Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.02 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƢƠNG THỊ CẨM NHUNG

TỘI PHẠM HÓA TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƢƠNG THỊ CẨM NHUNG

TỘI PHẠM HÓA TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 2015
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHẠM VĂN TỈNH



HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Ngƣời cam đoan

Dƣơng Thị Cẩm Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM HÓA .....................8
1.1. Khái niệm tội phạm, tội phạm hóa và các hình thức tội phạm hóa......................8
1.2. Cơ sở của tội phạm hóa ......................................................................................19
1.3. Vai trò, mục tiêu và ý nghĩa của tội phạm hóa ..................................................31
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỘI PHẠM HÓA TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 ................................................................................................................36
2.1. Sự thể hiện nội dung tội phạm hóa tại phần những quy định chung trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 2015 ....................................................................................36

2.2. Sự thể hiện nội dung tội phạm hóa tại phần các tội phạm trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam năm 2015 ..................................................................................................41
CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN HÓA NHỮNG
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI PHẠM ................68
3.1. Đánh giá khái quát quá trình tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm
2015 ...........................................................................................................................68
3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự năm
2015 về tội phạm. ......................................................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................84


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1.

Quá trình tội phạm hóa thể hiện trong Chương XIV

43

2.2.

Quá trình tội phạm hóa thể hiện trong Chương XV

44


2.3.

Quá trình tội phạm hóa thể hiện trong Chương XVI

45

2.4.

Quá trình tội phạm hóa thể hiện trong Chương XVIII

50

2.5.

Quá trình tội phạm hóa thể hiện trong Chương XX

54

2.6.

Quá trình tội phạm hóa thể hiện trong Chương XXI

56

2.7.

Quá trình tội phạm hóa thể hiện trong Chương XXIV

63



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và quan trọng để đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nhiệm vụ của pháp luật hình sự là nhằm bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng
giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi
phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân thủ theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
Bộ luật hình sự (quy ước là BLHS) nước ta được ban hành lần đầu tiên vào
ngày 27/6/1985. Trải qua thời gian 32 năm, BLHS nước ta đã qua nhiều lần sửa đổi,
bổ sung và thay thế bằng BLHS khác nhau. Cụ thể: BLHS năm 1985 được sửa đổi
bổ sung 5 lần vào những khoảng thời gian như 28/12/1989, 12/8/1991, 22/12/1992,
10/5/1997 và lần thứ năm trong hai kỳ họp của năm 1999 gọi là Bộ luật hình sự
năm 1999; BLHS 1999 được ban hành ngày 21/12/1999 và sau đó được sửa đổi bổ
sung 2 lần vào ngày 19/6/2009 và ngày 27/11/2015 được gọi là BLHS 2015; BLHS
2015 tuy chưa có hiệu lực thi hành nhưng cũng đã trải qua 1 lần sửa đổi bổ sung vào
ngày 20/6/2017.
Có thể thấy, trong thời gian qua, pháp luật hình sự Việt Nam, cụ thể là Bộ luật
hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đã đóng vai trò vô cùng quan trọng, có
tác dụng tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, hướng đến việc
bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. BLHS 1999 đã thể hiện
được tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm,
tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử
các hành vi phạm tội, góp phần kiểm soát và kiềm chế tình hình tội phạm, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trước những thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội, việc xuất hiện
nhiều mối quan hệ xã hội mới, cũng như nhiều tội phạm mới với phương thức phạm


1


tội ngày càng tinh vi, làm cho BLHS 1999 không còn đủ linh hoạt và đáp ứng được
thực tiễn. Mặc dù, năm 2009, Quốc hội khóa XII đã sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS nhưng phạm vi sửa đổi chỉ giới hạn ở một số điều nên chưa thể khắc
phục được đầy đủ và toàn diện những bất cập của BLHS khi áp dụng trên thực tiễn.
Những bất cập, hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, chưa thực sự tạo ra được môi trường pháp lý
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước, cũng
như bảo đảm được các quyền của nhân dân.
Mặt khác, theo quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ chính
trị ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định
một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp đối với chính sách, pháp luật hình
sự là “quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất
hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập
quốc tế” thì việc xác định loại hành vi như thế nào sẽ bị ghi nhận trong pháp luật
hình sự là tội phạm và ngược lại, loại trừ khỏi pháp luật hình sự hiện hành loại hành
vi nào đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn và đây là một đòi
hỏi lớn đối với nhà làm luật trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự nước ta. Do đó,
việc sửa đổi, bổ sung và cho ra đời BLHS 2015 là cần thiết và phù hợp với giai
đoạn phát triển mới của đất nước. Trong lập pháp hình sự, khi ban hành một quy
phạm, một chế định pháp luật hình sự thì việc nắm bắt nhu cầu của xã hội để từ đó
đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là vấn đề hết sức quan
trọng. Một trong những công cụ, phương tiện hữu hiệu để thể chế hóa chính sách về
tội phạm là quá trình thực hiện tội phạm hóa - đây là một trong những phương tiện
thể hiện và thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta nhằm đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, là cơ sở quan trọng cho sự tồn tại và phát triển
của đất nước trong từng giai đoạn nhất định.

Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về chính sách hình
sự nói chung, nghiên cứu quy định trong BLHS hiện hành, cũng như BLHS năm
2015 chúng tôi thấy còn những khoảng trống, bất cập về lý luận. Quá trình tội phạm

2


hóa được thực hiện trong thời gian qua cũng cho thấy chủ yếu mang tính đối phó
với tình hình tội phạm diễn ra trên thực tế mà chưa có được tính dự báo trong đó.
Điều này có thể thấy được thông qua việc BLHS năm 1985 sau khi được sửa đổi bổ
sung năm 1991 thì lại tiếp tục được sửa đổi bổ sung ngay những năm sau đó. Hoặc
gần đây nhất là BLHS năm 2015 vừa mới thông qua, chưa có hiệu lực thi hành đã
phải tạm hoãn thi hành để sửa đổi, bổ sung ngay sau đó.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề tội phạm hóa theo quy định của BLHS năm 2015,
tình hình áp dụng pháp luật hình sự trong thời gian qua, từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện BLHS là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thiện
chính sách hình sự, hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung.
Với nhận thức như vậy, đề tài: “Tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 2015” đã được lựa chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội phạm hóa là một trong những chính sách về tội phạm và hình phạt có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Thời gian qua trong khoa học pháp lý hình sự
đã có một số công trình nghiên cứu riêng về chính sách này. Có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu như: Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự
trong giai đoạn hiện nay của GS – TSKH Đào Trí Úc và tập thể tác giả (1994), Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề
cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), PGS – TSKH Lê Cảm (2005),
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội; Một số vấn đề cơ bản về chính sách hình sự
dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2002) của PGS, TS. Hồ Trọng
Ngũ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tội phạm hoá và phi tội phạm hoá

trong luật hình sự Việt Nam, Lô Văn Lý, Luận văn thạc sỹ Luật, Trường ĐH Luật TP
HCM năm 2000; Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa, hình sự hóa, phi hình sự hóa theo
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Phạm Quý Tiêu, Luận văn thạc sỹ Luật, Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật năm 2001; Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa trong
luật hình sự Việt Nam từ năm 1985 đến nay, Nguyễn Ngọc Mai, Luận văn thạc sỹ
Luật, Học viện khoa học xã hội năm 2011; Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa trong

3


Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Đoàn Thu Trang, Luận văn thạc sỹ Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội năm 2001…Và trong các tạp chí chuyên ngành cũng đã có một
số bài viết của các tác giả về vấn đề này. Cụ thể như các bài viết: Tội phạm hóa và
phi tội phạm hóa: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân số 5
năm 2000 và Vấn đề tội phạm hóa một số hành vi xâm hại môi trường trong pháp
luật hình sự Việt nam hiện hành, GS.TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 6 năm 2001; Về vấn đề tội phạm hóa, phi tội phạm hóa, Vũ Ngọc Dương, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 1 năm 2009; Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức
độ quy định tội phạm trong luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự
năm 2009, TS.Hồ Sỹ Sơn, Tạp chí Luật học số 1 năm 2010…
Trong các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên chủ yếu dưới dạng
bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành hoặc các luận văn
nghiên cứu về vấn đề tội phạm hóa, phi tội phạm hóa ở mức độ khái quát, hoặc có
những luận văn nghiên cứu về tội phạm hóa, phi tội phạm hóa với phạm vi là các
nhóm tội phạm cụ thể hoặc trong một giai đoạn cụ thể...Luận văn của Đoàn Thu
Trang về chính sách này cũng đã nghiên cứu quá trình tội phạm hóa và phi tội phạm
hóa trong Luật hình sự Việt Nam năm 1999 nhưng đó là thời điểm Bộ luật hình sự
năm 1999 mới ban hành. Trước những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội nước
ta hiện nay, Bộ luật hình sự năm 2015 mới được ban hành nhưng hiện tại chưa có
công trình nghiên cứu nào về vấn đề tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự năm 2015.

Chính vì vậy việc nghiên cứu chính sách hình sự trong lĩnh vực “Tội phạm hóa
trong Bộ luật hình sự năm 2015” là thực sự cần thiết có nghĩa về lý luận và thực
tiễn đặc biệt là trong điều kiện đổi mới hiện nay ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần hoàn thiện việc tội phạm hóa trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây:

4


- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm hóa như khái
niệm, hình thức, mức độ và các yếu tố làm cơ sở cho tội phạm hóa. Xác định được
vị trí, vai trò của quá trình này trong chính sách hình sự của Nhà nước ta;
- Làm sáng tỏ thực trạng tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự năm 2015, có kết
hợp xem xét sự biến đổi của đời sống xã hội ;
- Đưa ra được những kiến nghị góp phần hoàn thiện nội dung tội phạm hóa
của Bộ luật hình sự 2015.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu và xác định sự phù hợp giữa quy định của pháp luật về tội phạm với
đòi hỏi của thực tế đời sống xã hội, cũng như với tư tưởng lập pháp hình sự mà
Đảng ta đã đề ra ở thời kỳ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành Luật hình sự
và tố tụng hình sự;
- Về thời gian, Luận văn sử dụng chất liệu nghiên cứu chính là BLHS 1999,
sửa đổi bổ sung 2009 và BLHS 2015;

- Về không gian, Luận văn được phép đề cập trong phạm vi toàn quốc.
Một trong những hình thức thể hiện không thể thiếu của chính sách hình sự đó
là hoạt động lập pháp hình sự. Và nội dung của hoạt động này, đồng thời cũng là
nội dung chủ yếu nhất của chính sách hình sự là vấn đề tội phạm hóa – phi tội phạm
hóa, hình sự hóa – phi hình sự hóa. Tuy nhiên, luận văn chỉ đề cập tới vấn đề về tội
phạm hóa trong BLHS năm 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn “Tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015” được
thực hiện trên cơ sở vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những

