Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tìm hiểu về chế định thừa kế, cho các ví dụ về tranh chấp quyền thừa kế và các quy định của pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.63 KB, 24 trang )

Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

MỤC LỤC

1


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Lời cảm ơn.
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong
khoảng thời gian học tập tại trường Đại Học Công Nghiệp TP.HCM , chúng em
đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý thầy cô ở khoa Lí Luận Chính
Trị-Trường Đại Học Công Nghiệp TP.HCM đã cùng với tri thức và tâm huyết
của mình để truyền đại vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt khoảng
thời gian học tập tại trường. và đặt biệt, trong học kỳ này, Khoa đã tổ chức cho
chúng em được tiếp cẫn với môn học mà chúng em cho rằng rất bổ ít đối với tất
cả sinh viên , đó là môn: “Pháp Luật Đại Cương”.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Hải Vân đã tận tâm hướng dẫn
chúng em qua từng buổi học trên lớp, những phút thảo luận, nghiên cứu. Nếu
không có sự hướng dẫn, dạy bảo của cô thì chúng em nghĩ bài tiểu luận này rất
khó có thể hoàn thiện được.Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn cô
Trong quá trình thực hiện, không thể tránh khỏi những sai sót, mong cô góp ý để
bài tiều luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Sau cùng chúng em xin chúc Thầy cô dồi dào sức khỏe, iềm tin để tiếp tục thực
hiện sứ mệnh cao đẹp là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng.



2


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Để tài: Tìm hiểu về chế định thừa kế, cho các ví dụ về tranh chấp quyền
thừa kế và các quy định của pháp luật.
Trong cuộc đời của mỗi con người không ai tránh khỏi sinh lão bệnh tử, cũng
không ai lường trước những tai nạn có thể xảy ra với mình, vì vậy nhu cầu lập
và thi hành di chúc là thật sự cần thiết, tuy nhiên trong quá trình lập và thi hành
di chúc có thể xảy ra những tranh chấp, mâu thuẩn giữa các cá nhân được thụ
hưởng tài sản trong di chúc
Bài tiều luận này đi vào tìm hiểu về các chế định thừa kế cũng như một số tình
huống tranh chấp tài sản trong di chúc và hướng giải quyết theo quy định của
pháp luật nhằm cung cấp cái nhìn tổng quát về luật thừa kế của nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Sau bài tiêu luận này , hy vọng mọi người sẽ có thêm kiến thức về luật thừa kế,
cũng như biết cách giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thừa kế

3


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Phần 2: Các kiến thức cơ bản về luật thừa kế
của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt

Nam.
Di chúc là gi:
Di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người nhằm định đoạt toàn bộ tài sản thuộc
quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc một phần tài sản của mình sẽ được chuyển
giao cho một hoặc nhiều người sau khi người đó ( người lập di chúc ) chết. Sự
bày tỏ ý chí được thực hiện thông qua hình thức bằng văn bản ( gọi là di chúc
bằng văn bản), hoặc bằng lời nói miệng ( gọi là di chúc miệng). Sự bày tỏ ý chí
này gọi là lập di chúc.
Di sản thừa kế là gi?
Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại, di sản thừa kế bao gồm: phần tài
sản của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác. Di sản thừa kế có thể là hiện vật, giấy tờ có giá trị, quyền tài sản thuộc sở
hữu của người để lại di sản.
QUYỀN THỪA KẾ:
Quyền thừa kế là quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản.
Đối tượng của quyền thừa kế là tài sản thuộc sở hữu của người chết hoặc
quyền tài sản mà người chết người sử dụng hợp pháp.
Thừa kế thế vị:
Thừa kế thế vị là một trường hợp thừa kế rất đặc biệt. Những người được nhận
di sản thừa kế, khi xét về hàng thừa kế thì họ không được nhận phần di sản
thừa kế đó, việc họ nhận thừa kế là việc họ nhận thay cho bố hoặc mẹ của họ
(vốn dĩ là những người được hưởng thừa kế theo pháp luật nếu còn sống).
Quyền lập di chúc
Căn cứ Ðiều 648 – BLDS Người lập di chúc có các quyền sau đây:
4


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương
1. Chỉ định người thừa kế;

2.

