Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận phân tích vai trò của thanh tra giám sát ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.55 KB, 13 trang )

Phân tích vai trò của Thanh tra giám sát ngân hàng nhà nước đối
với sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
trong những năm gần đây. Nêu kiến nghị
I.
Tổng quan hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
I.1 Mục đích

Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm: (i) góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh
của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; (ii)bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công
chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng;(iii) bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp
luật về tiền tệ và ngân hàng; (iv) góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
I.2 Đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng
a) Đối tượng thanh tra
 Cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

(sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước);
 Đối tượng thanh tra ngân hàng được quy định tại Điều 52 Luật Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam, bao gồm cả ngân hàng chính sách và công ty con của tổ chức tín dụng;
 Doanh nghiệp nhà nước do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định thành lập;
 Đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân
hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng) theo quy định của pháp luật về
phòng, chống rửa tiền;
 Tổ chức bảo hiểm tiền gửi;
 Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có nghĩa vụ chấp hành các quy định pháp luật trong
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước.
b) Đối tượng giám sát ngân hàng:
 Đối tượng giám sát ngân hàng được quy định tại Điều 56 Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, bao gồm cả ngân hàng chính sách và công ty con của tổ chức tín dụng;


 Đối tượng báo cáo thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng theo
quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền;
 Đối tượng khác theo quy định của pháp luật.
I.3 Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ
 Theo quy định tại Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 của Chính phủ ban
hành quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng thì
Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng là cơ quan thanh tra nhà nước, được tổ chức
thành hệ thống gồm:(i) Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà
nước; (ii) Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh được thành lập tại tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương nơi không có Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng
thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.


 Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị tương đương Tổng cục, trực thuộc

Ngân hàng Nhà nước, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, bảo hiểm tiền gửi; tiến hành thanh tra hành
chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện phòng, chống rửa tiền,
phòng, chống tài trợ khủng bố theo quy định của pháp luật và phân công của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước.
 Theo Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg ngày 12/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám
sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng
gồm 11 đơn vị:
• Vụ Thanh tra, giám sát các TCTD trong nước (gọi tắt là Vụ I);
• Vụ Thanh tra, giám sát các TCTD nước ngoài (gọi tắt là Vụ II);
• Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham

nhũng (gọi tắt là Vụ III);
• Vụ Giám sát an toàn hệ thống ngân hàng (gọi tắt là Vụ IV);
• Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng (gọi tắt là Vụ V);
• Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng (gọi tắt là Vụ VI);
• Vụ Tổ chức cán bộ (gọi tắt là Vụ VII);
• Văn phòng;
• Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng thành phố Hà Nội (gọi tắt là Cục I);
• Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Cục II);
• Cục Phòng, chống rửa tiền (gọi tắt là Cục III).
 Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức
của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh, giúp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh
quản lý nhà nước, tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra, giám sát ngân hàng, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, chống tài
trợ khủng bố đối với các đối tượng quản lý, thanh tra và giám sát ngân hàng trên địa
bàn theo sự phân công, phân cấp, ủy quyền của Thống đốc NHNN và theo quy định
của pháp luật.
 Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp
của Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh và sự chỉ đạo, hướng dẫn của Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng về công tác, nghiệp vụ thanh tra, giám sát ngân hàng,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, chống
tài trợ khủng bố.
I.4 Nội dung hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước
Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng gồm: (i) Hoạt động thanh tra; (ii) Hoạt động giám
sát; (iii) Hoạt động xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật; cấp phép.


a) Hoạt động thanh tra:
 Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, quy định khác của pháp
luật có liên quan, việc thực hiện các quy định trong giấy phép do Ngân hàng Nhà
nước cấp;

 Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của
đối tượng thanh tra ngân hàng; xem xét, đánh giá các rủi ro tiềm ẩn, chất lượng và
hiệu quả hệ thống quản trị, điều hành, hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ, hệ thống
kiểm trị rủi ro của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả việc nhận
dạng rủi ro, đo lường rủi ro, giám sát rủi ro, kiểm soát và giảm thiểu, xử lý rủi ro
thông qua việc xem xét các yếu tố tác động đến an toàn hoạt động, chất lượng, hiệu
quả quản trị rủi ro, khả năng chống đỡ rủi ro của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài;
 Kiến nghị cơ quan nhà nước có thâm quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc ban hành
VBQPPL đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng;
 Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế, giảm thiểu và
xử lý rủi ro để đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và phòng ngừa, ngăn chặn hành
vi dẫn đến vi phạm pháp luật;
 Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử lý vi phạm pháp luật.
Hình thức thanh tra ngân hàng:
 Thanh tra theo kế hoạch được tiến hành theo kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền

phê duyệt;
 Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện đối tượng thanh tra ngân hàng có dấu
hiệu vi phạm pháp luật, phát sinh rủi ro, nguy cơ đe dọa sự an toàn, lành mạnh của
đối tượng thanh tra ngân hàng, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố hoặc
do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
b) Hoạt động giám sát:
 Thu thập, tổng hợp và xử lý các tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng giám sát
ngân hàng theo yêu cầu giám sát; kết hợp giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các
TCTD với giám sát an toàn của từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
 Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng
và các quy định khác của pháp luật có liên quan; việc thực hiện kết luận, kiến nghị,

quyết định xử lý về thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng;
 Phân tích, đánh giá thường xuyên tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành
và mức độ rủi ro của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, rủi ro mang tính hệ
thống; thực hiện xếp hạng các TCTD hằng năm theo mức độ an toàn;


 Phát hiện, cảnh báo các yếu tố tác động, xu hướng biến động tiêu cực, rủi ro gây mất

an toàn hoạt động đối với từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và hệ thống
các TCTD; các rủi ro, nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng;
 Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi ro, vi phạm
pháp luật của đối tượng giám sát ngân hàng theo quy định của pháp luật.
 Hoạt động giám sát ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ
Trung ương đến địa phương, kết hợp chặt chẽ giữa giám sát việc chấp hành chính
sách pháp luật về tiền tệ, ngân hàng với giám sát trên cơ sở rủi ro.
c) Hoạt động xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật; cấp phép
 Hoạt động xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật
Cơ quan TTGSNH tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong việc xây dựng,
ban hành theo thẩm quyền hoặc để Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trình cấp có thẩm quyền
ban hành chính sách, VBQPPL về tổ chức, hoạt động, an toàn hoạt động ngân hàng, thanh
tra, giám sát ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi và về phòng, chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ
khủng bố thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
 Hoạt động cấp phép

Cơ quan TTGSNH tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Thanh tra, giám sát
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tham mưu, giúp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh
(trong trường hợp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh được Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước phân cấp, ủy quyền) thực hiện:
Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD, giấy phép thành
lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của TCTD

nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng và các loại giấy phép hoạt
động ngân hàng khác;
Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ
chức;
 Xác nhận đăng ký Điều lệ của TCTD;
 Chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp

lý, giải thể TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; chấp thuận danh sách dự kiến
những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội
đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát và Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD,
trừ nhân sự của ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, nhân
sự do chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà nước
sở hữu trên 50% vốn điều lệ cử hoặc giới thiệu; chấp thuận người dự kiến được bổ
nhiệm làm Tổng Giám đốc (Giám đốc) chi nhánh ngân hàng nước ngoài; chấp thuận
việc thành lập, chấm dứt, giải thể chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp ở
trong nước, chi nhánh, văn phòng đại diện và các hình thức hiện diện thương mại


khác ở nước ngoài của TCTD; chấp thuận việc thành lập, mua lại công ty con, công ty
liên kết của TCTD; chấp thuận việc góp vốn, mua cổ phần của TCTD; chấp thuận các
vấn đề khác về quản trị, tổ chức, tài chính và hoạt động theo pháp luật quy định phải
được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận hoặc cho phép;
 Xử lý các vấn đề liên quan đến tổ chức, quản trị, điều hành của các TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài nhằm góp phần đảm bảo các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài hoạt động lành mạnh, an toàn và theo đúng quy định của pháp luật;
 Quyền và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại TCTD có vốn của
Nhà nước theo quy định của pháp luật;
 Xây dựng và tổ chức, theo dõi triển khai thực hiện đề án, phương án củng cố, chấn
chỉnh, cơ cấu lại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
II.

Vai trò thanh tra, giám sát Ngân hàng nhà nước trong việc đảm bảo an toàn hệ
thống ngân hàng những nằm gần đây.
II.1 Các công việc đã làm được
Đẩy mạnh công tác thanh kiểm tra ngân hàng theo cả hai hình thức là theo kế hoạch và
đột xuất
Khoản mục

