VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH THỊ THỤC OANH
TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CÓ
KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH THỊ THỤC OANH
TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CÓ
KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN CƢƠNG
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Học viện khoa học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Huỳnh Thị Thục Oanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC,
CÁ NHÂN KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT....................... 6
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ......................................... 6
1.2. Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD.................................... 8
1.3. Các bộ phận cấu thành trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa
có khuyết tật ......................................................................................................................... 13
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM BTTH
DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG ................. 26
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD ... 26
2.2. Chủ thể của trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD......................... 34
2.3. Xác định thiệt hại của NTD về tài sản, tính mạng, sức khỏe ........................................ 36
2.4. Nguyên tắc bồi thường.................................................................................................. 40
2.5. Miễn trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD ......................... 41
2.6. Thực tiễn giải quyết BTTH về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra
cho NTD .............................................................................................................................. 43
2.7. Đánh giá pháp luật hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra
cho NTD .............................................................................................................................. 46
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH HÀNG HÓA
CÓ KHUYẾT TẬT GÂY THIỆT HẠI CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM ...... 54
3.1. Tiếp tục nghiên cứu lý luận về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra
cho NTD .............................................................................................................................. 54
3.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật
gây ra cho NTD.................................................................................................................... 57
3.3. Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật
gây ra cho NTD.................................................................................................................... 65
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 71
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
: BVQLNTD
Bộ Luật Dân Sự
: BLDS
Bồi thường thiệt hại
: BTTH
Chất lượng sản phẩm hàng hóa
: CLSPHH
Người tiêu dùng
: NTD
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi
để lưu thông, trao đổi hàng hóa, pháp luật Việt Nam cũng cần có cơ chế ngăn chặn
các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng (BVQLNTD), bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia.
Vì yêu cầu đó những năm gần đây, nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật chuyên
ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH), phù hợp với cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh
tế khu vực và thế giới. Thực tiễn ở Việt Nam, đã có rất nhiều hàng hóa (máy móc,
thiết bị đồ gia dụng, thực phẩm, dược phẩm…) được sản xuất (kể cả từ nước ngoài
cung cấp tại Việt Nam) không đảm bảo chất lượng, gây nguy hại hoặc gây thiệt hại
cho người tiêu dùng (NTD) không chỉ về tài sản mà còn về tính mạng, sức khỏe.
Đây là vấn đề bức xúc trong xã hội. Trước thực tế này, nhà nước đã ban hành Luật
Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và Luật CLSPHH năm 2007. Đây là
các đạo luật chuyên ngành về CLSPHH. Luật CLSPHH có những quy định đặc thù
về trách nhiệm dân sự một số điểm đáng chú ý sau:
- Xác định rõ trách nhiệm bồi thường của các chủ thể sản xuất, kinh doanh vi
phạm các quy định của pháp luật về CLSPHH mà gây ra thiệt hại cho người khác là
cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu BTTH cho mình.
- Xác định quyền được BTTH không những của NTD mà còn của người mua
đối với các thiệt hại do vi phạm các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm,
hàng hoá gây ra.
- Quy định cụ thể các loại thiệt hại mà tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định
của pháp luật về CLSPHH gây ra phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trên cơ sở
các quy định về BTTH của BLDS, Luật CLSPHH đã quy định cụ thể các loại thiệt
hại được xác định để bồi thường: thiệt hại về giá trị hàng hoá, tài sản bị hư hỏng
hoặc bị huỷ hoại; thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người; thiệt hại về lợi ích gắn
1
liền với việc sử dụng, khai thác tài sản và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và
khắc phục thiệt hại.
- Quy định các trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường trên cơ sở nguyên
tắc của pháp luật dân sự là một người chỉ phải bồi thường nếu có thực hiện hành vi có
lỗi gây ra thiệt hại của người khác. Đây là những trường hợp được miễn trách nhiệm
bồi thường mà chưa được quy định trong luật dân sự và luật thương mại.
Bên cạnh Luật CLSPHH, để bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được
đưa ra thị trường, Nhà nước còn ban hành nhiều quy định có liên quan trong BLDS
(2015), Bộ luật hình sự (1999, 2015), Luật Cạnh tranh (2004), Luật Dược (2005,
2015), Luật An toàn thực phẩm (2010), Luật BVQLNTD (2011).
Mặc dù vậy, việc thực thi các quy định pháp luật có liên quan còn khá hạn chế.
Nhiều cơ quan, chính quyền địa phương chưa tích cực tham gia bảo vệ NTD như
yêu cầu luật định. Khả năng tiếp cận các điểm khiếu nại của của NTD (đặc biệt là
NTD ở nông thôn, miền núi, vùng biên giới, hải đảo) còn rất hạn chế, NTD đa phần
còn chưa ý thức rõ được quyền năng và quy trình thực hiện quyền năng của mình.
