào lƣu Ngôn ngữ học tri nhận về biến
thể ở cấp độ cú pháp.
Theo suốt chiều dài lịch sử của khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ, có thể khẳng
định, hiện tƣợng ngôn ngữ mang cùng một nội dung sự tình nhƣng đƣợc biểu đạt bằng
những hình thức khác nhau nhƣ những biến thể (hình thức bảo lƣu những tƣơng đồng)
hoặc rộng hơn nhƣ những hiện tƣợng đồng nghĩa (hình thức có thể hoàn toàn khác
biệt) trong giao tiếp đã đƣợc các trƣờng phái ngôn ngữ học hiện đại phát hiện. Song
chấp nhận hiện tƣợng để giải quyết chúng bằng những nghiên cứu có cơ sở là công
sức của những nhà ngữ pháp chức năng, mà thành tựu đáng kể thuộc về K. Lambrecht
(1994) với nguồn ngữ liệu từ các ngôn ngữ hòa kết Âu châu.

20


1.1.2. Những nghiên cứu về biến thể cú pháp của câu trong Việt ngữ học
Trong Việt ngữ học, hiện tƣợng nhiều hình thức kết cấu cú pháp biểu đạt chung
một nội dung ngữ nghĩa đã đƣợc quan tâm nhắc tới. Trƣớc nhất là những quan niệm
khái lƣợc về câu đồng nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu về từ đồng nghĩa, Đỗ Hữu
Châu (1973) đã nhắc tới hiện tƣợng đồng nghĩa ở cấp độ cú pháp, nhƣng đó không
phải nội dung ông quan tâm phân tích. Hƣớng tới mục đích chuẩn hóa tiếng Việt, Đái
Xuân Ninh (1981) trình bày khái quát một số dạng thức của câu đồng nghĩa. Bùi
Tuyết Mai (1983) đã bảo vệ luận án ở Liên Xô với nội dung trọng tâm nghiên cứu một
số kiểu cấu trúc đồng nghĩa cú pháp mà cùng diễn đạt những ý nghĩa khái quát nhƣ

nghĩa sở hữu, nghĩa đồng nhất, nghĩa tồn tại, v.v. [dẫn theo N.H.Chƣơng 1999; 15].
Công trình chuyên sâu về ngữ pháp văn bản của Trần Ngọc Thêm (1985) có giới thiệu
các phép thế. Ở chừng mực nào đó, các phép thế là cơ sở để tạo nên các câu đồng
nghĩa. Hoàng Phê (1989) chấp nhận các lời hiển ngôn đƣợc thay thế bằng các lời hàm
ngôn là ngầm định về những lời có chung nội dung biểu đạt. Hồ Lê (1991) có trình
bày về một số bình diện đồng nghĩa, trong đó có nhắc tới câu đồng nghĩa. Bài viết
“Câu đồng nghĩa” của Nguyễn Đức Dân (1995) đề cập một số vấn đề cơ bản của câu
đồng nghĩa và đã đƣợc Nguyễn Hữu Chƣơng triển khai trong luận án tiến sĩ “Một số
vấn đề về câu đẳng nghĩa (đồng nghĩa) tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)” (1999) của
mình. Tiếp cận hiện tƣợng đồng nghĩa cú pháp từ điểm nhìn ngữ nghĩa, ngữ dụng hiện
đại, tác giả quan tâm tới những phát ngôn trong đời sống ngôn ngữ hiện thực nên đôi
chỗ có những phân tích chƣa hẳn đã thỏa đáng. Ví dụ, “Anh Nam ơi ra em bảo.” và
“Mình ơi ra em bảo.” [tr.90] đƣợc chấp nhận là câu đồng nghĩa bởi xét trong ngữ cảnh
sử dụng thì “Anh Nam” và “mình” là đồng sở chỉ; hay câu hỏi “Sao không ngủ thêm
nữa?” đƣợc phân tích tùy ngữ cảnh để đồng nghĩa với “Nên tiếp tục ngủ nữa.” hoặc là
“Chị dậy quá trễ!” [tr.71]; v.v. Có lẽ tiếng Việt cần có những nghiên cứu về hiện
tƣợng tƣơng đồng ngữ nghĩa ở cấp độ câu lấy cấu trúc hệ thống làm cơ sở để tránh
những tƣ biện trong lập luận.
Hoàng Trọng Phiến (1980) với công trình Ngữ pháp tiếng Việt – Câu, đã có
những phân biệt giữa biến thể cú pháp với đồng nghĩa cú pháp, một hiện tƣợng “dùng
các kết cấu cú pháp khác nhau để biểu thị một nội dung (một biểu vật)” [H.T.Phiến
1980/2008 (tb); 229]. Nhƣng tác giả cũng chỉ dừng lại ở quan niệm về biến thể cú