2010

2011

2012

2013

2014

Số lượt giám sát,
thanh tra

783

935

1134

1279

1056


Số lượng
nghị

4579

5346

7598

9408

8231

Số lượng quyết
định xử phạt

103

109

137

129

107

Số lượng NHTM

38


36

35

33

31

Số lượng NHTM
tái cơ cấu

3

2

3

3

2

kiến

Một số ví dụ điển hình:
Năm 2014, thanh tra NHNN đã phát hiện dấu hiệu bất ổn tại ngân hàng Ngân
hàng Đại Dương (Ocean Bank). Sau đó, ông Hà Văn Thắm, nguyên Chủ tịch HĐQT
OceanBank bị bắt giữ. Đây cũng là trường hợp NHNN đã chủ động công bố về sai phạm
liên quan, bởi trong quá trình triển khai đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, cơ quan này
đã tiến hành thanh tra pháp nhân, thanh tra chất lượng tín dụng đối với các tổ chức tín
dụng và phát hiện một số vi phạm pháp luật nghiêm trọng của cá nhân ông Hà Văn Thắm.


Giai đoạn từ 2011 - 2012, việc kiểm tra “sức khỏe” của nhóm ngân hàng yếu
kém là nhiệm vụ trọng tâm của Thanh tra NHNN. Tiếp đó, năm 2013 là năm kỷ lục của
hoạt động thanh tra và kiểm toán trên toàn hệ thống. Cơ quan Thanh tra giám sát ngân
hàng tại thời điểm này đã thực hiện tới 978 cuộc thanh tra, 310 cuộc kiểm tra. Kèm với



đó là trên 9.000 kiến nghị đối với các tổ chức tín dụng, 129 quyết định xử lý vi phạm
hành chính đối với 118 tổ chức, cá nhân. Đặc biệt, một số vụ việc đã được cơ quan này
chuyển qua cơ quan pháp luật xử lý.

Từ năm 2011 đến 15/9/2015, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành 6.555 cuộc thanh
tra, kiểm tra, qua đó đã phát hiện và xử lý các vi phạm có tính chất phổ biến tại nhiều tổ
chức tín dụng. Căn cứ vào mức độ và hành vi sai phạm, cơ quan thanh tra, giám sát Ngân
hàng Nhà nước đã có 724 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền 12,7 tỷ
đồng.

Trong quý I/2017, Cơ quan thanh tra Giám sát Ngân hàng phát hiện và kiến nghị
thu hồi số tiền 4.193 tỷ đồng, chưa bao gồm hơn 91.000 tỷ đồng phát hiện vi phạm các
quy định nhà nước về cho vay, phân loại nợ, trích dự phòng rủi ro...

Cuối tháng 7 vừa qua, liên quan đến kết quả điều tra vụ án Phạm Công Danh
(nguyên Chủ tịch HĐQT của VNCB) cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an đã đề nghị
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao truy tố về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng” đối với 4 bị can, gồm: Hà Tuấn Phước, nguyên Phó Giám đốc NHNN, Chi nhánh
tỉnh Long An, nguyên Tổ trưởng Tổ giám sát Ngân hàng Xây dựng; Phạm Thế Tuân,
nguyên tổ phó tổ giám sát Ngân hàng Xây dựng, thành viên Hội đồng thành viên Ngân
hàng Xây dựng cùng 2 thành viên tổ giám sát NHNN là Ngô Văn Thanh, Phó phòng
Kiểm tra, giám sát tuân thủ Ngân hàng Thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam –

Chi nhánh Long An và Lê Văn Thanh, Chánh Thanh tra NHNN, Chi nhánh Long An.
Hòan thiện và đa dạng các phương pháp, cách thức thanh tra, giám sát
 Chuyển từ thanh tra đơn lẻ sang thanh tra toàn diện các TCTD. Theo đó, các cuộc

thanh tra được mở rộng cả về quy mô và phạm vi. Ngoài ra, theo đuổi mục đích
chuyển đổi phương pháp thanh tra – kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại; Quán
triệt tinh thần đổi mới phương pháp thanh tra trên cơ sở từng bước kết hợp thanh tra
chấp hành chính sách pháp luật với thanh tra rủi ro; Bám sát các quy định của pháp
luật Việt Nam với tiếp thu những nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong lĩnh vực thanh
tra, giám sát ngân hàng nhưng không trái với quy định pháp luật Việt Nam và phù
hợp với thực tế phát triển của các TCTD.
 Hoạt động giám sát ngân hàng từ việc chỉ giám sát tại chỗ chuyển sang kết hợp hai
hình thức giám sát tại chỗ và giám sát từ xa. Để triển khai kết hợp các phương pháp
này Ngân Hàng Nhà Nước đã thành lập Phòng giám sát và phân tích hoạt động giám
sát ngân hàng. Sự kết hợp này là cần thiết vì song song với phương pháp giám sát tại
chỗ mang tính truyền thống, giám sát từ xa với chế độ báo cáo định kỳ hoặc đột xuất
làm cơ sở dữ liệu cho việc phân tích, xử lý dữ liệu tài chính sẽ được triển khai một
cách có hệ thống. Từ đó vừa giúp cho Ngân Hàng Nhà Nước có tư liệu để so sánh
những chỉ tiêu biến động qua các năm vừa tạo căn cứ cho chủ thể giám sát kịp thời
phát hiện những rủi ro có nguy cơ phát sinh, ngoài ra, phương pháp này còn cung cấp
thêm nguồn thông tin quan trong để nâng cao chất lượng của phương pháp giám sát
tại chỗ Giám sát từ xa các tổ chức tín dụng (TCTD) là việc làm thường xuyên và