3.
4.
5.

truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;Phân định phần di sản cho
từng người thừa kế;
Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Nghĩa vụ người thừa kế
Người hưởng thừa kế có nghĩa vụ:


Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận



khác.
Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của
những người thừa kế.



Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá

phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.



Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc
thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người
thừa kế là cá nhân.

5


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Như vậy, khi người hưởng thừa kế nhận di sản của người chết để lại, người
hưởng thừa kế phải đồng thời thực hiện các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi tài
sản đó. Quy định này đảm bảo cho những nghĩa vụ về tài sản của người đã chết
được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật.

6


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Một số quy định của pháp luật của nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
về thừa kế
Điều 631. Quyền thừa kế của cá nhân
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của

mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo
pháp luật.
Điều 632. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và
quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Điều 633. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp
Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác
định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu
không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn
bộ hoặc phần lớn di sản.
Điều 634. Di sản
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác.
Điều 635. Người thừa kế

7


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ
quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 636. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại.

Điều 637. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa
kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa
vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà
mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì
cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá
nhân.
Điều 638. Người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thoả thuận cử ra.

8


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử
dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế
cử được người quản lý di sản.
3. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người
quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Điều 639. Nghĩa vụ của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật

này có các nghĩa vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người
khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và
định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế
đồng ý bằng văn bản;
c) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
d) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
638 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định
đoạt tài sản bằng các hình thức khác;
b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

9


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

c) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
d) Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
theo yêu cầu của người thừa kế.
Điều 640. Quyền của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật
này có các quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan
đến di sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
638 của Bộ luật này có các quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại
di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.
Điều 641. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà
chết cùng thời điểm
Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng
thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được
người nào chết trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được
thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó
hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 của Bộ luật này.
Điều 642. Từ chối nhận di sản

10


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo
cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ
quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở
thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu
tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là
đồng ý nhận thừa kế.
Điều 643. Người không được quyền hưởng di sản

1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành
vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng
danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền
hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu
người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng
di sản theo di chúc.
11


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Điều 644. Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước
Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có
nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại
sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc
Nhà nước.
Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa
kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời
điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của

người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Điều 681. Họp mặt những người thừa kế
1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những
người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ
của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b) Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.
Điều 682. Người phân chia di sản

12


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định
trong di chúc hoặc được những người thừa kế thoả thuận cử ra.
2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thoả
thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép
trong di chúc hoặc những người thừa kế có thoả thuận.
Điều 683. Thứ tự ưu tiên thanh toán
Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
3. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
4. Tiền công lao động;
5. Tiền bồi thường thiệt hại;

6. Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;
7. Tiền phạt;
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác;
9. Chi phí cho việc bảo quản di sản;
10. Các chi phí khác.
Điều 684. Phân chia di sản theo di chúc
13


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

1. Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu
di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều
cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
2. Trong trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người
thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó
hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia
di sản; nếu hiện vật bị tiêu huỷ do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại.
3. Trong trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng
giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào
thời điểm phân chia di sản.
Điều 685. Phân chia di sản theo pháp luật
1. Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng
chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác
được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng; nếu
chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu

không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thoả thuận về
việc định giá hiện vật và thoả thuận về người nhận hiện vật; nếu không thoả
thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Điều 686. Hạn chế phân chia di sản
Trong trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thoả thuận của tất
cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định
thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.
14


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên
còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế
được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định, nhưng
không quá ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Toà án xác
định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác
có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế.
Điều 687. Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có
người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế
1. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì
không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người
thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền
tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ
tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền
thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương
đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người