21


pháp là “những sóng đôi của các quan hệ khác loại, đồng loại” [H.T.Phiến 1980 sđd:
228] với các ví dụ minh họa: Đứng bên bàn/ Đứng gần bàn/ Đứng trên bàn, Chết vì
bệnh/ Chết bệnh, Ăn bằng đũa/ Ăn đũa, mà chƣa có những luận bàn rõ ràng hơn về kết
cấu cũng nhƣ cơ chế hành chức của biến thể. Phan Thiều (1988) trong những biện

luận về sự tồn tại của đảo ngữ cũng có nhắc tới biến thể nhƣ những hình thức ngôn
ngữ gần gũi, là những biểu hiện khác nhau của một hằng thể. Nhƣng ông cũng mới chỉ
dừng lại ở việc chỉ ra một số đặc điểm nhƣ: nội dung lô-gích - ngữ nghĩa là một, hình
thức bổ sung mang ý nghĩa nhấn mạnh, có thể phục hồi lại hình thức thông thƣờng,
chứ chƣa có định nghĩa xác định cũng nhƣ những tiêu chí cụ thể để nhận diện biến
thể. Với mục đích vƣợt ra khỏi khung ngữ pháp châu Âu để định vị lại tiếng Việt, Cao
Xuân Hạo (1991) ƣu tiên dùng cấu trúc đề - thuyết trong phân tích câu tiếng Việt. Ông
nhấn mạnh đến hƣớng đi của tƣ duy ngƣời Việt với “cách chọn cái gì làm điểm xuất
phát, cái gì làm nội dung khai triển” để “có thể biểu hiện một sự tình duy nhất, nhưng
lại phản ánh những cách nhận định khác nhau về sự tình ấy” [C.X.Hạo 1991/2006
(tb); 67]. Lập luận này nên đƣợc hiểu rằng “cách chọn cái gì làm điểm xuất phát”
chính là mục đích phát ngôn và theo mục đích phát ngôn khác nhau thể hiện tƣ duy
khác nhau của ngƣời nói, dẫn tới những khác nhau về hình thức biểu hiện. Vì vậy, các
hình thức khác nhau đó không phải hiện tƣợng đồng nghĩa của câu. Mặc dù ở một số
trƣờng hợp Cao Xuân Hạo đồng nhất câu với phát ngôn (gắn với một ngữ cảnh duy
nhất) nhƣng một số luận bàn khác ông chấp nhận những hiện tƣợng cụ thể có tƣơng
đồng ý nghĩa, chẳng hạn nhƣ trƣờng hợp tỉnh lƣợc – “hai bên có thể thay thế cho nhau
mà không đưa đến một sự thay đổi nào về nghĩa” [C.X.Hạo 1991 sđd; 143] hay
trƣờng hợp “thì” có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện đƣợc xem “như hai cách phát
ngôn của cùng một câu” [C.X.Hạo 1991 sđd; 252] hoặc những trƣờng hợp có trọng
âm cƣờng điệu, v.v. Rõ ràng, ở một mức độ nào đó trong ngữ liệu phong phú của
tiếng Việt, Cao Xuân Hạo cũng nhận thấy hiện tƣợng tƣơng đồng ý nghĩa cũng nên
đƣợc xem nhƣ biến thể cú pháp của câu nhƣng ông chƣa có nhiều kiến giải về chúng.
Nguyễn Hồng Cổn (2008, 2010) là ngƣời có đóng góp cho sự định hình khái niệm
biến thể cú pháp trong nghiên cứu câu tiếng Việt với định nghĩa “ … trong cú pháp
học khái niệm biến thể cú pháp cũng được dùng trước hết để chỉ các biến thể đồng
nghĩa của một kết cấu cú pháp nhất định nhưng khác nhau về các đặc điểm hình thái