Đây là điều cần được phân tích, luận giải thấu đáo hơn.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật kinh tế: “Trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hàng hóa có khuyết tật theo pháp
luật Việt Nam” là cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, nghiên cứu về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật
gây ra cho NTD vẫn đang còn đang bỏ ngỏ để các nhà nghiên cứu khai phá. Đã có
một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham luận được công bố trên các sách
chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc diễn đàn khoa học đề cập đến
trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD như: luận văn cử
nhân luật học “Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật cộng đồng Châu Âu và pháp
luật Việt Nam” của Nguyễn Thị Tường Vi; luận văn tiến sỹ luật học “Trách nhiệm
của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa” của TS. Chu Đức Nhuận
“Trách nhiệm sản phẩm và việc bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam”
2
của GS.TS. Lê Hồng Hạnh; “Luật bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam”
của PGS.TS. Nguyễn Như Phát”; “Vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt
Nam” của TS. Nguyễn Văn Cương; “Trách nhiệm nghiêm ngặt và miễn, giảm trách
nhiệm trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm” của Ths. Phạm Thị Phương
Anh;…Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, vẫn còn nhiều vấn đề về trách nhiệm
BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người NTD chưa được nghiên cứu làm
rõ mà luận văn này có thể góp thêm tiếng nói vào các hoạt động nghiên cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về trách
nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD; nội dung các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây
ra cho NTD và việc thực tiễn giải quyết việc BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây
ra cho NTD. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập trong
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa
có khuyết tật gây ra cho NTD, từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để
góp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức đối với CLSPHH,
BVQLNTD, thúc đẩy nền kinh tế sản xuất hàng hóa phát triển lành mạnh, ổn định
và bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, luận văn có các
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho NTD như khái niệm BTTH ngoài hợp đồng; khái niệm NTD;
khái niệm hàng hóa khuyết tật; khái niệm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết
tật gây ra cho NTD; kinh nghiệm về trách nhiệm BTTH cho NTD của một số nước
trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về trách nhiệm
BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD.
3
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho NTD.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách nhiệm
BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và việc áp dụng các quy định này
trong thực tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm BTTH của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có khuyết tật
gây ra thiệt hại cho NTD là một đề tài rộng, được nhiều ngành luật điều chỉnh như
hình sự, hành chính, dân sự. Vì vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ không
thể giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các nội dung của trách nhiệm BTTH do
hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD. Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu và giải
quyết một số vấn đề chính liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và
trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD theo pháp luật Việt
Nam, trên cơ sở đó đối chiếu với thực tiễn áp dụng các quy định đó trong thực tế,
đặc biệt là trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Từ đó, luận văn sẽ đưa ra
những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm BTTH
do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, cũng như nâng cao nhận thức của NTD trong
việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
5. Phương pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp
phân tích (được sử dụng để phân tích, làm rõ nội dung các quy định hiện hành, phân
4
tích các dữ liệu phản ánh thực trạng thực thi quy định pháp luật hiện hành về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng
v.v.), phương pháp tổng hợp (trên cơ sở các kết quả phân tích, luận văn tổng hợp
các dữ liệu để đưa ra các nhận định mang tính khái quát về thực trạng pháp luật và
thực tiễn thực thi). Ngoài ra, trong luận văn học viên còn sử dụng phương pháp luật
học so sánh và phương pháp thống kê khi cần thiết.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua việc tiến hành phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt
Nam về trách nhiệm BTTH của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có khuyết tật
gây ra cho NTD, Luận văn chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành và đưa ra một số các giải pháp cần thiết để góp phần
hoàn thiện chính sách, quy định về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật
gây thiệt hại cho NTD.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên việc phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về
trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD để có thể nâng cao
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa đối với NTD nhưng vẫn
đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu gồm 03 chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh
doanh đối với hàng hóa có khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho
người tiêu dùng ở Việt Nam.
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH ĐỐI VỚI HÀNG
HÓA CÓ KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Ngay từ thời La Mã cổ đại khái niệm về “thiệt hại” đã được các luật gia La Mã
đề cập tới và cho rằng khái niệm này được cấu thành bởi hai thành phần. Thành
phần thứ nhất là Damnumemrgens - sự thiệt hại, sự mất mát của một bộ phận tài sản
cụ thể. Thành phần thứ hai là Lucrum cessans - bỏ mất lợi tức, sự mất mát tài sản có
thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường [49]. Ngày nay, những tư tưởng pháp lý
này của các luật gia La Mã đã được các nhà lập pháp kế thừa. Ví dụ, Điều 1149 của
BLDS Cộng hoà Pháp quy định “những thiệt hại phải bồi thường cho người có
quyền gồm những khoản mà họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng” [26].
