Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.51 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHÚC THỊ HOÀN

BẢO ĐẢM AN NINH VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. BÙI QUẢNG BẠ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng

năm 2017

Tác giả luận văn

Khúc Thị Hoàn




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ AN NINH VĂN HÓA VÀ BẢO ĐẢM
AN NINH VĂN HÓA ..............................................................................................11
1.1. Những vấn đề lý luận chung về bảo đảm an ninh văn hóa ................................ 11
1.2. Vai trò của bảo đảm an ninh văn hóa ................................................................. 21
1.3. Cở sở chính trị và pháp lý của bảo đảm an ninh văn hóa .................................. 27
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM AN NINH VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA...............................................................33
2.1. Những thành tựu bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa .............................................................................................................................33
2.2. Hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra ..................................................48
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM AN NINH VĂN
HÓA Ở VIỆT NAM TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HÓA ................................58
3.1. Các yếu tố tác động đến an ninh văn hóa và bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa ..............................................................................58
3.2. Quan điểm chỉ đạo và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh văn hóa ở
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa ......................................................................66
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực
hiện chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa là yếu tố thường xuyên làm tăng độ
ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để thích ứng, xử
lý những biến đổi của môi trường tự nhiên và xã hội. Thực tiễn lịch sử chứng minh
rằng, văn hóa không chỉ là linh hồn của một dân tộc, nền tảng tinh thần để phát triển

dân tộc, quốc gia mà còn là công cụ để bảo vệ quốc gia dân tộc. Một quốc gia hay
dân tộc muốn giữ vững độc lập của mình, trước hết phải giữ gìn tính độc lập về văn
hóa. Một dân tộc nếu đánh mất đi văn hóa của mình sẽ mất đi tất cả.
Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa, sự phát triển của công nghệ thông
tin cùng nhiều nhân tố khác, đã tác động tới sự phát triển văn hóa của mỗi quốc gia,
cộng đồng xã hội. Một mặt, các quá trình này tạo ra những nhân tố tích cực, làm gia
tăng sự phát triển ổn định và bền vững về văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Mặt
khác, chúng cũng làm nảy sinh những vấn đề văn hóa trong các cộng đồng quốc gia,
dân tộc đó. Đó là sự xói mòn bản sắc dân tộc, chệch hướng phát triển của quốc gia,
…Tất cả những điều này gây tác động trở lại đối với sự phát triển văn hóa nói riêng,
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nói chung, như kinh tế, chính trị, … Nhiều
nước trên thế giới, do ảnh hưởng xấu của lĩnh vực văn hóa mà có sự phát triển
không bền vững, làm cho tính cố kết cộng đồng giảm sút và trong chừng mực nào
đó, làm nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột trong cộng đồng.
Vấn đề an ninh văn hóa, với tư cách một lĩnh vực của an ninh quốc gia, nhằm
bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững của văn hóa quốc gia trước tác động
bên trong và bên ngoài, đã nhận được nhiều quan tâm chú ý. Việt Nam đã có những
thành công đáng kể trong việc bảo đảm an ninh văn hóa. Đó là tính định hướng xã
hội chủ nghĩa được bảo đảm trong các lĩnh vực đời sống xã hội, truyền thống văn
hóa dân tộc được bảo tồn và phát huy; văn học, nghệ thuật bước đầu có sự phát
triển, … Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu. Nhiều biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống gây

1


bức xúc trong xã hội. Nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật chất lượng thấp…Tất cả
những điều này gây nguy cơ “chệch hướng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
quá trình phát triển, ảnh hưởng tới an ninh văn hóa nói riêng, an ninh quốc gia nói
chung ở Việt Nam hiện nay.

Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề an ninh văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa,
từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam hiện nay
là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay,
các quốc gia có cơ hội tiếp thu văn hóa nhân loại, đồng thời cũng phải giải quyết
những vấn đề mới hết sức phức tạp khó khăn, trong đó có vấn đề bảo đảm an ninh
văn hóa. Đây là vấn đề dược các học giả quan tâm nghiên cứu và có các công trình
tiêu biểu sau đây:
2.1. Nhóm các sách chuyên luận, chuyên khảo đã được xuất bản
Trong cuốn An ninh quốc gia: Những vấn đề phi truyền thống (2013) [30]
của tập thể tác giả Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra
quan niệm mới về một trạng thái an ninh khác với an ninh truyền thống. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, an ninh của mỗi quốc gia bao hàm cả chính
trị, quân sự truyền thống và cả những thách thức phi truyền thống như: kinh tế, văn
hóa, xã hội, thông tin, môi trường, tài nguyên, chủ nghĩa khủng bố …Như vậy, bảo
đảm an ninh văn hóa là một lĩnh vực an ninh phi truyền thống với các vấn đề đặt ra
như sự khủng hoảng giá trị văn hóa truyền thống, khủng hoảng niềm tin của giới trẻ
do mất gốc về văn hóa. Cuốn sách này cung cấp những thông tin khoa học cơ bản
về phương diện lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn về an ninh phi truyền thống,
trong đó tập trung vào an ninh kinh tế, an ninh tài chính tiền tệ, an ninh chính trị xã hội và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác.
Tác giả Tạ Ngọc Tấn, Phạm Thành Dung và Đoàn Doãn Minh Huấn đã trình
bày các quan niệm lý thuyết khác nhau về an ninh phi truyền thống trong cuốn sách
An ninh phi truyền thống - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn (2015) [39]. Theo
tác giả, hiện nay, giới nghiên cứu chưa thống nhất một khái niệm hoàn chỉnh về an