thừa kế, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

15


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Một số tình huống trong việc tranh
chấp tài sản thừa kế và phương hướng
giải quyết
Tình huống 1:
Ông nội tôi lấy 2 vợ có được 6 người con. Nhưng năm 1959 ông tôi ly dị vợ cả
và bà đi lấy chồng. Năm 1976 ông tôi mất đi không để lại di chúc. Bà nội tôi (vợ
thứ 2) quản lý toàn bộ mảnh đất của ông bà có diện tích khoảng 1200m2. Đến
năm 1987, bà tôi cắt cho bố mẹ tôi khoảng 600m2 và được sự đồng ý của các
anh em (không ghi thành văn bản), chính quyền đã xác nhận quyền sở hữu mảnh
đất đó cho bố tôi (có tên trong bìa đá của xã và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về
đất). Năm 1988, bố tôi xây nhà và ở đó tới nay. Năm 2002, gia đình tôi được cấp
bìa đỏ đứng tên bố mẹ tôi. Gia đình tôi sử dụng ổn định, không có tranh chấp
trong suốt thời gian đó tới nay. Mảnh đất còn lại bà nội tôi sống cùng chú út. Bà
tôi hỏi ý kiến các con về mảnh đất 600m2 còn lại có ai về thì bà tôi cho đất, mọi
người không lấy và đồng ý cho toàn bộ chú út (không ghi thành văn bản). Bà tôi
chuyển quyền sử dụng đất cho chú út (có bìa đỏ và đứng tên vợ chồng chú) vào
năm 2002. Năm 2012, bác trưởng tôi về đòi chia đất. Bố và chú tôi không đồng
ý chia đất và không đồng ý đó là tài sản chung vì thực tế từ năm ông tôi mất đến
nay không có văn bản của các đồng thừa kế xác nhận đó là tài sản chung và bác
tôi gửi đơn xuống tòa án thành phố đòi chia tài sản chung. Vậy tôi xin hỏi bác
tôi có quyền đòi chia đất theo thừa kế hoặc chia tài sản chung hay không? Tôi
xin chân thành cảm ơn!



Phương hướng giải quyết:

Trường hợp 1: Bác cả bạn đòi chia thừa kế.

16


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Do ông nội bạn đã mất từ năm 1976 đến nay bác bạn mới khởi kiện đòi chia
thừa kế thì đã hết thời hiệu để khởi kiện nên sẽ không được giải quyết. Bộ luật
Dân sự năm 1995 quy định cụ thể như sau:
“Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Trường hợp 2: Bác bạn đòi chia tài sản chung.
Theo quy định tại điểm 2.4 điều 2 mục I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì trường hợp hết thời hiệu khởi
kiện chia di sản thừa kế nêu trên nhưng nếu đáp ứng được các điều kiện theo
quy định tại Nghị quyết thì di sản đó sẽ trở thành tài sản chung của các đồng
thừa kế, cụ thể như sau: Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm
mở thừa kế nếu các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có
văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười
năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa
nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản
chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì
không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định
của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...

Căn cứ theo quy định nêu trên, trường hợp hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế,
được áp dụng chia theo tài sản chung chỉ khi tài sản đó chưa chia. Trường hợp
bạn hỏi đã hết thời hạn 10 năm và đã chia tài sản, hiện bà bạn không còn sở hữu
mảnh đất nào được coi là tài sản chung để bác cả bạn lấy căn cứ khởi kiện đòi
chia nữa. Do đó, việc bác bạn khởi kiện để chia tài sản chung là không có căn cứ
pháp luật.

17


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Tình huồng 2:
Vụ việc xảy ra huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Cụ Lại Hữu Cận có hai vợ:
+ Vợ thứ nhất là cụ Nguyễn Thị Nhớn. Cụ Cận và cụ Nhớn có 5 con đẻ gồm các
ông, bà: Lại Thị Tuyên, Lại Hữu Minh, Lại Hữu Nội (chết lúc nhỏ), Lại Hữu Lợi
(hi sinh năm 1969, không có vợ con), Lại Hữu Quang (chết 5-1983; có hai vợ:
vợ cả là bà Cúc, đã ly hôn, có một con chung là anh Vận. Vợ hai là bà Trần Thị
Mỹ, có bốn con là anh, chị: Lại Thị Oanh, Lại Thị Yến, Lại Hữu Lợi, Lại Hữu
Thắng). Cụ Cận và cụ Nhớn có một con nuôi là bà Bùi Thị Chung (chết năm
1998, có con là chị Bùi Thị Giang, chị Bùi Thị Hải và chị Bùi Thị Lan).
+ Vợ hai của cụ Cận là cụ Trần Thị Hòa. Cụ Hòa và cụ Cận có 3 con chung gồm
các ông, bà: Lại Hữu Hiền, Lại Hữu Hiển và Lại Hữu Lệ.
Cụ Nhớn chết năm 1946, cụ Cận chết năm 1983, cụ Hòa chết năm 1984. Cả ba
cụ chết đều không để lại di chúc. Cụ Cận và cụ Nhớn có tài sản chung là ngôi
nhà tranh và quyền sử dụng 378,5 m2 đất ở từ trước khi cụ Cận kết hôn với cụ
Hòa. Năm 1964, cụ Cận và cụ Hòa phá nhà tranh làm lại thành bốn gian nhà
ngói và ba gian công trình phụ. Sau khi cụ Cận mất, cụ Hòa được ông Lại Hữu
Hiền đón về nuôi nên ngôi nhà của cụ Cận và cụ Hòa bỏ không, ông Lại Hữu