Hơn nữa, các nhà lập pháp ngày nay còn phát triển, và xác định thêm thiệt hại còn
bao gồm cả thiệt hại phi vật chất (thiệt hại về tinh thần). BLDS Nhật Bản quy định
tại Điều 707 thì một người chịu trách nhiệm BTTH cả những thiệt hại phi vật chất bất
kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hay tài sản của người khác [15].
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu thông thường thì “thiệt hại là những mất
mát, hư hỏng nặng nề về người và của” [58, tr. 1570]. Quan điểm pháp lý của nhiều
quốc gia trong đó có Việt Nam thì: “thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [48,tr. 118].
Theo quy định của BLDS năm 1995, thiệt hại được xác định gồm thiệt hại về vật
chất và thiệt hại về tinh thần thông qua quy định về trách nhiệm BTTH như sau: 1.
Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm BTTH
về tinh thần; 2. Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật
chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất
về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút;
6
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi
vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người
bị thiệt hại [33, Điều 310]. BLDS năm 2005 tiếp tục được kế thừa tại quy định này
tại Điều 307 [34]. BLDS 2015 lại quy định ngắn gọn hơn về trách nhiệm BTTH do
vi phạm nghĩa vụ tại Điều 360 [38] và phân tích rõ hơn về thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ tại Điều 361[38] như sau: 1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt
hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần; 2. Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất
thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; 3. Thiệt hại về
tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể. Như vậy ta có thể
định nghĩa thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (TNBTTH) là một loại trách nhiệm dân sự bao gồm TNBTTH
về vật chất và TNBTTH về tinh thần, phát sinh khi người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô
ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bị
thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
Theo BLDS năm 1995, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được quy định như
sau: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại,
thì phải bồi thường” [33, Điều 609]. Như vậy, người gây thiệt hại cho người khác
về tài sản, về sức khỏe, tính mạng và các quyền nhân thân khác thì phải bồi thường
theo nguyên tắc của trách nhiệm dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 605 BLDS
1995. BLDS năm 2005 thay thế BLDS năm 1995 quy định căn cứ phát sinh trách
7
nhiệm BTTH tại Điều 604 và nguyên tắc bồi thường tại Điều 605 với nội dung
tương tự như những quy định trong BLDS năm 1995. Ngoài ra, BTTH ngoài hợp
đồng còn được đặt ra trong trường hợp không cần điều kiện lỗi. Đó là trách nhiệm
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; trách nhiệm của chủ sở hữu súc vật phải BTTH
do tài sản của mình gây ra; trách nhiệm BTTH của người gây ô nhiễm môi trường.
BLDS hiện hành được ban hành năm 2015 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm
BTTH tại điều 584 và nguyên tắc BTTH tại điều 585, nhìn chung nội dung của các
quy định này tại BLDS 2015 cũng không khác so với quy định tương ứng trong
BLDS 2005.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một trong những trách nhiệm dân sự,
được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người
khác nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù
đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Chế
định "Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng’’ được hệ thống ở chương XX BLDS
2015, với các qui định từ Điều 584 đến Điều 608 làm cơ sở pháp lý quan trọng
trong việc giải quyết BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2. Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD
1.2.1. Khái niệm NTD
“Tiêu dùng là dùng của cải, vật chất để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất”
[58, tr. 1640]. Đây là một trong những hoạt động cơ bản và tự nhiên của con người.
Khái niệm NTD ra đời và tồn tại gắn với nền kinh tế thị trường, do đó, là một khái
niệm khá mới mẻ ở Việt Nam. NTD là người mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ để
phục vụ cho nhu cầu của bản thân hoặc gia đình mình, là NTD cuối cùng (“end
consumer”). Sản phẩm hàng hóa qua sử dụng của NTD sẽ dần mất đi tính năng, công
dụng, số lượng, nói chung là không được tái tạo lại. NTD (“consumer” theo tiếng
Anh và “consommateur” theo tiếng Pháp) là “người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ
cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” [40, Điều 3].
8
Như vậy, nhìn chung, để xác định một chủ thể có phải là NTD hay không,
pháp luật các nước thường dựa vào các điều kiện sau:
Thứ nhất, đối tượng của giao dịch là những hàng hóa, dịch vụ được phép lưu
thông và đáp ứng được các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân con
người. Những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu hằng ngày của con người như đồ ăn, thức
uống, thuốc chữa bệnh, đồ chơi, đồ dùng học tập được coi là đối tượng đương nhiên
của giao dịch với NTD. Khi đó, các quy định của pháp luật BVQLNTD liên quan
đến vệ sinh, an toàn đối với con người được áp dụng, kể cả đối với trường hợp hàng
hóa chưa được bán cho NTD, cần phải kết hợp với mục đích của việc mua hàng hóa
đó dùng vào việc gì.