5


quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Chính sách hình sự về đấu tranh
phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng trong luận văn là:
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này thể hiện trong luận văn là những
lý giải, phân tích những điều luật được các nhà làm luật tội phạm hóa trong Bộ luật
hình sự năm 2015. Các nhận xét, đánh giá, đề xuất đối với việc thực hiện tội phạm
hóa trong chính sách pháp luật của các nhà nghiên cứu khoa học luật hình sự Việt
Nam qua đó rút ra được sự cần thiết, vai trò, mục tiêu, ý nghĩa của chính sách hình
sự này.
- Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để đưa ra các
kiến giải và nhận định về tình hình tội phạm qua các năm từ đó rút ra được những
kết luận về thực trạng, giải pháp và các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp thống kê xã hội học: Phương pháp này được thể hiện thông
qua những tài liệu, số liệu cũng như các báo cáo của các cơ quan điều tra về tình

hình tội phạm của nước ta trong thời gian vừa qua để làm sơ sở phân tích, nghiên
cứu nhằm tìm ra nguyên nhân, giải pháp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số
phương pháp tiếp cận khác như: Lịch sử, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch... đồng thời
sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước như: Bộ luật Hình sự các năm 1985,
1999, 2015, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999, các
Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định, Chương trình hành động... làm tài liệu nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Sự phát triển của toàn cầu hóa và hội nhập góp phần làm cho nền kinh tế Việt
Nam ngày càng phát triển. Bên cạnh những tác động tích cực đối với kinh tế, xã hội,
quá trình hội nhập quốc tế còn làm nảy sinh những tiêu cực trong đời sống xã hội,
trong đó có sự gia tăng của các loại tội phạm mới, có tính chất nguy hiểm cho xã
hội cao. Chính những tác động về mặt xã hội này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu
để sửa đổi Bộ luật hình sự Việt Nam nhằm mục đích điều chỉnh một cách tốt nhất,
triệt để nhất những hành vi gây nguy hiểm đến xã hội và quyền con người.

6


6.1. Ý nghĩa lý luận
Bộ luật hình sự là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc quản lý xã hội,
phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần quan trọng trong việc giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức
và công dân, góp phần hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo được hiệu quả của cuộc đấu tranh với tội phạm phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố, trong đó phải tính đến việc đánh giá đúng đắn và xác định chính xác
và cụ thể những hành vi nguy hiểm cho xã hội vì thế phải đòi hỏi phải phân hóa cao
độ các loại hành vi trong các đạo luật và đồng thời phải bảo đảm thường xuyên theo
dõi, bổ sung, sửa đổi kịp thời những quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội. Quá
trình sửa đổi, bổ sung để từng bước hoàn thiện Bộ luật hình sự thường được thực

hiện theo hai xu hướng đó là quy định bổ sung những hành vi mới được coi là tội
phạm hoặc gia tăng mức độ hình phạt cho một số hành vi được coi là nguy hiểm
cho xã hội và xu hướng loại bỏ một số hành vi được coi là tội phạm hoặc giảm thiểu
các biện pháp và mức độ nghiêm khắc của hình phạt đối với một số hành vi khác.
Và tội phạm hóa chính là quá trình thực hiện một trong hai xu hướng đó.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn ngoài việc đưa ra những đóng góp về việc tìm
hiểu và phổ biến pháp luật hình sự, thi hành và áp dụng những điểm mới đó trong
thực tiễn. Đồng thời luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho học sinh,
sinh viên trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng và cho tất cả những ai quan
tâm đến vấn đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài tham khảo, nội dung luận văn
được kết cấu thành 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội phạm hóa
Chương 2: Thực trạng tội phạm hóa trong Bộ luật hình sự năm 2015
Chương 3: Các giải pháp góp phần hoàn thiện hóa những quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 về tội phạm.

7


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM HÓA

1.1. Khái niệm tội phạm, tội phạm hóa và các hình thức tội phạm hóa
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, pháp luật hình sự luôn là công cụ
hữu hiệu nhất để Nhà nước tiến hành bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị. Pháp luật hình sự là công cụ hiệu quả trong việc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ và củng cố các quan hệ xã hội mới và tiến bộ. Để quản lý xã
hội bằng pháp luật thì bất kỳ một chính sách pháp luật (quy ước là CSPL) nào do
nhà nước soạn thảo ra đều nhất thiết nhằm vào một hoặc nhiều mục đích nhất định
căn cứ vào hướng triển khai chính sách tương ứng trong đời sống xã hội. Ở nước ta,
trong khoa học Luật hình sự các vấn đề của chính sách hình sự (quy ước là CSHS)
từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học và các
nhà hoạt động thực tiễn và hiện có nhiều quan niệm khác nhau về CSHS.
- Có quan điểm cho rằng chính sách pháp luật là chính sách xây dựng và sử
dụng pháp luật, và một trong những bộ phận quan trọng của chính sách pháp luật là
chính sách hình sự [21, tr.120 – 121] . Xuất phát từ quy định tại Điều 4 của BLHS,
trách nhiệm đấu tranh phòng và chống tội phạm là trách nhiệm đặc biệt của Cơ quan
công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Đồng thời cũng là trách nhiệm của tất cả các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và của mọi công dân. Công tác đấu tranh phòng
và chống vi phạm nói chung, tội phạm nói riêng có nền tảng vững chắc là chính
sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Vì vậy, việc đấu tranh nhằm phòng ngừa và
chống tội phạm đòi hỏi phải có nhiều hình thức và biện pháp, trong đó có những
biện pháp cưỡng chế và pháp lý của các cơ quan chuyên trách.
Trên cơ sở đó tác giả cho rằng chính sách hình sự là chính sách xây dựng và
sử dụng pháp luật hình sự. Chính sách hình sự là một bộ phận quan trọng trong
chính sách pháp luật, đồng thời là một bộ phận của chính sách phòng và chống tội
phạm. Đó là đường lối, chiến lược, sách lược và những nguyên tắc do Nhà nước đề
ra trong việc xây dựng và sử dụng các biện pháp pháp lý hình sự để đấu tranh chống

