Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức từ thực tiển thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.05 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH HÀ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA KHEN THƯỞNG
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH HÀ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA KHEN THƯỞNG
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính.
Mã số: 06.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. VŨ HỒNG ANH



HÀ NỘI - 2017


LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Quản lý nhà nước về thi đua khen
thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức từ thực tiển thành phố Hồ Chí
Minh” tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cơ quan, đơn vị,
bạn bè, đồng nghiệp và giáo viên hướng dẫn. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành
về sự giúp đỡ đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Vũ Hồng Anh – giáo viên
trực tiếp hướng dẫn. Thầy đã luôn theo sát, chỉ bảo, hướng dẫn tôi các phương pháp
nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin cảm ơn Sở Nội vụ, Ban Thi đua – Khen thưởng thành phố Hồ Chí
Minh đã tạo điều kiện, cung cấp các số liệu, báo cáo giúp tôi hoàn thành tốt việc
nghiên cứu khoa học.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, gia đình đã động viên, khích lệ, tạo
điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 08 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thanh Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI
ĐUA KHEN THƯỞNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC ......5
1.1. Khái niệm .............................................................................................................. 5

1.2. Nội dung, nguyên tắc của quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với
cán bộ, công chức, viên chức .................................................................................... 13
1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với cán bộ, công
chức, viên chức .......................................................................................................... 24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với
cán bộ, công chức, viên chức .................................................................................... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN
THƯỞNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..............................................................................32
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội và những yêu cầu đối với công tác quản
lý nhà nước về thi đua khen thưởng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ............. 32
2.2. Tình hình quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công
chức, viên chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ............................................. 35
2.3. Đánh giá chung ................................................................................................... 50
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC,
VIÊN CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................57
3.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán
bộ, công chức, viên chức ........................................................................................... 57
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán
bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .............................. 59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................76
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH TW


Ban Chấp hành Trung ương

BCT

Bộ Chính trị

CT

Chỉ thị

CP

Chính phủ

KL

Kết luận



Nghị định

NXB

Nhà xuất bản

QH

Quốc hội


TT

Thông tư

TTg

Thủ tướng

TU

Thành uỷ

TW

Trung ương

UBND

Uỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi đua, khen thưởng là biện pháp tổ chức thực tiễn, một phương pháp tuyên
truyền, giáo dục tích cực để động viên ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt
động thực tiễn của cán bộ, công chức, viên chức nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

mà cấp trên giao. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thi đua là một cách rất tốt, rất
thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ”.
Trong thời gian qua phong trào thi đua yêu nước của thành phố Hồ Chí Minh
luôn gắn với nhiệm vụ chính trị và chương trình hành động, tập trung các lĩnh vực
trọng tâm, trọng điểm, những việc khó và những khâu yếu kém nhằm tạo động lực
thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ chính trị và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Đặc biệt thi
đua, khen thưởng đã tác động tích cực, cổ vũ, động viên cán bộ, công chức, viên
chức của thành phố phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng – an ninh. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các sở, ban, ngành,
hội, đoàn thể thành phố đã lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác thi đua, khen thưởng, tạo
chuyển biến trên nhiều mặt, nhất là chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, đảng
viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng
trong giai đoạn cách mạng mới.
Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn có một số cơ quan, đơn vị thực hiện công tác thi
đua, khen thưởng còn mang tính hình thức, rập khuôn, máy móc, chưa tạo được
động lực cho cán bộ, công chức, viên chức làm việc. Điều này thể hiện rõ ở nội
dung, chỉ tiêu thi đua chưa sát với đặc điểm, nhiệm vụ cơ quan, đơn vị; việc xét
khen thưởng chưa đúng người, đúng việc, còn nể nang, cào bằng, đề nghị khen
thưởng cho đội ngũ lãnh đạo chiếm tỷ lệ cao, khen thưởng cán bộ, công chức, viên
chức còn ít; công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, sơ kết, tổng kết chưa được coi
trọng; khí thế của các phong trào thi đua chưa cao, tính hiệu quả thấp, khen thưởng
nhiều nhưng nhiều mô hình không được phổ biến, nhân rộng.
Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, khuyết điểm trên là do trong qua trình thực
hiện Luật thi đua, khen thưởng và các văn bản quy định, hướng dẫn về thi đua, khen
1