Thứ hai, NTD là cá nhân. Xác định NTD là cá nhân xuất phát từ chính mục
đích cho sự ra đời của lĩnh vực pháp luật BVQLNTD là hỗ trợ những NTD yếu thế
trong quan hệ với nhà cung cấp hàng hóa. Nhìn chung, khi tìm hiểu về sản phẩm,
khả năng tiếp cận và tiếp nhận thông tin, tham vấn của cá nhân đơn lẻ là hạn chế
hơn rất nhiều đối với một tổ chức. Hơn nữa, việc “tiêu dùng” hay “sinh hoạt” của
một tổ chức cũng là một điều khó xác định; đồng thời sẽ khó coi việc “tiêu dùng”
hay “sinh hoạt” của tổ chức là không vì hoạt động chức năng hoặc nghề nghiệp của
tổ chức đó. Chính vì vậy, nhìn chung, đa số pháp luật BVQLNTD các nước và vùng
lãnh thổ không coi tổ chức là NTD.
Thứ ba, việc mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cho cá
nhân, hộ gia đình. Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt ở đây có nghĩa là NTD mua hàng
hóa, dịch vụ để sử dụng cho các nhu cầu của cá nhân và gia đình mình. Mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt không phải là phục vụ cho việc bán lại, hoạt động sản xuất kinh
doanh khác hoặc các hoạt động nghề nghiệp. Việc mua sản phẩm phục vụ tiêu dùng
nhằm bán lại (ví dụ: mua bánh mỳ từ nhà sản xuất để về bán lẻ), hoặc chế biến thành
sản phẩm khác để bán (ví dụ: mua bánh mỳ từ nhà sản xuất, thêm các gia vị, thức ăn
khác tạo thành các món ăn mới rồi đem bán) không được coi là hành vi tiêu dùng và
chủ thể thực hiện chúng không phải là NTD. Cũng cần lưu ý là NTD có thể không có
quan hệ trực tiếp với nhà cung cấp. Họ có thể được người mua tặng, cho, cấp phát.
9
1.2.2. Khái niệm về hàng hóa có khuyết tật
Định nghĩa của Luật BVQLNTD về hàng hóa có khuyết tật như sau: “Hàng
hóa có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho NTD, có khả năng gây
thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTD, kể cả trường hợp hàng hóa đó
được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa
phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho NTD, bao gồm:
a) Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; b) Hàng
hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu
giữ; c) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng
không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho NTD [40, Điều 3].” Như vậy, quan
điểm của pháp luật Việt Nam về hàng hóa có khuyết tật đã thể hiện nội dung cơ bản
là hàng hóa không đảm bảo an toàn cho NTD vì những khuyết tật của hàng hóa phát
sinh do thiết kế, sản xuất hay việc hướng dẫn, cảnh báo, sử dụng.
Theo Chỉ thị số 85/374/EEC ngày 25 tháng 7 năm 1985 của Cộng đồng Châu
Âu về sự tương quan hóa các bộ luật, quy định và các điều khoản hành chính của các
quốc gia thành viên liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với các sản phẩm khuyết
tật (sau đây gọi tắt là Chỉ thị 85 về trách nhiệm sản phẩm) thì một sản phẩm được coi
là khiếm khuyết khi nó không an toàn mà người có liên quan mong đợi [7]. Theo
Luật trách nhiệm đối với sản phẩm Nhật Bản, sản phẩm khuyết tật xuất phát từ sự
thiếu an toàn mà sản phẩm ban đầu mang lại, phải kể đến bản chất của sản phẩm,
cách thức sử dụng sản phẩm có thể nhìn thấy trước được từ ban đầu, thời gian khi nhà
sản xuất phân phối sản phẩm và các hoàn cảnh khác liên quan đến sản phẩm.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về hàng hóa
khuyết tật, tuy nhiên một điểm tương đồng trong các định nghĩa về sản phẩm có
khuyết tật đó là sản phẩm có thể gây ra nguy hiểm trong điều kiện sử dụng bình
thường, không bảo đảm an toàn mà NTD mong đợi một cách chính đáng. Chất lượng
hàng hóa được hình thành trong tất cả mọi hoạt động, mọi quá trình tạo ra sản phẩm
với vòng đời gồm các giai đoạn sau: thiết kế, chế tạo và đưa vào lưu thông [11].