8


tội phạm.
Chính sách xây dựng và sử dụng pháp luật hình sự được gọi là chính sách hình
sự, trước hết được thể hiện thông qua hoạt động xây dựng pháp luật mà kết quả
chính là việc ban hành các văn bản và quy phạm pháp luật. Đây là một lĩnh vực

quan trọng để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nó còn là
kim chỉ nam cho mọi hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tố tụng.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật thì bất kỳ một chính sách pháp luật nào do nhà
nước soạn thảo ra đều nhất thiết nhằm vào một hoặc nhiều mục đích nhất định căn
cứ vào hướng triển khai chính sách tương ứng trong đời sống xã hội. Chính sách
hình sự bao gồm một phạm vi rộng lớn rất nhiều vấn đề mà khoa học pháp lý về tư
pháp hình sự của nước ta có nhiệm vụ phải làm sáng tỏ về mặt lý luận bản chất của
chúng.
- Quan điểm khác thì cho rằng, nghiên cứu chính sách hình sự phải bắt đầu từ
việc nghiên cứu chính sách xã hội nói chung. Khi nghiên cứu các vấn đề của chính
sách xã hội tác động đến an ninh xã hội thì chính sách hình sự giữ một vị trí then
chốt trong toàn bộ các chính sách bảo đảm an ninh xã hội nhằm giải quyết các vấn
đề đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong đó chính sách bảo đảm an ninh xã hội là
một bộ phận của chính sách xã hội. Trong toàn bộ chính sách bảo đảm an ninh xã
hội thì chính sách hình sự đóng vai trò cốt lõi [22, t.25].Chính sách hình sự là toàn
bộ những nguyên tắc, những phương châm chỉ đạo và các biện pháp đấu tranh
phòng và chống tội phạm nói chung, trong đó bằng các biện pháp pháp luật chỉ là
một bộ phận. Phạm vi của chính sách hình sự rất rộng lớn, nó bao hàm toàn bộ
những quan điểm về tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cũng như
những phương châm, nguyên tắc đấu tranh phòng chống được thể hiện trong xây
dựng pháp luật về hình sự, công tác điều tra, truy tố, xét xử, cải tạo và giáo dục
người phạm tội [23, t18]. Qua phân tích, tác giả của quan điểm này cho rằng: Chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là chính sách xã hội trong lĩnh vực đời sống
chính trị - pháp lý, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng chiến lược, tổng thể về
tội phạm như một hiện tượng lịch sử xã hội của xã hội có giai cấp và về những vấn

9


đề cơ bản nhất (mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương pháp và tổ chức lực lượng)

bảo đảm cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả trên tất cả các
phương diện chính trị, xã hội, pháp lý và kinh tế được ghi nhận trong các văn bản
của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Quan điểm khác cho rằng chính sách hình sự liên quan đến các chính sách
khác như chính sách phòng ngừa tội phạm, chính sách tố tụng hình sự, chính sách
pháp luật thi hành án hình sự nên nghiên cứu về chính sách hình sự phải bắt đầu từ
việc nghiên cứu hệ thống pháp luật về đấu tranh chống tội phạm.
Như vậy hai quan điểm sau có phần đồng nhất khi cho rằng suy cho cùng
chính sách phòng ngừa tội phạm, chính sách pháp luật hình sự, chính sách pháp luật
tố tụng hình sự, chính sách pháp luật thi hành án hình sự đều nhằm mục đích cuối
cùng là đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Qua một số quan điểm trên có thể thấy hiện nay trong lý luận còn chưa có sự
thống nhất hoàn toàn về khái niệm chính sách hình sự. Nhưng nhìn chung các quan
điểm, trường phái, ý kiến đều có cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định. Vấn đề ở đây
không có sự khác biệt trong nhận thức nội dung về chính sách hình sự mà là ở các góc
độ, cách tiếp cận rộng hay hẹp vấn đề nghiên cứu. Hiểu theo nghĩa rộng thì chính sách
hình sự là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng chiến lược, tổng thể về tội phạm của
Đảng và Nhà nước ta đảm bảo cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm có
hiệu quả trên mọi phương diện và được ghi nhận trong các văn bản của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Hiểu theo nghĩa hẹp chính sách hình sự là chính sách pháp luật hình sự
(luật nội dung), là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng nhà nước ta về tội phạm và
hình phạt, thể hiện trong quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật hình sự và nâng cao ý
thức trình độ luật pháp của nhân dân. Mặc dù khái niệm về chính sách hình sự được
tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến quan niệm về chính sách hình sự khác
nhau chủ yếu về phạm vi rộng, hẹp. Tuy vậy, khi đề cập đến một trong những hình
thức thể hiện chủ yếu và quan trọng của chính sách hình sự thì hầu hết các nhà
nghiên cứu trong giới nghiên cứu khoa học Luật ở Việt Nam đều thừa nhận đó là sự
sáng tạo pháp luật hình sự, đó là quá trình lập pháp hình sự.