2


ninh phi truyền thống, mà tùy theo cách tiếp cận khác nhau cũng như hoàn cảnh cụ

thể từng nhà nghiên cứu đưa ra những quan niệm khác nhau. Các tác giả đưa ra hai
trường phái tiếp cận an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á theo các học giả Việt
Nam đó là: 1. An ninh phi truyền thống là an ninh tổng hợp (gồm các lĩnh vực an
ninh quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường) theo đó, an ninh phi
truyền thống không đối lập với an ninh truyền thống mà mở rộng nội hàm khái niệm
an ninh truyền thống trong đó lấy an ninh quân sự làm trung tâm; 2. Quan niệm an
ninh phi truyền thống đối lập với an ninh truyền thống không bao hàm an ninh quân
sự. Theo các tác giả, ở Việt Nam hiện nay, phần lớn các học giả quan niệm an ninh
phi truyền thống theo trường phái thứ hai.
Cuốn sách Truyền thông giao lưu văn hóa với vấn đề bảo vệ lợi ích và an
ninh văn hóa quốc gia (2015) [7] do Lê Thanh Bình và Vũ Trọng Lâm chủ biên đã
dành hẳn một chương để trình bày lý luận về truyền thông giao lưu văn hóa, lợi ích
và an ninh văn hóa quốc gia. Trong đó, các tác giả đưa ra khái niệm về an ninh văn
hóa là trạng thái vận hành bình thường và phát triển liên tục của hệ thống văn hóa
của một quốc gia, có chủ quyền, trạng thái lợi ích văn hóa không bị đe dọa và nguy
hiểm. Đối chiếu với các công trình, bài viết trước đó, khái niệm an ninh văn hóa
trong cuốn sách này được phân tích khá đầy đủ, đặc biệt các tác giả nhấn mạnh “do
chịu ảnh hưởng của đặc tính văn hóa, an ninh văn hóa là một khái niệm liên quan
đến nhiều mặt, nội hàm phong phú, có thể phân tích từ nhiều góc độ và bình diện”,
trong đó đặc trưng chủ yếu của an ninh văn hóa quốc gia là tính độc lập tương đối,
tính kết hợp mềm và cứng, tính tầng lớp và kết cấu; hai nội dung chủ đạo của an
ninh văn hóa trong cuốn sách này là an ninh chính trị và an ninh văn hóa dân tộc.
Nhìn chung, các tác giả phân tích khái niệm an ninh văn hóa trong mối tương quan
với lợi ích quốc gia khi tập trung vào hệ thống và lợi ích văn hóa thông qua hoạt
động truyền thống văn hóa. Từ đó, các tác giả đã khảo sát kinh nghiệm của một số
quốc gia như Mỹ, Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản về truyền thông văn hóa với
vấn đề bảo vệ lợi ích và an ninh văn hóa quốc gia cũng như việc gia tăng sức ảnh
hưởng văn hóa đến khu vực và quốc tế nhằm rút ra một số bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam. Bên cạnh đó, các tác giả đã dành một chương để chỉ rõ thực trạng và đề


3


xuất giải pháp cho việc bảo đảm an ninh văn hóa trong lĩnh vực cụ thể là truyền
thông và giao lưu văn hóa.
Một nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về an ninh văn hóa được trình bày trong
cuốn An ninh văn hóa ở Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn (2017) [6] của
PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc và TS. Vũ Thị Phương Hậu (Đồng chủ biên). Trong sách
này, các tác giả đã có trình bày tổng quát những vấn đề lý luận về an ninh văn hóa
cũng như khảo sát thực trạng an ninh văn hóa trên hầu hết các lĩnh vực của văn hóa;
xác định các chủ thể bảo đảm an ninh văn hóa; đề xuất giải pháp bảo đảm an ninh
văn hóa.
2.2. Nhóm các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí
Trong bài viết “Văn hóa và an ninh con người” [43] thuộc chuyên đề Văn
hóa học - Những vấn đề khoa học xã hội nhân văn (2013), tác giả Trần Ngọc Thêm
đã trình bày khái niệm an ninh, cách hiểu về văn hóa. Trong đó tác giả tập trung
phân tích hai dạng an ninh văn hóa: một là, “an ninh theo nghĩa hẹp ở dạng tiêu cực,
thụ động bao gồm việc trực tiếp bảo vệ các di sản chống lại sự xâm hại của tự nhiên
và con người là việc mà ở Việt Nam lâu nay Bộ Văn hóa và ngành cảnh sát an ninh
văn hóa đã và đang làm”; hai là, an ninh văn hóa theo nghĩa rộng ở dạng tích cực,
thụ động tức là công tác phòng chống các luồng văn hóa độc hại từ nước ngoài thâm
nhập vào, qua đó, tác giả đưa ra thực trạng, những nguy cơ của sự bất an văn hóa và
cho rằng biện pháp thích hợp và hiệu quả lâu dài là bảo đảm thực hiện hai dạng an
ninh văn hóa trên cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp theo kiểu chủ động, tích cực.
Trong bài viết “An ninh văn hóa” [12] trên tạp chí Lý luận chính trị
(12/2014), tác giả Trần Kim Cúc đã trình bày mầm mống của tư tưởng về an ninh
văn hóa đã có từ trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C. Mác và Ph.
Ăngghen khi hai ông cảnh báo “các dân tộc đứng trước nguy cơ đánh mất bản sắc
dân tộc, nguy cơ bị các giá trị văn hóa tư sản xâm nhập. Chính sự cảnh báo đó là sự
gợi mở cho Đảng Cộng sản trong việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân

tộc”. Đến V.I. Lênin, trong một số tác phẩm, ông đã phản ánh quan điểm về an ninh
văn hóa và cho rằng đó là công việc nhằm bảo đảm sự an toàn cho phát triển văn
hóa theo đúng hướng vì lợi ích của dân tộc, của cộng đồng xã hội và bảo đảm “các

4


quyền sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa của con người, bảo đảm các giá trị
văn hóa của nhân loại được bảo tồn và phát huy”. Ngay trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan niệm về an ninh văn hóa cũng được hiểu là “bảo đảm các điều kiện an
toàn cho sự phát triển văn hóa dân tộc và tiếp thu các giá trị văn hóa thế giới”. Bên
cạnh đó, tác giả Kim Cúc còn đề cập đến một số hướng nghiên cứu về an ninh văn
hóa của các nhà nghiên cứu Nga, Trung Quốc và Châu Âu giai đoạn hiện nay. Từ
đó, tác giả đã rút ra được một số nhận xét chính về bản chất và vai trò của an ninh
văn hóa, khẳng định đó là “sức mạnh mềm” trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Bài viết “Bảo vệ an ninh văn hóa trong hội nhập kinh tế quốc tế” [26] trên
Tạp chí Cộng sản (5/2007) của tác giả Hoàng Hiệp đã chỉ ra và phân tích ba thách
thức chính mà bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đặt ra đối với văn hóa dân
tộc, đó là: một bộ phận cán bộ coi nhẹ việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống;
nguy cơ đồng hóa văn hóa; mối đe dọa bởi “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã
hội. Để bảo vệ an ninh văn hóa trong bối cảnh hiện nay, đồng thời tiến tới xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tác giả cho
rằng, chính quyền và đoàn thể cần phải đẩy mạnh sáu hoạt động chính: một là, chỉ
đạo nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý, điều hành đối với lĩnh vực văn hóa, gắn
nhiệm vụ bảo vệ xây dựng và phát triển văn hóa với việc xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, thể chế hóa chính sách và chủ trương của Đảng về văn hóa, bồi dưỡng tài
năng, tôn trọng những người hoạt động văn hóa; hai là, phát huy vai trò của các tổ
chức, đoàn thể đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, xây dựng đời sống, môi
trường, thiết chế văn hóa và con người Việt Nam có đủ năm đức tính cơ bản; ba là,
đẩy mạnh hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức chính trị chống