không thể thiếu, nhằm phân tích, đánh giá, phát hiện những vi phạm về tỷ lệ an toàn
trong hoạt động, vi phạm các quy định pháp luật trong hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Từ đó kịp thời chấn chỉnh và đưa ra các cảnh báo, giúp các TCTD hoạt động đúng
pháp luật, an toàn và hiệu quả.
 Công tác giám sát được đẩy mạnh trên tầm cả vĩ mô và vi mô nhằm phòng ngừa, phát
hiện sớm các rủi ro, nguy cơ, dấu hiệu vi phạm, xu hướng, diễn biến bất lợi để có

cảnh báo và biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
 Phạm vi và nội dung giám sát được mở rộng, bao gồm cả các công ty con, chi nhánh
của TCTD ở nước ngoài, sở hữu vốn, đầu tư tài chính của TCTD, theo đó, Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng đã xây dựng cơ chế giám sát và yêu cầu TCTD báo
cáo.
 Hệ thống cơ sở dữ liệu, công cụ, các chỉ số, các mô hình định lượng trong giám sát an
toàn vi mô, vĩ mô đã được nghiên cứu, xây dụng và từng bước triển khai áp dụng phù
hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng đã ứng dụng, phát triển và triển khai các công cụ giám
sát giúp cảnh báo sớm rủi ro như mô hình dự báo tài chính (FPM), kiểm tra sức chịu
đựng (Stress-testing), đo lường - đánh giá hiệu quả hoạt động (DEA) để giám sát chặt
chẽ, thường xuyên diễn biến thị trường và hoạt động của từng TCTD cũng như toàn
bộ hệ thống, qua đó phát hiện những xu hướng tiêu cực, cảnh báo sớm rủi ro và vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
Thanh tra giám sát ngân hàng tiến hành xử lý số liệu, tổng hợp và phân tích tình hình hoạt động
toàn bộ hệ thống cũng như từng ngân hàng cụ thể căn cứ vào báo cáo cân đối tài khoản kế toán,
các chỉ tiêu báo cáo thống kê ngoài cân đối à các báo cáo khác do các ngân hàng thương mại
gửi lên định kỳ theo ngày, tuần, tháng và năm. Hàng tháng, thanh tra ngân hàng nhà nước thông
báo kết quả giám sát từ xa cùng với đánh giá và kiến nghị những vấn đề cần lưu ý, chấn chỉnh
đến tổ chức tín dụng và chi nhánh tổ chức tín dụng. Trong trường hợp phát hiện những vi phạm
pháp luật, tùy theo từng mức độ, thanh tra ngân hàng Nhà nước của cán bộ thanh tra kiểm tra
trực tiếp tại tổ chức tín dụng hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
Hoàn thiện cơ sở pháp lý theo hướng đầy đủ và đồng bộ về thanh tra, giám sất ngân
hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát, gia tăng quyền lực cho cơ
quan thanh tra giám sát.
 Quyết định 35/2014/QĐ-TTg ngày 12/06/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra, giám sất ngân hàng trực thuộc ngân hàng
Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị tương
đương Tổng cục, trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

 Nghị định số 26/2014/NĐ - CP 07/04/2014 thay thế Nghị định số 91/1999/NĐCP ngày 4/9/1999 đã thể hiện đổi mới căn bản về mô hình tổ chức thanh tra trong
NHNN theo hướng bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, thực hiện