10



Nội dung của hoạt động này, đồng thời cũng là đối tượng nghiên cứu cơ bản
của chính sách hình sự bao gồm các vấn đề: tội phạm hoá và phi tội phạm hóa; hình
sự hóa và phi hình sự hóa; việc áp dụng các quy phạm pháp luật có tính chất đánh
giá hoặc lựa chọn (tùy nghi); chính sách phòng ngừa tội phạm; chính sách pháp luật
hình sự; chính sách pháp luật tố tụng hình sự; chính sách pháp luật thi hành án hình
sự và đường lối xử lý về hình sự. Và tội phạm hóa là một trong những đối tượng
nghiên cứu quan trọng đầu tiên của chính sách hình sự.
1.1.1 . Khái niệm tội phạm và tội phạm hóa
1.1.1.1 . Khái niệm tội phạm
Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình
sự. Tội phạm là chế định thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, đặc điểm chính trị, xã hội
cũng như pháp lý của pháp luật hình sự mỗi quốc gia. Tội phạm là hiện tượng xã
hội – pháp lý, là hiện tượng xã hội tồn tại trong mọi quốc gia, được phản ảnh trong
pháp luật hình sự.
Pháp luật hình sự Việt Nam với việc xác định hai nội dung là tội phạm và quy
định hình phạt, thì pháp luật hình sự Việt Nam coi vấn đề xác định tội phạm là vấn
đề quan trọng đầu tiên. Bởi việc xác định tội phạm là cơ sở để quy định hình phạt
và việc quy định hình phạt xét cho cùng cũng là một phần của việc xác định tội
phạm. Vì vậy, khái niệm tội phạm có thể xem là khái niệm cơ bản nhất trong luật
hình sự Việt Nam. Khái niệm tội phạm vừa là cơ sở thống nhất cho việc xác định
những tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của BLHS, mặt khác, nó vừa thể
hiện rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam. Nội dung của khái
niệm này xác định giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách
nhiệm hình sự và các trách nhiệm pháp lý khác. Khái niệm tội phạm là cơ sở để xây
dựng các cấu thành tội phạm cụ thể và cũng là cơ sở để quy định mức hình phạt
tương ứng [9, t.14].
Tội phạm là một chế định quan trọng, đồng thời là một trong những phạm trù
cơ bản của Luật hình sự, tuy nhiên có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm này.


11


Trong khoa học luật hình sự Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, sự ghi
nhận khái niệm tội phạm chưa hoàn toàn thống nhất với nhau.
Bên cạnh những đặc điểm truyền thống được ghi nhận giống như trong khái
niệm tội phạm của BLHS của nhiều nước trên thế giới là: Tính nguy hiểm cho xã
hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự thì trong khái niệm tội phạm của BLHS
Việt Nam năm 1999 các nhà làm luật còn quy định thêm tính có năng lực trách
nhiệm hình sự của chủ thể như là đặc điểm của tội phạm. Có thể nói đây là đặc điểm
chưa từng được quy định trong luật hình sự của nhiều nước.
Theo PGS.TS Trần Văn Độ: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội ở
mức độ cao hơn các vi phạm pháp luật khác” [12, t.34]
Theo quy TS Phạm Văn Lợi thì tội phạm được định nghĩa như sau: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện có lỗi và bị Bộ luật hình sự quy
định phải chịu hình phạt” [11, t.136]
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, trái pháp luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi (cố ý hoặc vô ý) [7, t.297]
Trong các giáo trình tại các cơ sở đào tạo như Trường Đại học luật Hà Nội,
Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật Đại học Huế cũng có nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm tội phạm. Có giáo trình cho rằng tội phạm có 4 đặc
điểm: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải
chịu hình phạt. Nhưng cũng có giáo trình cho rằng, tính phải chịu hình phạt không
phải là một đặc điểm của tội phạm và đồng thời bổ sung thêm một số đặc điểm khác
như năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi.
Như vậy, từ các định nghĩa về tội phạm tham khảo trên, có thể thấy khái niệm
về tội phạm được thể hiện dưới hai dạng: khái niệm đầy đủ và khái niệm tổng quát
về tội phạm. Nếu theo khái niệm đầy đủ, thì tội phạm được đưa ra với các dấu hiệu:

hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt đến một độ tuổi nhất định thực hiện, do lỗi cố ý hoặc vô
ý và phải chịu hình phạt. Tuy nhiên, cũng cùng với quan điểm trên, nhưng có những

12


người lại có quan điểm không coi tính phải chịu hình phạt là một dấu hiệu của tội
phạm. Vì cho rằng, đã phạm tội thì không tránh khỏi phải chịu hình phạt, đó là hậu
quả tất yếu đi kèm với tội phạm chứ không phải là thuộc tính của tội phạm, vì vậy
không đưa đặc điểm này vào khái niệm tội phạm. Nếu theo khái niệm tổng quát, thì
tội phạm được đưa ra với hai đặc điểm cơ bản là hành vi nguy hiểm cho xã hội và
được BLHS quy định. Bởi không phải bất kỳ một hành vi nguy hiểm nào cũng xem
là tội phạm, mà chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới được quy định là tội
phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội bao hàm dấu hiệu người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý.
Trong BLHS Việt Nam, khái niệm tội phạm được định nghĩa tại Điều 8 như
sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, theo
định nghĩa này, pháp luật hình sự Việt Nam xác định tội phạm theo khái niệm đầy
đủ đã nêu trên. Từ khái niệm này chúng ta có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội
phạm như sau: Một là, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; hai là, tội phạm
được quy định trong Bộ Luật hình sự; ba là, tội phạm do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện; bốn là, người thực
hiện hành vi phạm tội một cách có lỗi (cố ý hoặc vô ý) và năm là, tội phạm xâm

phạm đến một hoặc nhiều quan hệ xã hội được Luật Hình sự ghi nhận và bảo vệ.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, các hoạt động tội phạm luôn đi
ngược lại với lợi ích xã hội, gây ra thiệt hại cho xã hội. Trong mỗi thời kỳ khác
nhau và trong mỗi giai đoạn khác nhau, tội phạm trong xã hội luôn có sự biến đổi cả
về nội dung lẫn hình thức. Thực tế xã hội hiện nay đã xuất hiện những hình thức
biến tướng mới của tội phạm. Vì vậy, nhận thức đầy đủ về nguyên nhân và điều