10
Do vậy, khuyết tật của sản phẩm có thể có 03 loại: khuyết tật do thiết kế,
khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do không cảnh báo hoặc cảnh báo không đầy đủ
những nguy hiểm có thể xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm. Khuyết tật do
thiết kế, do sản xuất là những khuyết tật phát sinh do việc thiết kế hoặc hoạt động
sản xuất mà tạo ra những “thiếu sót vốn có trên sản phẩm”, làm cho sản phẩm có
“đặc tính” nguy hiểm cho người sử dụng. Sự khác nhau cơ bản giữa khuyết tật do
sản xuất và khuyết tật do thiết kế là khuyết tật trong giai đoạn sản xuất sản phẩm
xuất hiện khi thành phẩm không tuân theo dự kiến hoặc quy cách chất lượng mà nhà
sản xuất đề ra. Tuy nhiên, khuyết tật của sản phẩm phải chứa đựng sự thiếu an toàn
một cách bất hợp lý (unreasonably) khi sử dụng và gây nguy hiểm quá mức với
NTD. Nên không được coi là sản phẩm khuyết tật khi thuốc gây tác dụng phụ, màn
hình máy tính gây nhức mắt cho người xem, điện thoại di động nghe lâu sẽ làm đau
đầu…vì đó là những khuyết tật “hợp lý” trong điều kiện khoa học công nghệ hiện
tại. Do vậy, một sản phẩm chứa đựng sự nguy hiểm này là bản chất của sản phẩm,
luôn tồn tại hợp lý trong cấu tạo sản phẩm, trong quá trình sử dụng sản phẩm thì
không bị coi là sản phẩm khuyết tật.
Trong quá trình phát triển nền sản xuất hàng hóa, sản phẩm của thế hệ sau
được hoàn thiện trên nền tảng sản phẩm của thế hệ trước. Do vậy, một sản phẩm
không bị coi là khuyết tật khi có một sản phẩm khác hoàn thiện hơn được đưa vào
lưu thông. Một trong những yếu tố để đánh giá một sản phẩm có khuyết tật ngoài
khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do thiết kế là sự cảnh báo thích hợp về đặc tính
nguy hiểm tiềm ẩn trong sản phẩm mà nếu không được cảnh báo hoặc cảnh báo
không đầy đủ thì sản phẩm sẽ gây thiệt hại cho NTD. Sự cảnh báo thích hợp về sự
nguy hiểm tiềm ẩn trong sản phẩm phải thỏa mãn điều kiện: khi sử dụng sản phẩm
đó sẽ không phát sinh các rủi ro một cách vô lý cho người sử dụng. Hiện nay, có rất
nhiều hình thức cảnh báo và hướng dẫn sử dụng sản phẩm thể hiện được đặc tính
nguy cơ tiềm ẩn của sản phẩm để việc sử dụng sản phẩm không phát sinh rủi ro vô
lý cho NTD. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta bắt gặp rất nhiều những cảnh
báo và hướng dẫn ghi trên nhãn mác sản phẩm như: “Không sử dụng đối với phụ nữ
11
đang mang thai và cho con bú”, “Để xa tầm tay trẻ em”, “Không được uống”, “Hút
thuốc là có thể gây ung thư phổi”, “Không được để hóa chất tiếp xúc với da”…Do
đó, nếu một sản phẩm có ẩn chứa những nguy cơ gây nguy hiểm mà được cảnh báo
một cách thích hợp cho người sử dụng theo cách thức thông thường thì nhà sản xuất
không phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại do nguồn nguy hiểm đó gây ra cho
NTD [30]. Ví dụ, theo tính toán của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm Việt
Nam có khoảng 40.000 người tử vong vì các bệnh liên quan đến sử dụng thuốc lá
[6] nhưng không có tổ chức, cá nhân kinh doanh nào bị khởi kiện về các thiệt hại to
lớn này vì các nhà sản xuất thuốc lá đã thực hiện những hình thức cảnh báo thích
hợp trên vỏ bao thuốc lá.
1.2.3. Khái niệm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra
cho NTD
Theo quy định của Hiến pháp, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh làm thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân
đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi
của người sản xuất và NTD [35, Điều 28]. Việc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa đã cung cấp hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD cũng là hành vi vi
phạm quyền tài sản, quyền nhân thân của cá nhân - các quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ [35, Điều 58, Điều 7].
Trách nhiệm, theo cách hiểu thông thường, là phần việc được giao cho hoặc
coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh
chịu phần hậu quả [55, tr. 985]. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trách nhiệm pháp
lý hiện nay còn nhiều tranh luận khác nhau. Có ý kiến cho rằng, trách nhiệm pháp lý
gồm hai loại: trách nhiệm theo nghĩa tích cực và trách nhiệm theo nghĩa tiêu cực
[23, tr. 9]. Trách nhiệm pháp lý theo nghĩa tích cực là sự tự giác, chủ động của chủ
thể trong việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý phù hợp với yêu cầu của pháp luật, việc
chủ thể không thực hiện đúng nghĩa vụ pháp lý, vi phạm pháp luật thì phải gánh
chịu trừng phạt của Nhà nước. Theo nghĩa tiêu cực “trách nhiệm pháp lý là sự bắt
buộc phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do có hành vi vi phạm pháp luật”
12
[21,tr. 445]. Trách nhiệm pháp lý này luôn gắn liền với việc cưỡng chế của Nhà
nước. Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm pháp lý là những ràng buộc mà chủ thể
pháp luật phải tuân thủ và gắn liền với việc áp dụng các chế tài do pháp luật quy
định khi chủ thể đó có hành vi vi phạm pháp luật. Trong khoa học pháp lý, thuật
ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa khác nhau: (i) là những việc mà chủ thể
nhất định phải thực hiện (theo nghĩa này, trách nhiệm đồng nghĩa với nghĩa vụ); (ii)
là những hậu quả mà chủ thể đã thực hiện những hành vi nhất định phải gánh chịu
[2]. Theo pháp luật hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây
ra cho NTD được đề cập dưới góc độ pháp lý tích cực (trách nhiệm mà mỗi cá nhân,
tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa phải bảo đảm cho NTD và xã hội) và trách
nhiệm pháp lý tiêu cực (hậu quả bất lợi mà mỗi cá nhân, tổ chức phải gánh chịu khi
vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa). Trong luận văn này, trách
nhiệm được sử dụng theo nghĩa thứ hai. Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, trách
nhiệm này được xem là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Pháp luật Việt Nam
quy định: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm
chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho NTD thì phải bồi thường” [34, Điều 630].