Minh yêu cầu anh Lại Hữu Vận đến ở để trông coi nhà đất.
Năm 1986, anh Vận dỡ nhà cũ của các cụ và làm lại nhà mới. Khung nhà cũ, vật
liệu cũ nhà cũ của cụ Cận và cụ Hòa được giao cho ông Lệ sử dụng. Tại đơn
kiện ngày 25-02-1995 các nguyên đơn yêu cầu anh Lại Hữu Vận phải trả lại cho
các ông bà di sản thừa kế của của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hòa mà anh Vận đang
quản lý bao gồm nhà và đất ở có diện tích 378,5 m2 đất.

18


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Các nguyên đơn không công nhận sự việc anh Vận vì trông coi nhà đất là di sản
của các cụ mà anh Vận phải trả cho hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Phương Mao 240
m2 đất. Theo lời khai của anh Vận: khi còn sống, cụ
Cận hai lần tuyên bố trong buổi họp gia đình là cho ông Lại Hữu Quang (bố
anh) nhà và đất hiện các nguyên đơn đang tranh chấp để ông Quang thờ cúng tổ
tiên. Ông Lại Hữu Minh và Lại Hữu Lệ đã được các cụ cho đất; ông Lại Hữu
Hiền đã được chính quyền địa phương cấp đất. Khi chưa về ở nhà của các cụ,
anh Vận được hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Phương Mao cấp 240 m2 đất ở ven
đường. Do phải trông nom nhà đất của các cụ nên ngày 15-10-1983 anh trả lại
đất cho hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Phương Mao và anh xin được sử dụng nhà
đất của các cụ, được chính quyền địa phương xã Phương Mao xác nhận ngày 1611-1983. Trong quá trình sử dụng, vợ chồng anh Vận đã nâng nền, cải tạo đất.
Anh Vận không đồng ý trả lại nhà và đất theo yêu cầu của nguyên đơn. Ông Lại
Hữu Lệ không yêu cầu được hưởng di sản thừa kế. Bà Trần Thị Mỹ cùng các kế
thừa của ông Lại Hữu Quang gồm: chị Lại Thị Oanh, chị Lại Thị Yến, anh Lại
Hữu Thắng, chị Lại Thị Hợi công nhận lời khai của anh Vận là đúng và nhường
kỷ phần thừa kế được hưởng của ông Quang cho anh Vận. Các kế thừa của bà
Bùi Thị Chung gồm: chị Bùi Thị Giang, Chị Bùi Thị Hải, chị Bùi Thị Lan

nhường phần thừa kế của bà chung mà các chị được hưởng cho anh Lại Hữu
Vận.


Phương hướng giải quyết:

Tại bản dân sự sơ thẩm số 05 ngày 19-6-1996, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ,
tỉnh Hà Bắc (cũ) đã quyết định:
+ Hủy việc chứng nhận giao đất ở của cụ Cận cho anh Vận của Ủy ban nhân dân
xã Phương Mao.