“diễn biến hòa bình”; bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại và phát huy tính dân tộc và thời đại của nền văn hóa mới;
năm là, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, phòng chống tội phạm về tệ nạn xã
hội, bảo vệ an ninh văn hóa - tư tưởng, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh; sáu
là, kiện toàn bộ máy tổ chức, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn
hóa và bảo vệ an ninh văn hóa. Những giải pháp mà tác giả đưa ra dựa trên ba thách

5


thức chính trên cơ sở thực hiện Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết
trung ương 10 khóa IX và Nghị quyết đại hội của Đảng.
GS, TS. Bùi Quảng Bạ trong bài viết: “Bảo đảm an ninh văn hóa - tư tưởng
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” [2] đăng trên Tạp chí Cộng sản
(6/2011) đã chỉ ra bốn thách thức trong việc bảo đảm an ninh quốc gia trên phương
diện văn hóa - tư tưởng. Bên cạnh các thách thức đã được tác giả Hoàng Hiệp đề
cập trước đó với những ý tương tự như: âm mưu chống phá của các thế lực thù địch,
phản động; nguy cơ đồng hóa và tâm lý sính ngoại; phai nhạt bản sắc văn hóa dân
tộc. Tác giả Bùi Quảng Bạ nhấn mạnh thêm mặt trái của cơ chế thị trường tác động
tiêu cực tới lĩnh vực văn hóa. Trước tình hình đó, tác giả đề xuất một số chủ trương
và giải pháp nhằm chủ động trong công tác bảo đảm an ninh văn hóa - tư tưởng, hạn
chế nguy cơ, thách thức cũng như tranh thủ cơ hội do tiến trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế mang lại. Những giải pháp này được trình cụ thể và chi tiết hơn so với
các công trình trước đó vì đi vào lĩnh vực cụ thể là văn hóa - tư tưởng nên chú trọng
vai trò của hoạt động báo chí, xuất bản, nhưng về cơ bản là vẫn được phát triển từ
chủ trương, chính sách của Đảng đề ra trong Nghị quyết trung ương.
Tác giả Nguyễn Duy Bắc và Vũ Thị Phương Hậu có hai bài viết liên quan
đến vấn đề dảm bảo an ninh văn hóa. Bài viết thứ nhất là “Bảo đảm an ninh văn
hóa quốc gia trong tình hình mới” [4] trên Tạp chí Cộng sản số 876 (10/2015).
Trong bài viết này, các tác giả nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất

nước; bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải sẵn sàng ứng phó với các
nguy cơ đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống mang tính toàn cầu, trong
đó, bảo đảm an ninh văn hóa quốc gia là một nội dung trọng yếu, thường xuyên
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia cũng như công việc xây dựng, phát triển
văn hóa của quốc gia, dân tộc. Bài viết thứ hai là “Kinh nghiệm bảo đảm an ninh
văn hóa của một số nước trên thế giới” [5] trên tạp chí Thông tin khoa học lý luận
chính trị (số 12/2015). Trong đó, hai tác giả đã đưa ra kinh nghiệm một số nước, cụ
thể như sau: thứ nhất, kinh nghiệm của Anh đối với vấn đề bảo tồn di sản văn hóa
và sở hữu trí tuệ, thứ hai, kinh nghiệm của Nga trong việc bảo đảm an ninh văn hóa

6


thể hiện qua chính sách trọng dụng nhân tài, ngăn chặn chảy máu chất xám cũng
như việc thực hiện chính sách ngoại giao văn hóa theo nguyên tắc bình đẳng, thực
tế và tôn trọng lẫn nhau, bảo vệ bản sắc dân tộc và chủ quyền quốc gia của tất cả
các nước thành viên, công tác bảo đảm an ninh thông tin; thứ ba, kinh nghiệm của
Mỹ đối với việc đề cao giáo dục văn hóa chất lượng, tôn trọng và thừa nhận vai trò
quan trọng của việc bảo vệ các tri thức truyền thống và văn hóa dân gian cũng như
công tác an ninh thông tin; thứ tư, kinh nghiệm của Nhật Bản về bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống và cách tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại nhằm làm phong phú thêm cho nền văn hóa của mình, bên cạnh đó là chính
sách ngoại giao văn hóa với nguồn “sức mạnh mềm” để tăng cường ảnh hưởng của
Nhật Bản trên trường quốc tế; thứ năm, kinh nghiệm của Trung Quốc về chiến lược
bảo đảm an ninh văn hóa theo hai phương thức chính là “phòng vệ” và “tấn công”,
công tác cải cách thể chế văn hóa và bộ máy quản lý văn hóa từ trung ương đến địa
phương. Từ việc tiếp cận kinh nghiệm hoạt động bảo đảm an ninh văn hóa của một
số nước tiêu biểu trên thế giới, hai tác giả đề xuất những bài học kinh nghiệm có thể
áp dụng được cho Việt Nam như sau: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nhà

nước, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về công tác bảo đảm an ninh
văn hóa; hoàn thiện pháp luật trong bảo đảm an ninh văn hóa, không ngừng tăng
cường quản lý hoạt động văn hóa bằng pháp luật; hoàn thiện cơ chế, chính sách, giải
pháp đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, hợp tác quốc tế về văn hóa; lựa chọn những nội
dung quan trọng, cấp thiết để xây dựng các kế hoạch, các giải pháp phù hợp; xây
dựng cơ chế phối hợp giữa các đơn vị chức năng liên quan; nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan quản lý mạng truyền thông; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ chuyên trách phụ trách công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới;
gắn an ninh văn hóa với an ninh chính trị, an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng”. Có
thể nói, các tác giả tiếp cận từ góc độ văn hóa học và tập trung vào vấn đề quản lý,
bảo tồn, kế thừa giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh hội nhập.
Trong bài viết “An ninh văn hóa ở các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc”
trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 379 (1/2016), tác giả Nguyễn Thị Tuyến đã
trình bày khái quát những kết quả đạt được về công tác bảo đảm an ninh văn hóa

7


trên phương diện văn hóa - tư tưởng, hệ giá trị văn hóa, trong việc xây dựng văn
hóa cũng như những hạn chế còn tồn tại có thể dẫn đến nguy cơ về an ninh văn hóa
tại các tỉnh trung du miền núi phía bắc, từ đó chỉ ra nguyên nhân và đặt ra một số
vấn đề cần quan tâm đối với an ninh văn hóa tại đây.
Chuyên san Hồ sơ sự kiện [25] của Tạp chí Cộng sản Số 322 ngày 10/3/2016
về An ninh văn hóa cũng có hàng loạt bài viết về vấn đề này, cụ thể:
Trong bài “An ninh văn hóa” của tác giả Thành Nam, Duy Anh, Công Minh,
Khôi Nguyên, Tiến Thắng đã đưa ra cái nhìn tổng quan về an ninh văn hóa. Xuất
phát từ văn hóa, vai trò của văn hóa đến an ninh văn hóa cũng như kinh nghiệm của
một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Canada. Từ đó đưa ra quan
điểm của Việt Nam để bảo đảm an ninh văn hóa dựa trên nguyên tắc chủ động, tích
cực bảo đảm an ninh văn hóa.