Như vậy, trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD là
những hậu quả bất lợi về mặt vật chất mà tổ chức, cá nhân phải gánh chịu do cung
cấp hàng hóa có khuyết tật gây ra thiệt hại cho NTD, không phụ thuộc vào tổ chức,
cá nhân đó có lỗi hay không trong việc tạo ra hàng hóa có khuyết tật.
1.3. Các bộ phận cấu thành trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh
đối với hàng hóa có khuyết tật
1.3.1.Căn cứ xác định trách nhiệm
Cũng giống như các trường hợp khác của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng,
trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD sẽ phát sinh khi thỏa mãn bốn
điều kiện:
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Có hành vi trái pháp luật;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại đã xảy ra;
13
- Có lỗi của người gây ra thiệt hại.
Tuy nhiên, khi phân tích từng điều kiện ta sẽ thấy được nét khác biệt của trách
nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD so với các trường hợp khác của trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra trên thực tế: Có thể nói đây là điều kiện tiền đề
của trách nhiệm bồi thường bởi có “thiệt hại” thì mới cần “bồi thường”. Thiệt hại là
điều kiện xác định trách nhiệm dân sự và cũng là điều kiện cần thiết để ấn định mức
bồi thường cho bên gây ra thiệt hại. Mục đích của việc bồi thường là nhằm khôi
phục lại tình trạng trước khi xảy ra thiệt hại nên trách nhiệm gắn với việc bồi
thường những thiệt hại đã xảy ra. Vì vậy, thiệt hại là một điều kiện làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường.
Vậy “thiệt hại” là gì và ảnh hưởng của thiệt hại đến trách nhiệm như thế nào?
Thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân
hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ”. [55] Từ định nghĩa trên và căn cứ vào
cách phân chia của BLDS 2015 thì thiệt hại được bồi thường bao gồm:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm;
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm;
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm;
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Ta cũng có thể phân chia theo cách thiệt hại bao gồm: thiệt hại về vật chất và
thiệt hại do tổn thất về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản
bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Thiệt hại do tổn thất về
tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích
gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm,
bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm…và cần phải được
bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về
14
tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là
tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc
mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu. Ngoài ra, nếu căn cứ vào diện được
bồi thường thì ta có thể phân ra thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
Mặc dù ta có thể phân chia thiệt hại theo cách này hay cách khác nhưng để
được bồi thường thì thiệt hại đó phải là thiệt hại thực tế (đã xảy ra hoặc chắc chắn
sẽ xảy ra) phải là cái khách quan và có thật. Người có hành vi trái pháp luật sẽ phải
chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi của họ gây ra. Vì vậy, nếu là
BTTH trong hợp đồng thì mức bồi thường có thể bằng hoặc cao hơn thiệt hại thực
tế vì trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận và quy định phạt vi phạm… nhưng
BTTH ngoài hợp đồng thì việc bồi thường phải tuân thủ theo những quy định của
pháp luật trên nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Nghĩa
là việc bồi thường phải ngang giá theo đúng quy luật hàng – tiền của nền sản xuất
hàng hóa, để đảm bảo rằng không ai được lợi không có căn cứ pháp luật từ việc bồi
thường. Mặt khác, ý nghĩa của việc bồi thường là nhằm khôi phục lại tình trạng
trước khi có thiệt hại, không nhằm mục đích trừng phạt, đảm bảo sự công bằng cho
các bên. Do vậy, BLDS cũng quy định người gây thiệt hại có thể được giảm mức
bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của mình.