22



cú pháp bề mặt và sắc thái dụng học” [N.H.Cổn 2008; 53], để phân biệt với câu đồng
nghĩa trong truyền thống Việt ngữ học bấy lâu.
Bên cạnh những nghiên cứu quan tâm trực tiếp đến khái niệm biến thể cú pháp
của câu, Việt ngữ học cũng có những công trình của nhiều tác giả, tuy không định
danh trực tiếp hoặc nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề khác của địa hạt cú pháp
rộng lớn nhƣng thao tác làm việc, ngữ liệu xử lý hay đối tƣợng nghiên cứu đều ít
nhiều có liên quan đến hiện tƣợng ngôn ngữ một nội dung nhƣng có nhiều hình thức
biểu hiện – biến thể cú pháp. Lý Toàn Thắng (2004) nghiên cứu trật tự từ trong cú
pháp với xuất phát điểm là lý thuyết phân đoạn thực tại của trƣờng phái Praha ông đã
giới thiệu (1981) mà hình dung về những biến thể của câu “có một trật tự từ được coi
là “chuẩn mực”, là “ổn định”; và một trật tự từ được coi là “biến thể”, là “vận
dụng”, là “linh động”.” [L.T.Thắng 2004: 26], vì nguyên nhân “do nhu cầu biểu đạt
thông tin thực tại ở mỗi phát ngôn không giống nhau” [L.T.Thắng 2004: 24]. Trƣớc
đó, thuần túy ảnh hƣởng của Cấu trúc luận, những hệ hình câu đơn tiếng Việt của
Nguyễn Cao Đàm (1989) cũng có thể coi nhƣ những định hƣớng nghiên cứu biến thể
cú pháp câu đơn qua những dạng thay đổi trật tự thành phần câu. Cũng phân tích câu
trong ngữ cảnh giao tiếp, những quan niệm về câu rút gọn của Nguyễn Kim Thản
(1963), câu đơn đặc biệt của Diệp Quang Ban (1989) với hai nhóm cụ thể: câu đơn
đặc biệt - danh từ và câu đơn đặc biệt - vị từ, câu tỉnh lƣợc của Phạm Văn Tình (2002)
là những nghiên cứu tiệm cận với quan niệm về hiện tƣợng biến thể cú pháp. Tuy đặt
nghiên cứu của mình trong chuyên ngành hẹp ngôn ngữ học văn bản nhƣng những
kiến giải về hiện tƣợng tỉnh lƣợc của Phạm Văn Tình theo định hƣớng “nếu xem xét
các phát ngôn trong giao tiếp, ta sẽ thấy có vô số phát ngôn không thể quy về các mô
hình câu, các cấu trúc cú pháp…” [P.V.Tình 2002; 14] là những đóng góp cho những
phân tích biến thể cú pháp.
Mặc dù đƣợc chấp nhận là một hiện tƣợng ngôn ngữ từ khá sớm trong Việt ngữ
học, song biến thể cú pháp vẫn là một đối tƣợng cần thêm những nghiên cứu hệ thống
và hoàn chỉnh. Các phân tích về câu đồng nghĩa chƣa xác định đƣợc bộ tiêu chí cụ thể
nên còn có những trƣờng hợp hình thức khác quá xa nhau chƣa thỏa đáng để khẳng

định là cùng nội dung ý nghĩa. Một số nghiên cứu bộ phận các hiện tƣợng ngôn ngữ
liên quan nhƣ thay đổi trật tự thành phần, tỉnh lƣợc bộ phận, v.v. dù rất sâu sắc nhƣng

23


không phải lấy biến thể làm đối tƣợng nghiên cứu nên chƣa có cái nhìn nhất quán.
Còn một số quan niệm về biến thể cú pháp của câu mới ở giai đoạn định hình khái
niệm, tạo cơ sở cho những nghiên cứu toàn diện, những phân tích cụ thể tiếp nối.
1.2. Đơn vị ngôn ngữ và biến thể của đơn vị ngôn ngữ
1.2.1. Đơn vị ngôn ngữ
F. de Saussure đƣợc tôn vinh là ngƣời khai sinh ngôn ngữ học hiện đại bằng
chính những quan điểm cách mạng mang giá trị nền tảng định hình ngành khoa học
này. Trong công trình có tầm ảnh hƣởng Cours de linguistique générale – Giáo trình
ngôn ngữ học đại cương, một trong những phát biểu đƣợc trích dẫn nhiều nhất là về
bản chất ngôn ngữ. Ông cho rằng: “Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu biểu hiện
những ý niệm” [F. de Saussure – C.X.Hạo dịch 2005; 53]. Hệ thống đƣợc hiểu là tập
hợp các phần tử có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy
luật nhất định để trở thành một chỉnh thể, tƣơng tự nhƣ là một mạng lƣới quan hệ của
các yếu tố. Suy cho cùng, bản chất cốt lõi của hệ thống không nằm ngoài yếu tố và
quan hệ, qua cầu nối là giá trị. Do đó, nhận định “Ngôn ngữ với tính cách là một hệ
thống” [F. de Saussure sđd; 49], “Một ngôn ngữ làm thành một hệ thống” [F. de
Saussure sđd; 151] có cơ sở vì ngôn ngữ cũng chứa các yếu tố cấu thành cùng các
tầng bậc quan hệ giữa các yếu tố và giá trị của các yếu tố đƣợc quy định từ các quan
hệ ấy. Và vì “…ngôn ngữ cũng có tính chất của một hệ thống hoàn toàn dựa trên cơ
sở sự đối lập của những đơn vị cụ thể của nó” [F. de Saussure sđd; 208] nên tìm hiểu
ngôn ngữ, không thể không quan tâm tới các thành tố cấu tạo hay thuật ngữ định danh
là các đơn vị ngôn ngữ (linguistic unit/ language unit).
Đơn vị ngôn ngữ là một trong những khái niệm cơ bản và đƣợc đề cập nhiều
trong ngôn ngữ học. Do chịu chi phối của thuộc tính hệ thống mà đơn vị ngôn ngữ gắn