nhiệm vụ từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với xu hướng tập trung hóa quản
trị, điều hành về trụ sở chính của TCTD… tạo khuôn khổ pháp lý về tổ chức cơ bản
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ có tính đặc thù của Thanh tra, giám sát ngành NH.
Nhiệm vụ Thanh tra, giám sát ngành NH được giao thực hiện rộng hơn, gồm đầy đủ 4
khâu của quá trình quản lý, thanh tra, giám sát đối với các TCTD: Cấp phép; xây
dựng quy chế về an toàn hoạt động NH; giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ; xử lý vi
phạm. Những quy định này hướng tới thực hiện thông lệ, chuẩn mực quốc tế về thanh
tra, giám sát NH hiệu quả của Ủy ban Basel.
 Thông tư 08//2017/TT-NHNN ban hành ngày 01/08/2017 và có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/12/2017 quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng đối với tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Áp dụng chuẩn mực, nguyên tắc quốc tế vào thực tiễn hoạt động thanh tra, giám sát
nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo sự phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế
 Nhận thức rõ được tầm quan trọng của các nguyên tắc của Ủy ban Basel trong việc

nâng cao hiệu quả của hệ thống thanh tra, giám sát và đảm bảo sự an toàn của hệ
thống ngân hàng, cũng như đáp ứng các yêu cầu của thông lệ và chuẩn mực quốc tế,
từ năm 2006, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã định kỳ thực hiện đánh giá giá tình
hình tuân thủ đối với các nguyên tắc của Basel, kết quả đánh giá đã có những cải
thiện lần sau so với lần trước. Đồng thời, NHNN đang từng bước xây dựng một
khung pháp lý linh hoạt, tạo điều kiện để khuyến khích việc áp dụng các nguyên tắc,
tiêu chuẩn mới tiến bộ.
 Bộ 29 nguyên tắc Basel cho rằng một hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả
cần phải có khả năng xây dựng, thực hiện, theo dõi, giám sát và đưa ra các biện pháp
xử lý trong trường hợp có các điều kiện quan ngại ảnh hưởng tới tính hiệu quả của
việc quản lý, giám sát hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng tới sự an toàn của hệ thống.

 Việc áp dụng bộ nguyên tắc Basel tại Việt Nam thể hiện thông qua việc quy định các
tỷ lệ an toàn, các giới hạn, các phương pháp kiểm soát trong các văn bản pháp lý như:
Thông tư 36/2014/TT-NHNN và thông tư 06/2016/TT-NHNN sủa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư 36/2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ an troàn trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng; Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày 14/3/2013 về việc kiểm
soát đặc biệt với tổ chức tín dụng, thông tư 13/2010/TT-NHH quy định cá tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động tín dụng.
 Thực hiện giám sát từ xa theo phương pháp CAMELS. Ngân hàng Nhà nước xây
dựng các Báo cáo giám sát vĩ mô, Báo cáo cảnh báo sớm, Báo cáo đánh giá xếp hạng
theo từng nội dung hoạt động của Ngân hàng thương mại. Thông qua các báo cáo rên,
với những nhận xét, đánh giá cho từng hoạt động, Ngân hàng Nhà nước đưa ra các
kết luận chung cho hoạt động tổng thể của ngân hàng và từng ngân hàng cụ thể.


Tăng cường năng lực thanh tra, giám sát ngân hàng bằng dự án Brass do Bộ Ngoại
giao, thương mại và phát triển Canada tài trợ
 Dự án BRASS đã được NHNN, Bộ Ngoại giao, Thương mại và Phát triển Canada

thiết kế từ năm 2011. Dự án được tài trợ từ nguồn vốn của Bộ Ngoại giao, Thương
mại và Phát triển Canada (DFATD Canada). Dự án kéo dài 5 năm và có giá trị 14
triệu đô la Canada. Dự án sẽ được quản lý bởi cả hai phía Canada và Việt Nam. Phía
Canada sẽ do Cơ quan thực hiện Dự án (CEA) làm đại diện và đại diện phía Việt Nam
là Ban Quản lý Dự án Việt Nam (VPMU). Hiện, VPMU đã được thành lập và đi vào
hoạt động. Ngoài ra, hai bên cũng đã ký kết thỏa thuận hợp tác và ban hành quy trình
quản lý Dự án.
 Dự án BRASS với 4 cấu phần gồm: (i) Nâng cao kỹ năng của cán bộ NHNN, Cơ
quan Thanh tra, giám sát trong việc đánh giá, xây dựng và sửa đổi điều chỉnh các quy
định và quy trình cấp phép tiến tới các chuẩn mực quốc tế và phù hợp với bối cảnh
quản lý của Việt Nam; (ii) Tăng cường năng lực giám sát các ngân hàng tại Việt Nam
của NHNN, Cơ quan Thanh tra, giám sát; (iii) Nâng cao năng lực cho Cơ quan Thanh