13


kiện hình thành tội phạm, phương thức và thủ đoạn hoạt động của tội phạm cũng
như đưa ra được các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm luôn được các quốc
gia ưu tiên quan tâm, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm Tội phạm hóa
Thực tiễn đã chứng minh rằng khả năng tác động đến hiệu quả của cuộc đấu
tranh với tội phạm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó phải tính đến việc đánh
giá đúng đắn và xác định càng chính xác, càng cụ thể những hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Vì thế đòi hỏi phải phân hóa cao độ các loại hành vi trong các đạo luật và
đồng thời phải bảo đảm thường xuyên theo dõi, bổ sung, sửa đổi kịp thời (trong
những giới hạn cho phép của hoạt động lập pháp) những quy định về hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Và một trong những xu hướng đó là quá trình tội phạm hóa.
Tội phạm hóa (criminalisation) là việc thông qua một hình thức văn bản pháp
lý hình sự, nhà làm luật qui định hành vi nào đó là tội phạm. Trong khoa học Luật
hình sự nước ta hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội phạm hóa:
Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị Sơn thì tội phạm hóa là:
“Xác định trong luật hành vi nhất định là tội phạm”. [10]
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì cho rằng: “Tội phạm hoá là việc ghi nhận về mặt
lập pháp trong luật hình sự một hành vi nào đó là tội phạm và quy định biện pháp
cưỡng chế về hình sự tương ứng đối với việc thực hiện hành vi đó” [8, tr.12]
GS.TS Đào Trí Úc cho rằng: “Việc qui định tội được khoa học luật hình sự gọi

là tội phạm hóa.
Theo Từ điển Luật học thì tội phạm hóa là: “xác định trong luật hành vi nhất
định là tội phạm. Tội phạm hóa là hoạt động thuộc thẩm quyền của cơ quan lập
pháp. Cơ quan này có trách nhiệm xác định những hành vi bị coi là có tính nguy
hiểm đáng kể cho xã hội và quy định những hành vi đó trong luật hình sự là tội
phạm” [14, tr.789] Quy định tội có nghĩa là coi một loại hành vi này hay hành vi
khác là tội phạm hay không phải là tội phạm, tức là xác định sự cần thiết phải xử lý
bằng các biện pháp hình sự. Như vậy, tội phạm hóa khác với định tội danh, vì định
tội danh là một trong những công việc của hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ

14


quan điều tra, truy tố và xét xử tiến hành. Các cơ quan này, căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể mà xác định hành vi đó có đủ
dấu hiệu cấu thành tội phạm hay không. Còn tội phạm hóa là việc ghi nhận trong
pháp luật hình sự một hành vi nào đó là tội phạm (mà trước đây chưa được pháp
luật hình sự coi là tội phạm) và quy định trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện
hành vi đó.
Nội dung của tội phạm hóa theo cách hiểu tương đối thống nhất trong khoa
học pháp lý hình sự hiện nay bao gồm: 1) Xác định loại hành vi cụ thể là tội phạm
mới do phát sinh hoặc do thực tiễn đòi hỏi cần phải xử lý hành vi này bằng biện
pháp trách nhiệm hình sự; 2) Mở rộng phạm vi xử lý bằng biện pháp trách nhiệm
hình sự của một loại hành vi hoặc nhóm hành vi thông qua việc bớt dấu hiệu của
cấu thành tội phạm hoặc mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm. Nói cách khác, đây
chính là sự khẳng định trách nhiệm hình sự và xác định trong luật hình sự những
yếu tố của hành vi làm cơ sở của trách nhiệm hình sự.
Quá trình tội phạm hóa trên thực tế được hình thành qua những dấu hiệu như:
- Hành vi trước đây chưa được pháp luật nào điều chỉnh nhưng do tính chất
nguy hiểm cho xã hội cao nên cần phải quy định là tội phạm để xử lý bằng biện

pháp hình sự.
- Hành vi có thể đã được điều chỉnh bằng pháp luật hình sự nhưng nay do đòi hỏi
của thực tế nên cần mở rộng phạm vi áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự.
- Hành vi có thể đã được điều chỉnh bằng các ngành luật khác nhưng sự điều
chỉnh đó chưa đủ mạnh nên cần thiết phải được điều chỉnh bằng biện pháp hình sự
mới đạt hiệu quả.
Như vậy, bản chất của tội phạm hóa chính là việc ghi nhận trong pháp luật
hình sự một hành vi trước đây chưa phải là tội phạm nhưng nay do tính nguy hiểm
đáng kể của hành vi nên phải quy định nó là tội phạm để xử lý bằng biện pháp hình
sự. Tội phạm hóa chính là sự thể hiện rõ nét mục đích của nhà làm luật, căn cứ của
luật và xu hướng phát triển của chính sách hình sự.

15


Bằng việc tội phạm hóa nhà làm luật cho chúng ta thấy, từng giai đoạn phát
triển tương ứng của xã hội, nếu không quy định trách nhiệm hình sự đối với loại
hành vi nào đó (mà trong giai đoạn trước đây chỉ bị coi là hành vi trái đạo đức) hoặc
nếu chỉ tiếp tục áp dụng chế tài pháp lý của ngành luật tương ứng khác ít nghiêm
khắc hơn luật hình sự đối với loại hành vi nào đó (mà trước đây chỉ bị coi là vi
phạm pháp luật) thì sẽ không còn đủ sức ngăn chặn đối với loại hành vi đó nữa; mặt
khác, loại hành vi nào đó mặc dù mới xuất hiện và trước đây chưa được quy định là
vi phạm pháp luật trong bất cứ ngành luật nào, nhưng do tính nguy hiểm cho xã hội
cao hơn cả và tương đối phổ biến hơn cả mà việc thực hiện loại hành vi đó bị lên án
về mặt đạo đức và bị dư luận xã hội phản ứng gay gắt hơn cả nên vì vậy, loại hành
vi đó phải bị tuyên bố là tội phạm.
Ví dụ như trong BLHS Việt Nam năm 1999, nhà làm luật đã bổ sung thêm một
loạt các cấu thành tội phạm mới mà trong BLHS năm 1985 trước đây chưa quy định
như: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171), Tội vi phạm quy định về
cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (Điều 179), Tội vi phạm quy định