bó mật thiết với khái niệm tầng bậc, để từ đó phân tách thành những đơn vị thuộc từng
cấp bậc khác nhau, mà suốt gần 100 năm qua giới nghiên cứu ngôn ngữ đã sử dụng
nhƣ những khái niệm công cụ quen thuộc. Từ trƣớc tới nay, ngôn ngữ học tồn tại hai
quan niệm về đơn vị ngôn ngữ, dù đều dựa trên cơ sở lƣỡng phân giữa ngôn ngữ
(langue) và lời nói (parole) của F. de Saussure. Quan niệm thứ nhất coi từ và các đơn
vị dƣới từ là đơn vị của ngôn ngữ, phân biệt với đơn vị của lời nói, bao gồm các đơn

24


vị trên từ (gồm có ngữ đoạn và đơn vị điển hình trong phân tích ngữ pháp – câu). Còn
quan niệm thứ hai có phần nhất quán hơn với cách hiểu đơn vị ngôn ngữ là những đơn
vị trừu tƣợng do nhà ngôn ngữ học xác định để phân loại những thành phần cấu tạo
nên các biểu thức ngôn ngữ, từ đó để phân biệt các đơn vị ngôn ngữ với các đơn vị lời
nói ở từng bậc. Cụ thể là mỗi tầng bậc của hệ thống ngôn ngữ sẽ tồn tại đơn vị ngôn
ngữ (đơn vị trừu tƣợng), song song cùng những đơn vị lời nói (đơn vị hiện thực trong
giao tiếp của các đơn vị trừu tƣợng kia). Để phân cấp bất kỳ một nhóm đối tƣợng nào,
luận lý tất yếu yêu cầu mỗi tầng bậc đƣợc phân loại phải có đặc trƣng chung để vẫn
đảm bảo tạo thành hệ thống tổng quát nhƣng cũng cần có những đặc điểm riêng lẻ để
phân biệt với các bậc khác. Ngôn ngữ học lựa chọn đặc trƣng chung phân tích và tổng
hợp để hình thành hệ thống tầng bậc của mình. Các đơn vị cùng thuộc một bậc của
ngôn ngữ phải tổng hợp trực tiếp đƣợc thành các đơn vị thuộc bậc cao hơn, và ngƣợc
lại mỗi đơn vị khi phân tích sẽ đƣợc những đơn vị cùng một bậc thấp hơn trực tiếp.
Đây là cơ sở để từ một số lƣợng hữu hạn vật chất tạo ra vô hạn các đơn vị lớn hơn
tổng hợp từ chúng. Còn nếu xét trong nội bộ của mỗi bậc, các đơn vị luôn cùng mang
những dấu hiệu căn bản (thuật ngữ của Iu.V. Rozdextvenxki). Dấu hiệu căn bản đƣợc
hiểu là những đặc điểm mà các đơn vị ở cùng một bậc phải có, để phân biệt với các
đơn vị ở bậc cao hơn hoặc thấp hơn. Việc xác định các đơn vị ngôn ngữ cùng bậc phụ
thuộc vào sự nhận thức các dấu hiệu căn bản đó. Nếu nhƣ trƣớc đây, truyền thống
ngôn ngữ học chỉ chấp nhận hai đơn vị từ và câu với tƣ duy cổ điển rằng từ để định

danh sự vật, hiện tƣợng và khi ghép các từ lại sẽ đƣợc các câu để truyền đi những
phán đoán thì ngôn ngữ học hiện đại, dựa vào dấu hiệu căn bản, thƣờng xem xét các
đơn vị hệ thống của ngôn ngữ là: âm vị (phoneme), hình vị (morpheme), từ (word),
cùng với câu (sentence) – kết cấu thành phẩm, đơn vị cơ sở để ngôn ngữ có thể hoạt
động. Âm vị mang dấu hiệu căn bản là đơn vị nhỏ nhất có giá trị khu biệt (dựa trên
diện mạo hình thức). Hình vị có dấu hiệu căn bản là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa. Từ là
đơn vị nhỏ nhất độc lập về ý nghĩa và hình thức, nhằm biểu đạt sự vật, hiện tƣợng hay
thể hiện một quan hệ ngữ pháp. Trong khi đó, với câu, khả năng truyền đạt trọn vẹn
một thông báo mới là dấu hiệu căn bản. Tuy nhiên, khi càng nhiều hiện tƣợng ngôn
ngữ cùng với nguồn ngữ liệu phong phú từ các ngôn ngữ trƣớc đây ít phổ biến đƣợc
xem xét cũng là lúc những đơn vị ngôn ngữ truyền thống đƣợc bổ sung bằng nhiều

25


×