tra, giám sát ngân hàng và một số đơn vị của NHNN nhằm tăng cường các chức năng
tổ chức của những đơn vị này để tiến tới các chuẩn mực quốc tế trong quản lý và
giám sát ngân hàng; (iv) Hỗ trợ NHNN lắp đặt hệ thống giám sát an toàn vĩ mô, hệ
thống cảnh báo sớm…
 Mục tiêu và các cấu phần hoạt động của Dự án phù hợp với công tác thanh tra, giám
sát của NHNN, góp phần tạo ra những thay đổi cần thiết để chuyển đổi hoạt động của
thanh tra, giám sát NHNN theo các chuẩn mực quốc tế.
Xây dựng đề án tái cơ cấu tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 (Đề án 254) và giai
đoạn 2016 - 2020 và đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và thành lập
Công ty quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam
 Công tác thanh kiểm tra trong quá trình triển khai đề án 254, NHNN đã phát hiện

nhiều rủi ro gây mất an toàn hoạt động và vi phạm pháp luật tại các TCTD; đồng thời
chỉ ra và nhận diện được một số TCTD yếu kém, làm cơ sở và chỉ đạo kịp thời để
triển khai các bước cơ cấu lại hệ thống các TCTD. NHNN đã thực hiện kiểm soát đặc
biệt đối với một số TCTD hoạt động yếu kém như: Ngân hàng Thương mại cổ phần
(TMCP) Dầu khí Toàn cầu (GP Bank), Ngân hàng TMCP Đại Dương (Ocean Bank),
Ngân hàng TMCP Xây dựng (VNCB) và Công ty Tài chính Handico. NHNN đã thực
hiện kiểm soát đặc biệt đối với một số TCTD hoạt động yếu kém như: Ngân hàng
Thương mại cổ phần (TMCP) Dầu khí Toàn cầu (GP Bank), Ngân hàng TMCP Đại
Dương (Ocean Bank), Ngân hàng TMCP Xây dựng (VNCB) và Công ty Tài chính
Handico. NHNN đã thực hiện mua lại bắt buộc với giá 0 đồng VNCB Ocean Bank và
GP Bank theo đúng quy định của pháp luật. 4 cặp ngân hàng đã tiến hành sáp nhập:


MHB sáp nhập vào BIDV; PG.Bank sáp nhập vào VietinBank; MDB sáp nhập vào
Maritime Bank, SouthernBank sáp nhập vào Sacombank.
 Đề án xử lý nợ xấu và thành lập Công ty quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt
Nam (VAMC) bước đầu đem lại được những kết quả khả quan. tại 30/9/2012, nợ xấu
của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam là 464.664 tỷ đồng, tương đương

17,21% tổng dư nợ tín dụng. Tính đến hết tháng 09/2017, theo số liệu của Ủy ban
giám sát tài chính quốc gia, tỷ lệ nợ xấu báo cáo khoảng 2,9% (năm 2016 là 2,6%).
Về xử lý nợ xấu, số nợ xấu được xử lý từ năm 2013 -2016 là 500 nghìn tỷ đồng, trong
đó bán cho VAMC chiếm 41,6% và TCTD tự xử lý khoảng 58,4%.
 Tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng tiếp tục được ổn định, các chỉ tiêu
phản ánh khả năng chi trả của các TCTD đều được cải thiện. Tỷ lệ an toàn vốn luôn
đạt cao hơn mức quy định của pháp luật (tối thiểu 9%). Tỷ lệ tín dụng/huy động vốn
giảm nhờ tín dụng tăng trưởng chậm lại và ở mức hợp lý trong khi nguồn vốn huy
động tiếp tục tăng khá cao. Tỷ lệ khả năng thanh toán ngay tăng và hầu hết các TCTD
đều đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định. Rủi ro về
vàng cơ bản được loại bỏ nhờ việc đóng trạng thái vàng; rủi ro ngoại tệ đã giảm đáng
kể. Tỷ trọng tín dụng ngoại tệ so với tổng dư nợ tín dụng tiếp tục duy trì ổn định và ở
mức thấp.
 Sau tái cơ cấu, hệ thống ngân hàng thương mại trở nên lành mạnh hơn”. NHNN đã
giảm 19 TCTD, kiểm soát và từng bước xử lý các TCTD yếu kém, đảm bảo ổn định,
an toàn hệ thống; không để đổ vỡ, khủng hoảng ngân hàng; tài sản của Nhà nước,
nhân dân được bảo đảm...
 Trên cơ sở phát huy những kết quả đã đạt được và những bài học kinh nghiệm từ thực
tế triển khai tái cơ cấu hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu của đề án 254, Ngân hàng
Nhà nước đã xây dựng Đề án Cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai
đoạn 2016-2020 báo cáo Chính phủ và Bộ Chính trị; đồng thời, đề xuất với Chính
phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu tại Kỳ họp thứ 3,
Quốc hội Khóa XIV (Tại Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017, Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt Đề án).
 Nội dung chính của đề án tái cơ cấu tổ chức tín dụng giai đoạn 2016 - 2020 là tiếp tục
cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ
xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị
trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững
sự ổn định, an toàn hệ thống; giảm số lượng tổ chức tín dụng yếu kém để có số lượng
các tổ chức tín dụng phù hợp, có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm

tính thanh khoản.
II.2 Các hạn chế còn tồn tại
 Khuôn khổ pháp lý, pháp quy về thanh tra, giám sát ngân hàng, an toàn hoạt động
ngân hàng chưa đầy đủ và đồng bộ;


 Khả năng phát hiện và cảnh báo sớm, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro trong hoạt động

thanh tra, giám sát ngân hàng còn hạn chế;
 Chất lượng, số lượng, năng lực thực thi công vụ của đội ngũ thanh tra, giám sát ngân

hàng còn một số tồn tại, hạn chế, chưa theo kịp với tốc độ phát triển của hệ thống tài
chính ngân hàng;
 Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng còn chưa đáp ứng được yêu cầu và chuẩn
mực quốc tế; cơ sở hạ tầng kỹ thuật hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giám sát ngân
hàng còn bất cập.
 Vai trò của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trong các vụ án xét xử lớn như vụ
Nguyễn Đức Kiên (ACB), Ngân hàng Xây dựng, Oceanbank, Huyền Như là không
rõ ràng và mang tính thụ động. Đại diện cơ quan thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà
nước thường từ chối trả lời câu hỏi, không công bố các tài liệu thanh tra các ngân
hàng vi phạm đang bị xét xử.
III.
Kiến nghị
Một là, tăng cường tính độc lập của các đơn vị thanh tra, giám sát ngânhàng và hướng đến
một mô hình giám sát độc lập trong dài hạn. Các đơn vị thanhtra, giám sát ngân hàng thuộc
NHNN chi nhánh chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo vềchuyên môn nghiệp vụ của Cơ quan thanh
tra, giám sát ngân hàng và chịu sự quảnlý hành chính của NHNN chi nhánh...
Tuy nhiên, xét về dài hạn, cần tăng cường tính độc lập của các đơn vị thanh tra, giám sát
ngân hàng với NHNN chi nhánh và Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng chịu trách nhiệm
quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn về công tác tổ chức, cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ của các

đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng. Mô hình giám sát ngân hàng chuyên ngành của Việt
Nam là phù hợp trong bối cảnh hiện tại. Tuy nhiên, kinh nghiệm các nước chuyển đổi cho
thấy, việc chuyển đổi sang mô hình giám sát hợp nhất trong dài hạn sẽ giúp Việt Nam nâng
cao được hiệu quả giám sát bằng cách xem xét hợp nhất các đơn vị giám sát riêng lẻ hiện nay
(Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cục
Quản lý và Giám sát bảo hiểm của Bộ Tài chính, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia). Mặc
dù hướng đến mô hình hợp nhất, NHNN nên tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong việc phối
hợp để kịp thời phát hiện, khắc phục và giảm thiểu rủi ro của hệ thống ngân hàng.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về an toàn hoạt động ngân hàng theo
hướng áp dụng các nguyên tắc của Basel II và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Chính sách
quản lý và quy chế an toàn cần tạo ra môi trường hoạt động ngân hàng lành mạnh và tạo
động lực khuyến khích các TCTD nâng cao năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị rủi ro.
Đồng thời, cần cải cách hệ thống kế toán ngân hàng theo hướng ngày càng gần hơn với các
chuẩn mực của quốc tế. Đồng thời, từng bước thực hiện việc kết hợp thanh tra tuân thủ với
thanh tra trên cơ sở rủi ro, dựa trên nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ. Theo đó, hoạt
động thanh tra, giám sát ngân hàng phải được thực hiện tập trung thống nhất đối với toàn bộ
hoạt động của một TCTD gồm hội sở chính, các chi nhánh, các công ty con có hoạt động