Tác giả Vũ Phương Hậu có bài viết “Đường lối của Đảng về bảo đảm an
ninh văn hóa”. Trong bài viết tác giả đã trình bày quá trình hình thành và hoàn
thiện đường lối của Đảng về bảo đảm an ninh văn hóa. Cụ thể: Từ Đề cương văn
hóa Việt Nam đề ra 3 nguyên tắc của nền văn hóa mới: dân tộc hóa, đại chúng hóa,
khoa học hóa. Tiếp đến là bước phát triển đột phá về xây dựng và phát triển văn hóa
được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội năm 1991, xác định đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới là tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp tục chủ trương tăng cường bảo
đảm an ninh về văn hóa, Đại hội XI của Đảng đã xác định sáu chủ trương về xây
dựng và phát triển nền văn hóa thời kỳ đổi mới. Tác giả cũng khẳng định, mặc dù
không đề cập đến thuật ngữ “an ninh văn hóa” nhưng đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về văn hóa từ khi thành lập đến nay nhất quán khẳng định vai trò của văn
hóa với sự phát triển đất nước.
Ngoài ra thì còn có các đề tài khoa học, luận văn, luận án nghiên cứu về lĩnh
vực này dưới cách tiếp cận công tác công an, tuy nhiên do tính bảo mật của ngành
công an nên không công bố rộng rãi.
Với những trình bày sơ khai như trên có thể thấy an ninh văn hóa bắt đầu được
nghiên cứu. Những nghiên cứu trước đó là tài liệu tham khảo hữu ích cho đề tài. Mặt

8


khác chưa có một công trình nào nghiên cứu việc bảo đảm an ninh văn hóa trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đây chính là nội dung nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
an ninh văn hóa, đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bảo
đảm an ninh văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về an ninh văn hóa và bảo

đảm an ninh văn hóa.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm an ninh văn hóa thời gian qua. Từ đó làm rõ
những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế tồn tại đó.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng, các mối đe dọa đến an ninh văn hóa trong
bối cảnh toàn cầu hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh văn hóa trong
bối cảnh toàn cầu hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận và thực tiễn về an ninh văn hóa
và bảo đảm an ninh văn hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Các vấn đề lý luận và thực tiễn về an ninh văn hóa và bảo đảm
an ninh văn hóa.
Về thời gian: Từ năm 2010 đến nay.
Về không gian: Vấn đề an ninh văn hóa và bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về văn hóa và bảo đảm an ninh văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chung của khoa học xã hội, như: phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp

9


phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp tổng kết thực
tiễn, …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
- Luận văn hệ thống, khái quát, phân tích, làm rõ các vấn đề chung về an

ninh văn hóa và bảo đảm an ninh văn hóa; góp phần bổ sung, phát triển lý luận về vấn đề
này.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam hiện nay, những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh văn
hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu văn hóa và
an ninh văn hóa; giảng dạy các chuyên đề lý luận chính trị trong và ngoài lực lượng
công an nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Nhận thức chung về an ninh văn hóa và bảo đảm an ninh văn hóa
Chương 2. Thực trạng bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt
Nam trong xu thế toàn cầu hóa

10


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ AN NINH VĂN HÓA VÀ
BẢO ĐẢM AN NINH VĂN HÓA
1.1. Những vấn đề lý luận chung về bảo đảm an ninh văn hóa
1.1.1. An ninh văn hóa
1.1.1.1. Các quan niệm về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm của con người, nhờ có văn hóa mà con người trở nên
khác biệt so với những loài động vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, văn

hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến
mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Vậy văn hóa là gì? - đến nay
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó có những định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Năm 1871, E.B. Taylor đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người
chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [41]. Theo định nghĩa này, văn
hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống
con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật…
Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác, chỉ có vài lần C. Mác và
Ph. Ăng ghen trực tiếp bàn đến thuật ngữ văn hóa. Tuy nhiên trong đó, một lần
“culture” (văn hóa) lại được hiểu là canh tác, trồng trọt, gieo trồng. Như trong thư
gửi Ph. Ăng ghen 25/3/1868, C. Mác viết: “Nếu canh tác được tiến hành một cách
tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức thì sẽ để lại sau đó đất
hoang” [11, tr.80]. Trong tác phẩm Chống Đuy rinh, khi bàn về sự tiến triển về tư
tưởng tự do của loài người, Ph. Ăng ghen viết: “Mỗi bước tiến trên con đường văn
hóa là một bước tiến tới tự do” [10, tr.164]. Ở đây, “culture” được hiểu là văn hóa.
Trong văn cảnh, Ph. Ăng ghen phân tích rằng, con người trong tiến trình lịch sử của
mình, khi ngày càng thoát khỏi thế giới động vật, nghĩa là khi ngày càng có văn
hóa, thì con người tự do hơn, mặc dù tự do, theo ông, là bản chất con người. Cần
lưu ý rằng, ở thời C. Mác và Ph. Ăng ghen, văn hóa học (Culturology) chưa xuất
hiện, còn khái niệm văn hóa thì chưa hoàn toàn tách khỏi văn minh.