về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228), một loạt những hành vi mới trong Chương
XVII “Các tội phạm về môi trường”; v.v... Hoặc trong Luật sửa đổi, bổ sung năm
2009, nhà làm luật đã bổ sung 13 tội phạm mới ở nhiều chương v.v…
Tội phạm hóa có thể là việc nhà làm luật quy định một tội phạm mới hoàn toàn
trong BLHS hoặc chỉ bổ sung một hành vi, một số hành vi trong tội danh đã được
quy định từ trước. Bên cạnh đó, quá trình tội phạm hóa còn là việc mở rộng khả
năng có thể xử lý bằng biện pháp pháp luật hình sự qua sửa đổi các yếu tố cấu thành
tội phạm, mở rộng diện chủ thể có khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự, giảm
bớt dấu hiệu hoặc hạ thấp yêu cầu của dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Có thể thấy, ở những giai đoạn khác nhau, nhu cầu của xã hội sẽ có sự thay
đổi, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng sẽ thay đổi theo, và yêu cầu
đặt ra cho nhà làm luật là phải luôn luôn xác định được đúng tính chất nguy hại đó
và đánh giá từ góc độ lợi ích cho Nhà nước và nhân dân để có căn cứ sự cần thiết

16


phải tội phạm hóa loại hành vi này hay loại hành vi khác. Bởi “Người làm luật
không làm ra luật, không sáng chế ra các luật lệ mà chỉ hình thức hóa chúng”.
Tóm lại, tội phạm hoá là việc ghi nhận về mặt lập pháp trong luật hình sự một
hành vi nào đó là tội phạm, tức là xác định sự cần thiết phải trừng trị bằng các biện
pháp hình sự. Và việc ghi nhận này chính là làm gia tăng tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi nào đó hoặc sự xuất hiện của hành vi mới nhưng tính nguy hiểm cho xã
hội đáng kể và cần phải sử dụng biện pháp hình sự.
Tội phạm hóa là một chính sách hình sự của nhà nước và quá trình tội phạm hóa
một hành vi nào đó chỉ thuộc thẩm quyền của nhà làm luật. Chỉ nhà làm luật mới có
quyền xem xét, đánh giá một hành vi nào đó là có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội
và đưa nó vào quy định trong luật hình sự. Việc tội phạm hóa phải tuân thủ nguyên
tắc không được trái với các nghành luật khác trong hệ thống pháp luật quốc gia và các
quy tắc, quy phạm được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế. Đồng thời trong quá

trình tội phạm hóa phải tham khảo có chọn lọc các thành tựu tiên tiến của khoa học
pháp lý hình sự trên thế giới, đặc biệt là trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế của
nước ta hiện nay.
1.1.2 . Các hình thức tội phạm hóa
- Một trong những hình thức của tội phạm hóa là quy định tội danh mới. Tội
danh mới là tội danh mà hành vi cấu thành của tội phạm đó chưa từng được quy
định trong điều luật nào của pháp luật hình sự trước đây. Ví dụ như so với BLHS
năm 1985 thì trong BLHS năm 1999 xuất hiện thêm một số tội danh mới như: tội
phá thai trái phép (Điều 243); tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có
(Điều 251), các tội phạm trong lĩnh vực máy vi tính (các điều 224-226)…
Đây có thể là những hành vi mới xuất hiện do chuyển biến của xã hội nhưng
để bảo vệ các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì nhà làm luật xem xét điều
chỉnh các hành vi này bằng biện pháp hình sự.
Đó cũng có thể là những hành vi trước đây đã xảy ra nhưng được điều chỉnh
bằng các biện pháp phi hình sự khác, bởi mức độ và tính chất nguy hiểm của hành

17


vi chưa tới mức phải điều chỉnh bởi pháp luật hình sự, nhưng trong tình hình mới
nhà làm luật xem xét thấy cần thiết phải tiến hành tội phạm hóa.
- Phân hóa tội danh trước đây thành các tội danh mới: Trước đây có những tội
có cấu thành tổng quát, quy định những dấu hiệu mang tính khái quát cao và được
áp dụng cho một nhóm khách thể rộng. Vì cấu thành có tính khái quát cao nên các
tội này gặp khó khăn khi áp dụng trên thực tế vào từng trường hợp cụ thể và có thể
dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, việc phân hóa các tội có cấu thành tổng
quát thành các tội có cấu thành cụ thể hơn sẽ làm tăng thêm sự chính xác khi xác
định cụ thể phạm vi điều chỉnh của điều luật đó, nên hình thức này cũng có thể được
xem là một hình thức tội phạm hóa.
- Một hình thức nữa của tội phạm hóa đó là mở rộng phạm vi xử lý bằng biện