Hầu hết các trường hợp BTTH ngoài hợp đồng thì trước thời điểm phát sinh
trách nhiệm bồi thường các bên không có mối quan hệ với nhau về quyền và nghĩa
vụ pháp lý. Tuy nhiên trong trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi NTD thì trách
nhiệm lại thường phát sinh từ một hợp đồng trước đó (có thể là hợp đồng mua bán
hàng hóa, sử dụng dịch vụ…). Bởi vậy việc bồi thường cho NTD thường có sự đan
xen giữa trách nhiệm trong và ngoài hợp đồng. Vì vậy cần xác định cụ thể thiệt hại
nào thuộc về trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi NTD. Thiệt hại do vi phạm
quyền lợi NTD thường là những thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm.
15
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được ghi nhận ở Điều 590, BLDS 2015:
Theo đó, “thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập
thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng
mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị
thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và
cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý
cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
- Thiệt hại khác do luật quy định.
Ngoài ra, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của
người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định trên và một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức
tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương
cơ sở do Nhà nước quy định.” Thiệt hại về tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm là
cái trừu tượng thuộc về bên trong con người, rất khó nắm bắt và xác định. Để xác
định thiệt hại về tinh thần sẽ không có một công thức chung vì tùy từng đối tượng,
tùy từng điều kiện, hoàn cảnh mà ta có thể xem xét có thiệt hại về tinh thần hay
không. Theo quy định của BLDS thì trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm,
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường
cho chính người bị thiệt hại. Mức bồi thường do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa
thuận được thì mức tối đa không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định. Như vậy ta có thể hiểu rằng khoản tiền bồi thường này là không đương
nhiên và nó phụ thuộc khá nhiều vào ý chí của các bên đương sự. Trước đây, trong
BLDS năm 2005 chỉ quy định mức bồi thường tối đa không quá ba mươi tháng
16
lương tối thiểu, tuy nhiên BLDS hiện hành đã nâng mức bồi thường lên thành năm
mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Vậy theo BLDS 2015 ta có thể hiểu khoản BTTH về tinh thần là đương nhiên,
nhưng các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường. Trong trường hợp các bên
không thỏa thuận được thì sẽ căn cứ vào quy định tương ứng tại BLDS. Việc quy
định mức trần trong BLDS sẽ tạo điều kiện thực thi bản án trên thực tế. Nhìn chung
những quy định trong BLDS là khá đầy đủ và hợp lý. Bên cạnh đó, Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/07/2006 hướng dẫn rất chi tiết về việc xác định, tính toán những khoản
thiệt hại kể trên nên ở đây tác giả chỉ xin bàn thêm một số vấn đề sau: Để đảm bảo
cho nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời thì những chi phí được nêu ở trên
phải là những “chi phí hợp lý”. Nghĩa là bên cạnh việc đảm bảo yếu tố cần thiết và
nhanh chóng (để giảm thiểu thiệt hại) thì những chi phí đó phải “là chi phí thực tế
cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở
từng địa phương tại thời điểm chi phí” (Nghị quyết 03).
Căn cứ vào hướng dẫn tại Điểm b, tiểu mục 1.1, mục 1, Phần 1, Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của
những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh
thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong
cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại…
Tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý, nó chứa đựng những thuộc tính mà
các loại “tài sản” khác không có. Vì vậy, một khi tính mạng, sức khỏe con người đã
bị xâm phạm thì việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu” là rất khó khăn nếu không
muốn nói là không thể. Tuy thuộc về mặt vật chất nhưng tính mạng và sức khỏe
không thể quy ra một “lượng” cụ thể để định giá bởi vậy việc bồi thường chỉ mang
tính chất khắc phục, nhằm bù đắp phần nào những tổn thất, mất mát mà người bị
thiệt hại và gia đình của họ phải gánh chịu. NTD là những người phải chịu những
hậu quả trực tiếp từ việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng. Những sản
phẩm này đã có tác động không nhỏ đến sức khỏe, tính mạng NTD. Tuy nhiên,
17
NTD muốn được bồi thường thì phải chứng minh có thiệt hại và có những khoản
chi phí để khắc phục. Điều cần thiết là phải căn cứ vào những hóa đơn, chứng từ
hợp lệ làm cơ sở cho việc yêu cầu BTTH.
Thứ hai, có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: “Hành vi trái pháp
luật là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm
những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, hoạt động
vượt quá phạm vi cho phép của pháp luật…” [51]. Theo đó cũng có thể hiểu hành
vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành
động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật.