11


Ở Việt Nam, những năm 90 của thế kỷ XX, PGS. Phan Ngọc có đưa ra con
số hơn 1000 khái niệm về văn hóa. Và mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau song,
theo bất cứ nghĩa nào thì văn hóa bằng cách này hay cách khác, đều thể hiện những
đặc trưng về con người và đời sống tinh thần của con người, đều phản ánh (một

cách trực tiếp hoặc kín đáo) đặc thù hoạt động người.
Theo PGS, VS. Trần Ngọc Thêm khi nghiên cứu về văn hóa có đưa ra định
nghĩa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [42, tr.10]. Định nghĩa này đã
chỉ ra 4 đặc trưng cơ bản của văn hóa là tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh,
tính lịch sử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa” [36, tr.458]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ
những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của E.B.
Taylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về
những lĩnh vực liên quan đến đời sống tinh thần của con người.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế
giới khi đề cập văn hóa thường vận dụng định nghĩa văn hóa của UNESCO nêu
trong “Tuyên bố về chính sách văn hóa” tại Hội nghị quốc tế về chính sách văn hóa
của UNESCO từ ngày 26/7 đến 6/8/1982 ở Mexico: “Văn hóa là tổng thể những nét
đặc thù về tinh thần vật chất, về trí tuệ và xúc cảm quy định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của tồn tại (tồn tại - being) người, những hệ thống giá
trị, những truyền thống và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy
xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt con người, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn
hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương

12


án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm kiếm

không mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt qua
cả giới hạn của bản thân”.
Khái quát các quan niệm trên về văn hóa nêu trên có thể hiểu: Văn hóa là hệ
thống các giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo và tích lũy trong hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội, phản ảnh
trình độ phát triển của lịch sử xã hội và phát triển của con người. Đảng ta xác định
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế xã hội. Theo đó, trong đề tài luận văn này, văn hóa trong
khái niệm “an ninh văn hóa” được hiểu theo nghĩa là nền văn hóa cộng đồng - quốc
gia, dân tộc.
1.1.1.2. Khái niệm an ninh
Theo định nghĩa của Từ điển Oxford, thì “an ninh” (security) nghĩa là trạng
thái không bị nguy hiểm hay đe dọa. Nghĩa là, không bị rơi vào trạng thái hay cảm
giác sợ hãi, lo âu và nguy hiểm, không bị rơi vào trang thái hoài nghi và không đoán
định. An ninh không chỉ là điều kiện cần được bảo vệ khỏi mối nguy hiểm, sự rủi ro
và tổn thương, mà là trạng thái thoát khỏi mối nguy hiểm, sự rủi ro và tổn thương
ấy. Nghĩa là, an ninh là trạng thái mà ở đó cần đến sự an toàn như là một điều kiện
thiết yếu để không bị lệ thuộc vào sự lo sợ và hiểm nguy.
Như vậy, an ninh, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là khả năng giữ vững an
toàn trước các mối đe dọa. An ninh không phải là khái niệm tĩnh mà là một khái
niệm động và trải qua nhiều thay đổi về cách hiểu cũng như cách tiếp cận. Từ một ý
niệm truyền thống xoay quanh các chủ đề quân sự, chiến tranh và bạo lực, khái
niệm an ninh với những kết nối mới đã mở ra những chiều kích xuất phát từ những
lĩnh vực khác nhau. Từ góc nhìn ban đầu tập trung vào nhà nước các nhà nghiên
cứu đang nói về hình thái an ninh mới, với sự thay đổi về chủ thể lẫn khách thể,
cũng như phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của những tác nhân mới này.
Trong thế kỷ XX, khái niệm “an ninh” trong chính trị quốc tế thường gắn
liền với bối cảnh các cuộc xung đột vũ trang như: Chiến tranh thế giới lần thứ nhất,
Chiến tranh thế giới lần thứ hai và Chiến tranh lạnh. Trong bối cảnh đó, an ninh


13


được hiểu như khả năng của một quốc gia có thể ngăn chặn được các cuộc xâm lược
vũ trang đến từ bên ngoài, một khuynh hướng áp đảo trong lý thuyết quan hệ quốc
tế là đồng hóa an ninh với sự bảo vệ hay bảo đảm chủ quyền của mỗi nước trước sự
tấn công hay ảnh hưởng của các nước khác. Nhà nước - người đại diện cao nhất cho
đất nước bên ngoài - đóng vai trò là người duy nhất sở hữu, bảo vệ và duy trì an
ninh, thông qua sức mạnh quân đội, hay liên minh quân sự với các đồng minh.
Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế với những ưu tiên đa dạng hơn. Một mặt, khả năng xảy ra các cuộc
xung đột hay xâm lược từ bên ngoài vẫn còn, nhưng ngày càng suy giảm, trong khi
đó lại xuất hiện nhiều mối đe dọa từ các lĩnh vực đời sống khác. Hiện thực đó đòi
hỏi một cách tiếp cận khác trong nghiên cứu về an ninh. Các học giả chia ra thành
hai loại: an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Trong khi an ninh truyền
thống chủ yếu nhấn mạnh về đe dọa quân sự bảo vệ quốc phòng, cùng với những
biện pháp bảo đảm an ninh mà chính phủ quốc gia cần làm để đương đầu trước các
nguy cơ đó, thì giá trị cơ bản của an ninh phi truyền thống xoay quanh tất cả vấn đề
khác có khả năng trở thành một mối đe dọa đối với cuộc sống của một quốc gia hay
một cộng đồng. Những mối đe dọa này không phải chỉ đến từ bên ngoài mà còn từ
bên trong; không những đến từ súng ống, tàu chiến, máy bay, mà còn từ kinh tế, văn
hóa, xã hội. Những vấn đề ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,
nghèo đói, di dân… đã trở thành tiêu điểm chính trong các vấn đề an ninh phi truyền
thống. Mặt khác, chủ quyền vẫn là khái niệm chủ yếu, nhưng cách diễn dịch về nó có
sự “mềm hóa” đi. Mô hình nhà nước đứng trước hai thách thức: Một là, không còn tồn
tại “chủ quyền quốc gia tuyệt đối”, vì trong quá trình hợp tác, nhà nước quốc gia phải
tuân theo các thể chế quốc tế để được hưởng những lợi ích chung; hai là, nhiều vấn đề
lâu nay dường như chỉ gói gọn trong khuôn khổ hành xử quốc gia thì nay đã vượt biên
giới trở thành vấn đề xuyên quốc gia, thậm chí là vấn đề toàn cầu khiến cho không một
chính phủ nào - cho dù đó là chính phủ giàu và mạnh nhất thế giới - có khả năng tự giải

quyết một mình vấn đề an ninh phi truyền thống.
Từ chỗ tập trung vào cấp độ quốc gia và hệ thống quốc tế, khái niệm “an
ninh” cũng đã chuyển động theo hướng tập trung vào cả cấp độ cá nhân, mà khái