19


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

+ Giao cho anh Vận được sở hữu phần tài sản thừa kế của ông Lại Hữu Quang
trị giá 82.320.000 đồng, một ngôi nhà 3 gian anh đã xây dựng và sử dụng đất ở
có diện tích là 188 m2 trị giá 206.800.000 đồng, nhưng được trừ đi 4.980.000
đồng tiền anh đổ đất, 13.000.000 đồng tiền công trình phụ đổ trần và 82.320.000
đồng tiền chia thừa kế phải trả cho ông Minh, bà Tuyên, ông Hiền, ông Hiển
106.000.000 đồng tiền chia thừa kế của cụ Cận. Anh Vận phải tháo dỡ toàn bộ
công trình đã xây dựng trên phần đất còn lại của cụ Cận trừ công trình phụ đã đổ
trần đã tính tiền để giao cho ông Hiển và ông Minh.
+ Ông Minh và ông Hiển được sở hữu phần đất có diện tích 190,5 m2 trị giá
319.590.000 đồng và nhận ở anh Vận 106.500.000 đồng tiền chênh lệch tài sản
thừa kế và 13.000.000 đồng giá trị công trình phụ anh Vận xây để lại trên đất,
phải trả cho bà Tuyên 82.320.000 đồng, ông Hiền 82.320.000 đồng tiền chia tài
sản thừa kế.

Ngày 1-7-1996 ông Lại Hữu Vận có đơn kháng cáo không đồng ý chia di sản
thừa kế như vậy. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 116/DSPT ngày 7-10-1996,
Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) đã quyết định:
+ Giao cho anh Lại Hữu Vận được sử dụng toàn bộ 378,5 m2 đất của cụ Cận và
cụ Nhớn để lại ở khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, sau khi
trả lại cho ông Lại Hữu Minh 14.000.000 đồng, trả lại cho bà Lại Thị Tuyên
24.078.000 đồng, trả lại cho ông Lại Hữu Hiền 15.078.000 đồng, trả lại cho ông
Lại Hữu Hiền 9.078.000 đồng.
+ Ông Lại Hữu Hiền phải trả lại cho ông Lại Hữu Hiển 3.000.000 đồng.

20


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Tình Huống 3:

Cụ Tính và cụ Hình kết hôn năm 1945. Năm 2007, cụ Hình chết. Cụ Tính và cụ
Hình sinh được 4 người con gồm: Ông Nguyễn Xuân Định; Ông Nguyễn Quốc
rấn (Chấn) Bị bệnh tâm thần từ nhỏ. Bà Nguyễn Thị Lan Phương. Bà Nguyễn
Thị Thanh Mai. Ngoài ra cụ Tính và cụ Hình không có con riêng hay con nuôi nào
khác. Các đương sự đều xác nhận cụ Tính và cụ Hình có khối tài sản chung gồm:
một nhà ba tầng một tum xây năm 2006 nằm trên thửa đất diện tích đất 70m2
tọa lạc tại C27, tổ 58, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Tổng cộng giá trị nhà đất là 6.223.338.000 đồng..
Khi cụ Hình chết được 100 ngày thì ông Định công bố bản di chúc trước sự
chứng kiến của mọi người. Nội dung di chúc là giao quyền thừa kế cho cụ Tính
và ông Định nhà đất và các tài sản khác để làm nơi thờ cúng. Khi đó các đồng
nguyên đơn cho rằng di chúc cụ Hình đã lập có vấn đề về nội dung và hình thức

nên các nguyên đơn đã đề nghị Tòa án hủy di chúc và chia di sản thừa kế theo
pháp luật, và yêu cầu được hưởng di sản theo pháp luật, tức là di sản của cụ
Hình sẽ được chia đều cho những người trong hàng thừa kế thứ nhất của cụ
Hình gồm cụ Tính, bà Phương, bà Mai, ông Trấn (Chấn), ông Định. Các đồng
nguyên đơn thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hình. Theo đó, các đồng
nguyên đơn yêu cầu được hưởng thừa kế bằng tiền, đề nghị Tòa án chia riêng
kỷ phần thừa kế đối với từng nguyên đơn rồi mới cộng chung phần thừa kế của
các nguyên đơn.