pháp trách nhiệm hình sự của một loại hành vi hoặc một nhóm hành vi qua việc bớt
dấu hiệu của cấu thành tội phạm hoặc mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm.
Trường hợp nếu như bớt dấu hiệu của cấu thành tội phạm dưới góc độ tội
phạm hóa phải thỏa mãn các điều kiện: thứ nhất, hành vi nguy hiểm cho xã hội đó
đã được quy định trong BLHS tại điều luật cụ thể; thứ hai, việc bớt dấu hiệu của cấu
thành tội phạm trong trường hợp này là bớt dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản
chứ không phải là bớt dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hay cấu thành tội
phạm giảm nhẹ. Vì nếu bớt dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu
thành tội phạm giảm nhẹ thì đó sẽ là trường hợp hình sự hóa và phi hình sự hóa. Ví
dụ: so với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã tội phạm hóa một số hành vi nguy
hiểm cho xã hội bằng việc bớt dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cơ bản như Tội
tham ô tài sản và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân ở
trong BLHS năm 1999 đã được lược bỏ bớt tình tiết “vi phạm nhiều lần”, bỏ trường
hợp “hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm” trong cấu thành tội phạm cơ bản khi
giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 500 nghìn đồng.
Trường hợp nếu mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm, thì chủ thể của tội
phạm ngoài hai dấu hiệu bắt buộc là năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thì đối
với một số tội phạm cụ thể còn đòi hỏi các dấu hiệu đặc biệt khác (ví dụ chủ thể của

18


Tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn). Mở rộng phạm vi chủ thể của
tội phạm chính là thay đổi các dấu hiệu có tính chất bắt buộc (ví dụ: giảm độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, quy định thêm chủ thể tội phạm là tổ chức…) hoặc thay
đổi các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm theo hướng mở rộng đối tượng bị
áp dụng trách nhiệm hình sự (ví dụ: Điều 147 BLHS năm 1985 chủ thể là người có
quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân với nạn nhân, nhưng BLHS năm 1999 mở rộng
thêm phạm vi chủ thể bao gồm cả người có quan hệ nuôi dưỡng).
1.2 . Cơ sở của tội phạm hóa

1.2.1 . Các căn cứ, nguyên tắc tiến hành tội phạm hóa
1.2.1.1 . Các căn cứ tội phạm hóa
Theo quan điểm của tác giả L.I.Belyaeva về khái niệm các căn cứ tội phạm
hóa: “Các căn cứ tội phạm hóa là những quan điểm cơ bản mang tính chỉ đạo để nhà
làm luật tiến hành quá trình tội phạm hóa trong những điều kiện lịch sử cụ thể.”.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm này, như vậy, căn cứ của tội phạm hóa là những gì
đã dẫn đến nhu cầu cần thiết phải thay đổi pháp luật hình sự. Và để xác định một
hành vi nào đó là tội phạm hay không phải là tội phạm, làm cơ sở cho việc tội phạm
hóa, nhà làm luật bao giờ cũng phải dựa vào những căn cứ sau:
Thứ nhất, hành vi phạm tội là hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội tức là hành vi đó xâm phạm, đe dọa xâm phạm đến các quan hệ xã hội quan trọng
cần được bảo vệ bằng biện pháp hình sự.
Trong xã hội có giai cấp, hành vi nguy hiểm cho xã hội suy cho cùng là hành
vi xâm hại đến lợi ích của giai cấp thống trị. Chính vì vậy, nhà làm luật cần dựa
vào nhu cầu củng cố và bảo vệ các quan hệ xã hội và sự phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội đó để xác định hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, trong từng điều kiện kinh tế xã hội
khác nhau, các quan hệ xã hội và lợi ích cũng có sự thay đổi dẫn đến tính nguy
hiểm cho xã hội của các hành vi xâm phạm cũng có sự thay đổi. Và việc sử dụng
pháp luật hình sự để đấu tranh chống lại lại hành vi nguy hiểm cho xã hội đều xuất
phát từ nhu cầu bảo vệ các quan hệ phát triển tiến bộ của xã hội. Khi quy định các

19


hành vi nào đó có tính nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, nhà làm luật phải dựa trên
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự như: nguyên tắc hành vi, nguyên
tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cá thể hóa TNHS,
cá thể hóa hình phạt... cũng như phải quán triệt những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện tại và nhiệm
vụ đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự pháp luật thời kỳ đó. Việc quy định những

hành vi nào đó là tội phạm là phụ thuộc vào việc xác định tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi, mức độ phổ biến của nó trong xã hội.
Tính nguy hiểm cho xã hội là yếu tố cơ bản của tội phạm với tính cách là một
hiện tượng xã hội, cũng như với tính cách là một hành vi cụ thể. Do đó, khi tiến
hành tội phạm hóa một loại hành vi thì tính chất đó cũng là căn cứ quan trọng nhất.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội được tội phạm hóa phải là hành vi có tính nguy hiểm
đến mức đáng kể, tức hành vi đó xâm hại, đe dọa xậm hại đến những giá trị xã hội,
các quan hệ xã hội quan trọng cần được bảo vệ bằng PLHS. Để xác định hành vi
này hay hành vi khác có nguy hiểm cho xã hội hay không, Nhà nước cần dựa vào
nhu cầu củng cố và bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống
trị xã hội.
Trong từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử nhất định, để đáp ứng được nhu cầu
phát triển về mọi mặt của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm
bảo được lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, việc ban hành một văn bản, một
chế định, hoặc một quy phạm pháp luật hình sự thì việc nắm được nhu cầu của xã
hội để từ đó mà đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi này hay hành
vi khác, là điều hết sức quan trọng. Nhà làm luật luôn phải xem xét, đánh giá tính
chất nguy hiểm cho xã hội của loại hành vi này hay loại hành vi khác dưới góc độ
lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, của việc hình thành, xây dựng và phát triển
các quan hệ mới. Quá trình tội phạm hóa trong luật hình sự còn là quá trình thể chế
hóa chính sách hình sự, nó phản ánh và khẳng định những giá trị xã hội mới thông
qua việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và các căn cứ khác.
Như vậy để đánh giá hành vi như thế nào là nguy hiểm cho xã hội, những lợi

20


×