14


niệm an ninh con người là một trong những cách tiếp cận nổi bật nhất trong những
thập niên gần đây. Điều này cho thấy một sự thay đổi cả về chủ thể lẫn khách thể:
cá nhân con người vừa là tâm điểm nghiên cứu của các vấn đề an ninh, vừa là động
lực thúc đẩy những biện pháp bảo đảm an ninh của mình.
Khía cạnh cuối cùng của phần mở rộng khái niệm an ninh liên quan đến
cách thức mà con người định lượng và xử lý các vấn đề an ninh. Nếu trong bối cảnh
Chiến tranh lạnh, bảo đảm an ninh trước các đe dọa tấn công quân sự với việc xây
dựng các hệ thống tên lửa, nâng cao khả năng quốc phòng, cùng duy trì các liên
minh, thì trong thời đại ngày nay, ứng xử với các vấn đề an ninh trở nên đa diện
hơn, bao gồm ít nhất ba mức độ: triệt tiêu các mối đe dọa, giảm thiểu mức độ tổn
thương và đánh giá các khả năng rủi ro.
Từ những phân tích trên có thể hiểu an ninh là sự ổn định và phát triển của các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. An ninh và phát triển là
hai vấn đề chiến lược. Cho dù khái niệm an ninh đã có nhiều biến đổi theo thời gian,
nhưng có một điều hầu như không thay đổi, đó chính là việc bảo đảm an ninh vẫn là
một mục tiêu tối thượng của mỗi quốc gia cũng như mọi cá nhân con người.
1.1.1.3. Khái niệm an ninh văn hóa
Ở Việt Nam, khái niệm an ninh văn hóa vẫn là một khái niệm còn mới mẻ.
Thường có hai cách tiếp cận: tiếp cận từ góc độ văn hóa và tiếp cận từ góc độ an
ninh. PGS, VS. Trần Ngọc Thêm là người đưa ra một cách hiểu tương đối đầy đủ về
an ninh và an ninh văn hóa từ góc độ văn hóa học.
Theo PGS, VS. Trần Ngọc Thêm, có thể phân biệt ba mức độ an ninh.
Ở mức một là loại an ninh có mục tiêu trực tiếp gìn giữ đối tượng bảo vệ; nó mang

tính tiêu cực, thụ động. Ở mức hai là loại an ninh có mục tiêu ngăn chặn các nguy
cơ, hiểm họa từ xa, không cho tiếp cận đối tượng bảo vệ; nó tuy mang tính tích cực,
nhưng vẫn còn thụ động. Ở mức ba là loại an ninh có mục tiêu phát triển đối tượng
bảo vệ, tăng cường sức đề kháng cho nó để nó có khả năng “miễn dịch” đối với các
hiểm họa; đây là hình thức an ninh vừa tích cực, vừa chủ động.
An ninh văn hóa theo nghĩa hẹp ở dạng tiêu cực, thụ động bao gồm việc trực
tiếp bảo vệ các di sản chống lại sự xâm hại của tự nhiên và con người. Ở Việt Nam

15


đây là việc mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và cơ quan công an, an ninh văn
hóa đã và đang làm. Trong việc bảo vệ chống lại sự xâm hại của tự nhiên, sự đầu tư
của nhà nước và các địa phương là rất ít ỏi. Sự đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức quốc
tế và nước ngoài không phải lúc nào cũng được sử dụng một cách hữu hiệu. Sự xâm
phạm an toàn văn hóa từ phía con người ở Việt Nam vô cùng phong phú và đa
dạng. Ở mức thấp nhất là sự tàn phá một cách vô thức của người dân. Ở mức cao
hơn là sự tàn phá có ý thức để trục lợi. Ở mức cao nhất, cũng là đáng buồn nhất, là
nhiều cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo chính quyền địa phương các cấp, trong nhiều
hợp đã tỏ ra hoàn toàn thiếu hiểu biết trong lĩnh vực văn hóa và bảo vệ văn hóa, do
vậy đã trực tiếp hoặc gián tiếp phá hủy các giá trị văn hóa. Năm 2002, Quốc hội
Việt Nam đã thông qua Luật di sản văn hóa, đó là một bước tiến quan trọng trong
việc gìn giữ và bảo vệ các di sản văn hóa, truyền thông văn hóa ở Việt Nam.
An ninh văn hóa với việc chống lại các luồng văn hóa độc hại từ nước ngoài
thâm nhập vào là an ninh văn hóa theo nghĩa rộng ở dạng tích cực, thụ động. Biện
pháp thực hiện chủ yếu lâu nay là thông qua hệ thống kiểm tra văn hóa ở hải quan
các cửa khẩu như sân bay, bến cảng, bưu điện và cái gọi là “bức tường lửa” ở các
máy chủ của các mạng internet quốc gia …
Để chống lại những nguy cơ đe dọa đến an ninh con người và an ninh dân
tộc về mặt văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa này, những biện pháp bảo vệ an ninh

tiêu cực theo kiểu truyền thống rõ ràng là đã lỗi thời. Biện pháp thích hợp và có
hiệu quả lâu dài phải là biện pháp an ninh theo kiểu chủ động, tích cực.
Ở một góc nhìn khác, an ninh văn hóa được hiểu là sự ổn định của nền văn
hóa quốc gia, đặc biệt là sự ổn định của hệ tư tưởng chính trị, do đó, bảo đảm an
ninh văn hóa là một hoạt động của ngành Công an. Từ điển Bách khoa Công an
nhân dân Việt Nam ghi rõ: “An ninh tư tưởng - văn hóa là sự ổn định và bền vững
của tư tưởng văn hóa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. An ninh tư tưởng - văn hóa là bộ phận của an ninh quốc gia” [45, tr.26].
Từ cách tiếp cận này thì an ninh văn hóa được cấu thành từ các yếu tố: Một
là, sự vững mạnh của nền tảng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng tin của cán bộ, đảng
viên và nhân dân vào con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng trước