ngân hàng. Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng phải phối hợp với các cơ quan giám sát
liên quan thực hiện tốt Điều 60 Luật NHNN trong việc giám sát các công ty con, công ty liên
kết của TCTD hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngânhàng để quan sát được đầy đủ hoạt
động của một tập đoàn tài chính, qua đó, giám sát an toàn tập đoàn và hệ thống tài chính
quốc gia,
Ba là, tăng cường hiệu quả sử dụng kết hợp phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
bằng cách xây dựng chương trình EWS, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin số liệu
sử dụng trong giám sát từ xa, đảm bảo tính minh bạch thông tin và tăng cường hiệu quả giám
sát rủi ro. Hoạt động quản lý giám sát được thực hiện chủ yếu thông qua giám sát từ xa và
giám sát tại chỗ, thường tập trung vào giám sát tuân thủ các quy định pháp luật, chưa thực
hiện giám sát trên cơ sở đánh giá rủi ro đối với các doanh nghiệp nói chung và tập đoàn tài

chính nói riêng. Vì vậy, nên từng bước thực hiện việc kết hợp thanh tra tuân thủ với thanh tra
trên cơ sở rủi ro theo nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ.
Bốn là, tăng cường giám sát đối với an toàn vốn, xây dựng kế hoạch thanh khoản hiệu quả và
tăng cường quản lý rủi ro bởi đây là những yếu tố cần thiết nhất để hệ thống ngân hàng hoạt
động an toàn và phát triển tốt. Việc tăng cường tính thận trọng và hiệu lực của các cơ quan
giám sát cũng là một trong những yêu cầu nhằm đảm bảo thực hiện các tiêu chuẩn đã đặt ra.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho thấy, một số TCTD đã có những thiếu sót nghiêm
trọng ở một hoặc các mặt nêu trên, do đó, đã bộc lộ sự yếu kém của hệ thống quản lý rủi
ro của
nhiều tổ chức tài chính. Theo kinh nghiệm của FED, để quản lý an toàn vốn, cần giám sát
chặt chẽ tỷ lệ vốn của các tổ chức tài chính tương ứng với mức độ rủi ro của tài sản. Để quản
lý thanh khoản hiệu quả, các TCTD cần tăng cường những tài sản có tính thanh khoản cao so
với tài sản mà các ngân hàng nắm giữ trong điều kiện bình thường; các tổ chức tài chính phải
dự tính đến trạng thái thanh khoản khi thị trường rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Cuối cùng, để
tăng cường quản lý rủi ro, các tổ chức tài chính cần nâng cao nhận thức và hiểu biết về các
mối liên hệ và cáctác động rủi ro chủ chốt trong hệ thống tài chính.
Năm là, việc lựa chọn mô hình ổn định tài chính đòi hỏi cần phải được xem xét thận trọng
trên cơ sở khai thác tối đa những mặt thuận lợi và khắc phục các vướng mắc có thể phát sinh
do mỗi mô hình ổn định tài chính đều có những ưu và nhược điểm riêng cần khắc phục. Tuy
nhiên, dù lựa chọn mô hình nào, để thực hiện mục tiêu ổn định tài chính, nên lưu ý các vấn
đề sau: (i) Thiết lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, có hiệu quả giữa các cơ quan
chủ chốt liên quan tới ổn định tài chính ở Việt Nam; đồng thời, kết hợp tăng cường đúng mức
vai trò điều tiết và giám sát của Nhà nước, chú trọng giám sát an toàn ở cấp độ vĩ mô; (ii)
Việc duy trì ổn định tài chính và phòng ngừa khủng hoảng cần sự phối hợp và nỗ lực chung
của nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau mà chủ chốt là NHNN, Bộ Tài chính, Ủy ban
Giám sát tài chính Quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; (iii) Nên phân định rành mạch


hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng thành viên chính trong mạng an toàn tài chính
quốc gia - NHNN (bao gồm cả cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng), Bộ Tài chính (bao

gồm Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam cũng như quan hệ phối hợp công tác giữa các cơ quan này.
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế trong thanh tra ngân hàng, tham gia các hiệp ước, thỏa
thuận quốc tế về giám sát ngân hàng và an toàn tài chính. Thanh tra ngân hàng Việt Nam nên
tăng cường mối quan hệ để trao đổi thông tin với cơ quan giám sát ngân hàng của các nước
có chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam cũng như Hội sở chính của các ngân hàng mẹ. Vì vậy
cần làm rõ các quy định về trao đổi thông tin và hợp tác với các cơ quan giám sát ngân hàng
các nước và hội sở chính của các ngân hàng mẹ; đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ
chức quốc tế trong việc trao đổi thông tin, tiếp thu tư vấn về công tác thanh tra, công nghệ,
đào tạo nâng cao năng lực của thanh tra viên trong và ngoài nước.



×