Phương hướng giải quyết:

21


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Đối với yêu cầu xin hủy di chúc và đề nghị chia di sản theo pháp luật do cụ
Nguyễn Văn Hình lập ngày 24/6/2007 của các nguyên đơn. Xét thấy:
Về hình thức của di chúc thì di chúc của cụ Nguyễn Văn Hình lập ngày
24/6/2005:
Được lập bằng văn bản với nội dung đầy đủ rõ ràng; Di chúc có hai người làm
chứng là ông Phạm Văn Sinh và bà Nguyễn Thu Hường, cán bộ tư pháp UBND
phường Dịch Vọng Hậu là ông Nguyễn Kim Cương cùng xác nhận cụ Hình trực
tiếp nghe đọc lại toàn bộ bản di chúc và ký tên vào bản di chúc trong tình trạng
hoàn toàn minh mẫn, tỉnh táo và ký trước mặt mọi người; Nội dung bản di chúc
là ý nguyện của cụ Nguyễn Văn Hình; Đến nay các đương sự đều thừa nhận chữ
ký trong bản di chúc đúng là chữ ký của cụ Hình. Việc ông Lê Quang Lợi – Phó
Chủ tịch UBND phường Dịch Vọng chứng thực bản di chúc của cụ Nguyễn Văn

Hình có vi phạm quy định về thủ tục chứng thực nhưng điều đó không làm ảnh
hưởng đến tính xác thực, tính hợp pháp về mặt hình thức của di chúc theo quy
định pháp luật.
Như vậy, theo quy định tại các Điều 649, 650, 652, 653, 654, 656, 657 BLDS thì
di chúc của cụ Hình lập ngày 24/6/2007 phù hợp với các quy định của pháp luật
về mặt hình thức. Tòa giữ nguyên phần định đoạt tài sản cho ông Định và cụ
Tính trong di chúc của cụ Hình.
Về nội dung di chúc của cụ Nguyễn Văn Hình lập ngày 24/6/2007, xét thấy nhà
đất tại C27 tổ 57 phường Dịch Vọng Hậu là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng cụ
Tính và cụ Hình mỗi người được quyền sở hữu một nửa giá trị nhà đất nêu trên.
Tuy nhiên, tại di chúc lập ngày 24/6/2007, cụ hình đã tự ý định đoạt toàn bộ giá

22


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

trị nhà đất tại C27 tổ 58 phường Dịch Vọng Hậu là vượt quá phần quyền đối với
tài sản của mình và tước đi quyền sở hữu đối với tài sản của cụ Tính.
Do đó Tòa án chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các bị đơn. Hủy một
phần bản di chúc lập ngày 24/6/2007 của cụ Hình về phần định đoạt đối với
quyền sở hữu của cụ Tính tại diện tích nhà đất ở C27 tổ 58 phường Dịch Vọng
Hậu. Xác định phần di sản của cụ Hình là ½ diện tích nhà đất ở C27 tổ 58
phường Dịch Vọng Hậu. Các phần còn lại của bản di chúc có hiệu lực thi hành.
Xét thấy, cụ Nguyễn Văn Hình và cụ Cao Thị Tính có một người con trai là ông
Nguyễn Quốc Trấn (Chấn) bị tâm thần phân liệt, được Tòa án tuyên bố mất khả
năng lao động, từ nhỏ phải sống phụ thuộc vào bố mẹ. Theo quy định tại Điều
669 BLDS thì ông Trấn (Chấn) là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung

của di chúc nên ông Trấn (Chấn) được hưởng thừa kế bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của cụ Hình là 259.305.000
đồng nhưng do ông Trấn (Chấn) bị bệnh tâm thần nên phần tài sản nói trên do
cụ Tính quản lý.
Tóm lại, những người được hưởng di sản thừa kế của cụ Hình là cụ Tính, ông
Định và ông Trấn (Chấn). Đồng nguyên đơn không được hưởng di sản thừa kế
theo di chúc cũng như theo Điều 669 BLDS vì họ đều là những người thành niên
và có khả năng lao động.

23


Khoa Lý Luận-Chính TRị
Bộ môn:Pháp Luật Đại Cương

Kết luận:
Chúng ta đã cùng tìm hiểu về các chế định thừa kế, cho các ví dụ về tranh chấp
quyền thừa kế và các quy định của pháp luật của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, sau bài tingểu luận này chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn về những
quy định cũng như cách ứng xử trong việc tranh chấp tài sàn.

24



×