Theo quy định chung của pháp luật thì mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền
được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, uy tín, nhân phẩm. Vì vậy,
người có hành vi xâm phạm đến những quyền tuyệt đối này đều bị coi là có hành vi
trái pháp luật cho dù họ có lỗi cố ý hay vô ý thậm chí trong những trường hợp cá
biệt không có lỗi. “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. [35, Điều 50]. “Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm…” [35, Điều 71]. “Cá nhân, pháp nhân không
được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm
nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật” [38, Điều 10]. “Cá
nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.” [38, Điều
13]. Khi pháp luật đã có những quy định chặt chẽ như trên mà chủ thể nào xâm
phạm thì sẽ bị coi là có hành vi trái pháp luật và phải gánh chịu những hậu quả bất
lợi. Bởi lẽ pháp luật ghi nhận và cho phép các chủ thể có quyền chọn lựa cách xử sự
phù hợp nhưng nếu đi trái lại nghĩa là trái pháp luật. Xét về khía cạnh bảo vệ NTD thì
hành vi trái pháp luật ở đây chính là hành vi vi phạm quyền lợi NTD. Đó chính là sự
vi phạm những quyền căn bản của NTD đã được pháp luật ghi nhận và được xã hội
tôn trọng. Tiếp cận một bước gần hơn thì sự vi phạm quyền lợi của NTD xuất phát
18
chính từ hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây thiệt
hại cho NTD. Vậy hàng hóa như thế nào là không đảm bảo chất lượng?
Nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng hàng hóa có ảnh hưởng đến cuộc
sống con người và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật để điều chỉnh trong lĩnh vực này như: Luật Đo lường số
04/2011/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2012; Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006… Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa có
hiệu lực vào đầu năm 2008 thay thế cho Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1999.
Theo Luật Chất lượng hàng hóa 2007 thì: “Người sản xuất thông báo sản phẩm của
mình phù hợp với tiêu chuẩn (sau đây gọi là công bố hợp chuẩn) hoặc với quy
chuẩn kỹ thuật (sau đây gọi là công bố hợp quy) [37. Khoản 1, Điều 24]. Tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật được Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật giải
thích như sau: Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng
làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi
trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới
dạng văn bản để tự nguyện áp dụng. Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới
hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá
trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân
thủ để đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi
trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của NTD và các yêu cầu thiết
yếu khác. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới
dạng văn bản để bắt buộc áp dụng [37. Điều 3].
Cũng theo Luật này, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải công bố tiêu chuẩn kỹ
thuật mà mình áp dụng và đảm bảo việc phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn
quốc tế tương ứng. Để cụ thể hóa những quy định của pháp luật thì các tổ chức, cơ
quan có thẩm quyền đã đưa ra các chỉ số để đánh giá chất lượng sản phẩm. Tổ chức
quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO, trong DIS 9000: 2000, đã đưa ra định nghĩa: “Chất
lượng hàng hóa là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống
19
hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.”
Hàng hóa không đảm bảo chất lượng là những hàng hóa được sản xuất, kinh doanh
không đúng theo tiêu chuẩn (có thể là tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn Việt Nam…)
đã được cơ sở sản xuất kinh doanh đó công bố. Cũng trên lập luận đó, hành vi sản
xuất, kinh doanh sản phẩm trên bị coi là trái luật. Khi có bất kỳ sự cố kỹ thuật nào
xảy ra trong thời hạn bảo hành thì nhà sản xuất kinh doanh phải có trách nhiệm sửa
chữa, bảo hành, thậm chí BTTH cho NTD. Tuy nhiên, trong trường hợp NTD
không thực hiện đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, kinh doanh mà gây ra thiệt
hại thì nhà sản xuất kinh doanh không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực
tế xảy ra: Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
thực tế xảy ra có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nếu giữa hành
vi và thiệt hại không có một mối liên hệ nào thì sự tồn tại khách quan và riêng lẻ đó
sẽ không là cơ sở để quy trách nhiệm cho một chủ thể cụ thể nào.
Trong trách nhiệm BTTH nói chung và BTTH do vi phạm quyền lợi NTD thì
việc xác định mối quan hệ nhân quả chính là việc chỉ ra thiệt hại xảy ra là kết quả
tất yếu của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên
nhân của thiệt hại xảy ra trên thực tế. Nó phải được gắn bó với nhau trong một quá
trình vận động. Mối quan hệ này luôn có tính khách quan, tính phổ biến và tính tất
yếu. Nghĩa là không phụ thuộc vào ý chí của con người, tồn tại trong mọi xã hội và
cùng một nguyên nhân nhất định thì trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết
quả như nhau. Ở đây hành vi sản xuất kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất
lượng, vi phạm quyền lợi của NTD phải là nguyên nhân và thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe… của NTD là hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, một hậu quả có thể do
nhiều nguyên nhân sinh ra và một nguyên nhân cũng có thể làm phát sinh nhiều hậu
quả. Bởi vậy, việc xác định mối tương quan giữa chúng là một việc vô cùng phức
tạp. Muốn xác định đúng thiệt hại nào là hậu quả của hành vi trái pháp luật nào thì
trước hết cần phải có những căn cứ đầy đủ và khách quan làm cơ sở để đánh giá.
Sau đó cần xem xét, phân tích nó trong tổng thể những sự kiện, hoàn cảnh khi thiệt
20