16


các hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch; Hai là, sự phát triển ổn
định và bền vững của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thể
hiện bản lĩnh, sức mạnh của nền văn hoá trước âm mưu, hoạt động xâm lăng văn
hoá, truyền bá văn hoá độc hại; Ba là, sự an toàn của bí mật nhà nước, bí mật nội
bộ trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng; Bốn là, sự an toàn của các cơ quan, tổ chức văn
hóa, tư tưởng trước âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch và các loại
tội phạm; Năm là, sự an toàn, vững vàng về bản lĩnh chính trị của đội ngũ văn nghệ
sĩ, trí thức, cán bộ các cơ quan văn hóa, tư tưởng trước hoạt động tác động, lôi kéo của
thế lực thù địch và tác động tiêu cực khác.
Từ cách tiếp cận an ninh văn hóa đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,
khái niệm an ninh văn hóa được hiểu là sự ổn định và phát triển của nền văn hóa
dân tộc theo hướng khoa học, dân chủ, tiến bộ, nhân văn, bảo đảm quyền sáng tạo và
hưởng thụ của người dân, chống lại các phản văn hóa, phản giá trị. Như vậy, với
cách tiếp cận này của luận văn, an ninh văn hóa được khai thác dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, an ninh văn hóa là sự bảo tồn, bảo vệ các giá trị di sản văn hóa, bảo

vệ bản sắc văn hóa dân tộc và thể chế văn hóa quốc gia gắn với thể chế chính trị.
Thứ hai, an ninh văn hóa là việc sáng tạo và truyền bá những giá trị văn hóa
khoa học, tiến bộ, dân chủ, nhân văn; xây dựng môi trường văn hóa và nền tảng tinh
thần tiến bộ và lành mạnh của xã hội; bảo đảm quyền tự do sáng tạo và hưởng thụ
văn hóa của nhân dân.
Thứ ba, an ninh văn hóa là việc đấu tranh chống lại sự xâm hại của tự nhiên
và con người đối với văn hóa, đấu tranh chống lại việc xâm nhập của các luồng tư
tưởng, truyền bá sản phẩm phi văn hóa, thiếu lành mạnh đi ngược lại với đường lối,
quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại các
phản giá trị, phản văn hóa, bảo tồn và phát huy nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc.
An ninh văn hóa trước hết phải là sự bảo đảm cho việc xây dựng một môi
trường văn hóa lành mạnh, ở đó, các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại được
gìn giữ và phát huy; hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa được xây dựng và hoàn

17


thiện, tiếp theo đó là việc chống lại những hành vi phản văn hóa, phản giá trị và
những hoạt động phá hoại văn hóa, tư tưởng của các thế lực thù địch.
Mục tiêu mà an ninh văn hóa hướng đến hết sức nhân văn, vì con người, vì
sự bảo đảm cho con người có cơ hội phát triển toàn diện, có đời sống tinh thần
phong phú, lành mạnh, thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời không xa lạ
với tinh hoa văn hóa nhân loại. An ninh văn hóa không chỉ là chống mà trước hết và
cuối cùng là xây dựng một đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh cho mỗi cá nhân
và cộng đồng; xây dựng nền văn hóa quốc gia phát triển, hội nhập với thế giới
nhưng vẫn giữ được bản sắc của dân tộc. Về phương diện quốc gia, an ninh văn hóa
là nhằm phục vụ yêu cầu chính trị, đối ngoại, phát triển kinh tế đất nước. Phát triển
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và bảo vệ an ninh ninh văn hóa luôn
được đặt trong mối quan hệ biện chứng với phát triển và bảo đảm sự ổn định về

chính trị, kinh tế, xã hội, với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Có như vậy, an ninh văn hóa mới thực sự đóng
góp vào sự nghiệp bảo đảm an ninh quốc gia, cũng chính là đóng góp vào quá trình
phát triển bền vững của đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
1.1.2. Bảo đảm an ninh văn hóa
1.1.2.1. Khái niệm bảo đảm an ninh văn hóa
Bảo đảm an ninh văn hoá, tư tưởng là hoạt động phòng ngừa, phát hiện, đấu
tranh chống âm mưu, hoạt động phá hoại văn hóa, tư tưởng của các thế lực thù địch
và bọn tội phạm, loại trừ các yếu tố xâm hại hoặc đe dọa xâm hại an ninh văn hóa,
tư tưởng; bảo đảm an ninh, an toàn cho các dịch vụ văn hóa; bảo vệ cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa góp phần bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Bảo đảm an ninh văn hóa là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ
thống chính trị, trong đó lực lượng công an và các lực lượng làm công tác văn hóa
là nòng cốt. Lực lượng công an tham mưu cho các cấp ủy đảng, các cơ quan, ban,
ngành và trực tiếp đấu tranh phòng chống hoạt động phá hoại an ninh tư tưởng, văn

18


hóa của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác; phối hợp với các cơ quan
chức năng tổ chức phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống âm mưu, hoạt động của
các thế lực thù địch, bọn phản động, số đối tượng cơ hội chính trị và các loại tội
phạm khác phá hoại nền tảng tư tưởng của chế độ và bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
đảm an ninh, an toàn cho các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa, bảo vệ đường lối,
quan điểm, chính sách văn hóa, văn nghệ của Đảng và Nhà nước. Lực lượng làm
công tác văn hóa đi đầu trong nhiệm vụ sáng tạo và tuyên truyền, phổ biến, quảng
bá các giá trị văn hóa dân tộc, dân chủ, khoa học, nhân văn; xây dựng nền tảng tinh
thần tiến bộ và lành mạnh cho xã hội.

1.1.2.2. Nội dung bảo đảm an ninh văn hóa
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, đã và đang tác động mạnh mẽ đến
mọi mặt trong đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc. Xét về lĩnh vực văn hoá,
toàn cầu hoá không chỉ tạo ra cơ hội cho các quốc gia, dân tộc mở rộng sự giao lưu,
hiểu biết và xích lại gần nhau, mà còn đặt những giá trị văn hoá truyền thống của mỗi
dân tộc trước nhiều thách thức to lớn. Mặt khác, do đặc thù về thể chế chính trị, kinh
tế, nên ở Việt Nam nội dung và nhiệm vụ của bảo đảm an ninh văn hóa bao gồm:
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.
Giữ gìn, kế thừa và phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc; tăng
cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng của dân tộc; đẩy
mạnh việc giáo dục pháp luật; xác lập bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Bảo đảm an ninh, an toàn cho các hoạt động và dịch vụ văn hóa, tạo điều kiện
cho sự sáng tạo, phổ biến, truyền bá văn hóa theo định hướng tư tưởng của Đảng, luật
pháp của nhà nước và truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc.
Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động phá hoại về tư tưởng - văn hóa của các thế
lực thù địch; phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật và tình trạng vi phạm, sai phạm
gây mất trật tự an ninh trong các hoạt động và dịch vụ văn hóa.

19


Trong công tác bảo đảm an ninh văn hóa lực lượng công an thường đối mặt
đấu tranh với các đối tượng có hoạt động phá hoại, xâm phạm an ninh văn hóa sau đây:
- Các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có âm mưu, hoạt động phá hoại
văn hóa - tư tưởng, vi phạm pháp luật trên các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, báo chí,
xuất bản, giáo dục, đào tạo, như: Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các trung tâm
phá hoại tư tưởng, các tổ chức phản động người Việt lưu vong chống phá Việt Nam
trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” hoạt động phá hoại văn hóa - tư tưởng.

- Đối tượng trong các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam, nhất là cơ
quan đại diện thông tấn, báo chí, … hoạt động phá hoại tư tưởng, văn hoá, chống
phá Việt Nam có quan hệ với các đối tượng chống đối trong nước.
- Các đối tượng phản động, cơ hội chính trị; đối tượng là văn nghệ sĩ, trí thức
có quan điểm sai trái, tư tưởng bất mãn, chống đối, thù địch; số đối tượng phản
động cũ chưa chịu cải tạo từng có hoạt động phá hoại tư tưởng, văn hoá, vẫn còn tư
tưởng chống đối chế độ.
- Các đối tượng và các loại tội phạm khác hoạt động truyền bá tư tưởng và
văn hoá độc hại; vi phạm pháp luật trên các lĩnh vực hoạt động văn học, nghệ thuật,
báo chí, xuất bản, giáo dục, đào tạo.
- Các cơ quan đại diện của các nước, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam có
hoạt động gây phương hại đến an ninh văn hóa, tư tưởng; các tụ điểm có các đối
tượng hoạt động văn hóa thường xuyên vi phạm; những đối tượng hoạt động xâm
nhập, truyền bá văn hoá phẩm có nội dung phản động, đồi truỵ ở trong và ngoài
nước; địa bàn tập trung các đối tượng hoạt động phá hoại văn hoá, tư tưởng.
Bảo đảm an ninh văn hóa, tư tưởng góp phần quan trọng trong bảo vệ Đảng,
bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; góp phần phòng ngừa, ngăn chặn, đấu
tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng của các thế lực thù địch. Bảo đảm an ninh văn hóa, tư tưởng góp phần
khẳng định hệ tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, đứng vững
trước các hoạt động phá hoại tư tưởng của địch và các yếu tố xâm hại khác; góp
phần quan trọng giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội. Bảo đảm an ninh văn hóa,

20


tư tưởng còn góp phần xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc trên cơ sở vừa kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại.
Các nội dung của việc bảo đảm an ninh văn hóa nêu trên cần được xem xét

thực hiện như một chỉnh thể thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau và có quan hệ
chặt chẽ với an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh con người.
1.1.2.3. Biện pháp bảo đảm an ninh văn hóa
Vận dụng tổng hợp các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của
pháp luật. Trọng tâm là:
- Biện pháp vận động quần chúng: Biện pháp vận động quần chúng trong
công tác bảo vệ an ninh quốc gia là cách thức lực lượng Công an sử dụng các lực
lượng, phương tiện, phương pháp để tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, động viên
thuyết phục, tổ chức quần chúng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân. Trong bảo
đảm an ninh văn hóa, nội dung biện pháp vận động quần chúng gồm các nội dụng:
Nghiên cứu nắm tình hình, xây dựng kế hoạch tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
tổ chức vận động quấn chúng tích cực tham gia xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, phòng chống tội phạm vi phạm pháp luật về văn hóa; sử dụng
linh hoạt các hình thức, phương tiện tuyên truyền, hướng dẫn, vận động nhân dân
tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống phản giá trị, văn hóa phẩm độc
hại; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các ngành, các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội để tổ chức vận động quần chúng tham gia vào công tác bảo đảm an ninh
văn hóa; xây dựng điển hình và nhân điển hình tiên tiến như gia đình văn hóa, làng
văn hóa, khu phố văn hóa làm động lực để tổ chức vận động quần chúng tham gia
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Biện pháp pháp luật: nội dung của biện pháp pháp luật trong bảo đảm an
ninh văn hóa là: Đưa yêu cầu bảo vệ an ninh văn hóa vào xây dựng pháp luật, ký
kết, gia nhập điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, hoàn thiện thể chế; phát hiện,
ngăn chặn, xử lý hành vi lợi dụng hoạt động xây dựng pháp luật, hợp tác quốc tế về
pháp luật để xâm hại đến nền văn hóa Việt Nam; sử dụng pháp luật, điều ước quốc

21



tế, thỏa thuận quốc tế để quản lý nhà nước về bảo đảm an ninh văn hóa và thực hiện
các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo đảm
an ninh văn hóa.
Biện pháp nghiệp vụ: Lực lượng công an sử dụng tổng hợp các biện pháp
đặc thù của ngành công an, như: phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ, nắm
tình hình, công tác nghiệp vụ cơ bản, điều tra cơ bản, … theo quy định của pháp
luật để thực hiện công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực văn hóa.
Biện pháp khoa học - kỹ thuật: Nội dung của biện pháp là áp dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật để chủ động phòng ngừa nghiệp vụ, đấu tranh có hiệu quả với
các âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài chống phá Đảng, Nhà
nước ta, các hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật về an ninh văn hóa. Sử dụng khoa
học - kỹ thuật để ngăn chặn hoạt động tuyên truyền luận điệu sai trái từ nước ngoài
vào Việt Nam qua các đài phát thanh; hành vi đưa thông tin sai trái trên các phương
tiện truyền thông; các sản phẩm văn hóa độc hại, phản giá trị, trái với thuần phong
mỹ tục của nước ta trên mạng in - tơ - nét.

1.2. Vai trò của bảo đảm an ninh văn hóa
1.2.1. Bảo đảm an ninh văn hóa góp phần bảo đảm các quyền văn hóa của
con người, của công dân
Mỗi cá nhân hay cộng đồng đều có quyền được tham gia vào đời sống văn
hóa, được hưởng thụ và sáng tạo ra các giá trị văn hóa nhằm khẳng định mình với tư
cách là những nhân cách văn hóa và nhân tính tự do. Quyền văn hóa là những quyền
của con người trên lĩnh vực văn hóa, bao gồm: quyền tiếp cận văn hóa, quyền thụ
hưởng và sáng tạo các giá trị văn hóa.
Xét từ góc độ pháp lý, an ninh văn hóa không tách rời các quyền văn hóa. An
ninh văn hóa được bảo đảm, điều đó cũng đồng nghĩa với các quyền văn hóa được
thực hiện và ngược lại. An ninh văn hóa được bảo đảm khi văn hóa được phát triển
đúng định hướng, vì mục tiêu nhân văn, nhân bản, con người được tôn trọng, được
thụ hưởng và được tham gia vào quá trình sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Việc tôn
trọng và bảo đảm các quyền về văn hóa cho công dân, trước hết thuộc trách nhiệm

của Nhà nước. Chẳng hạn, Nhà nước cần tạo ra những sinh hoạt văn hóa, phố biến
những tinh hoa văn hóa của đất nước và nhân loại cho nhân dân. Đồng thời, cần tạo

22


×