thưởng còn lúng túng; việc xây dựng các tiêu chí thi đua, khen thưởng chưa được
nghiên cứu sâu, không quy định cụ thể tính chất định lượng của từng tiêu chí để làm
cơ sở đánh giá; có lúc, có nơi người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa thật sự quan
tâm đúng mức đến công tác thi đua, khen thưởng chủ yếu giao cho cán bộ hoặc đơn

vị tham mưu; các giá trị so sánh giữa quyền lợi vật chất với động viên tinh thần, các
chuẩn mực về đạo đức, lối sống, sức ép về cạnh tranh kinh tế, lợi nhuận…tác động
không ít đến cán bộ, công chức, viên chức và phong trào thi đua.
Quan thực tiễn nêu trên, xuất phát từ những hạn chế, yếu kém trong tổ chức
thực hiện phong trào thi đua tại thành phố Hồ Chí Minh, nhất là trong thời gian qua
việc nghiên cứu có tính chất tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn đối với công tác thi
đua, khen thưởng cho đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức chưa nhiều, chủ
yếu là tổng kết hoặc hội nghị trao đổi, chia sẽ kinh nghiệm. Vì vậy tác giả chọn đề
tài “Quản lý Nhà nước về thi đua khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên
chức từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” với mong muốn góp phần đề xuất giải
pháp nhằm tăng cường công tác thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công chức,
viên chức trên địa bàn Thành phố, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào thi
đua của Thành phố phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu về công tác thi đua, khen thưởng,
một trong số đó là: đề tài “Tăng cường quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
giai đoạn 2011 - 2020” của tác giả Lê Xuân Khánh, luận văn thạc sĩ quản lý hành
chính công, Học viện hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010; đề tài “Quản lý
Nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả
Nguyễn Thị Ba Hồng, luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2016; đề tài “Đổi mới quản lý Nhà nước về công
tác thi đua, khen thưởng tại địa phương” của tác giả Dương Thị Thanh, luận văn
thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2007; đề tài “Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật đối với công tác quản lý Nhà
nước về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Hữu Đoạt,
2


luận văn thạc sĩ, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008; Luận án tiến
sĩ “Pháp luật về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phùng Ngọc

Tấn, Học viên Khoa học Xã hội, Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, năm
2016.
Nhìn chung, các đề tài và luận án nói trên đã nêu lên tương đối đầy đủ những
vấn đề lý luận và một số giải pháp có giá trị về thực tiễn. Tuy nhiên, việc đi sâu
nghiên cứu quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng riêng với đối tượng là cán bộ,
công chức, viên chức hầu như chưa được đề cập đầy đủ, do vậy trong luận văn này
tác giả mong muốn tìm hiểu và nghiên cứu toàn diện hơn những quy định của pháp
luật về quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng đặc biệt là đối với cán bộ, công
chức, viên chức; tạo ra những cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ,
công chức, viên chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu đề xuất một số giải pháp tăng cường
công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên
chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung vào các
nhiệm vụ sau:
Phân tích cơ sở lý luận quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán
bộ, công chức, viên chức.
Phân tích và đánh giá tình hình quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối
với cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước tăng
cường công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công
chức, viên chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

3



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu các hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
trong 5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Công sản Việt Nam về thi
đua, khen thưởng để làm rõ hơn lý luận về thi đua, khen thưởng, đồng thời trong
quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
và tổng kết kinh nghiệm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Làm rõ một số vấn đề cơ bản về lý luận quản lý nhà nước về thi đua khen
thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học về thi
đua, khen thưởng và công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng, đồng thời
những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần tăng cường công tác quản lý nhà
nước về thi đua khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng
đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán
bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức.
4



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA KHEN
THƯỞNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm thi đua, khen thưởng
1.1.1.1. Khái niệm thi đua
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, thi đua là một hiện tượng khách quan
nảy sinh do sự tiếp xúc xã hội trong quá trình lao động sản xuất, theo C.Mác "ngay
sự tiếp xúc xã hội cũng đã đẻ ra thi đua" [13, tr.474]. Còn V.I.Lênin coi thi đua là
một tất yếu, một nguồn tiềm năng to lớn của chủ nghĩa xã hội: "Chủ nghĩa xã hội
không những không dập tắt thi đua, mà trái lại, lần đầu tiên, đã tạo ra khả năng áp
dụng thi đua một cách thật sự rộng rãi, với một quy mô thật sự to lớn, tạo ra khả
năng thu hút thật sự đa số nhân dân lao động vào vũ đài hoạt động khiến họ có thể
tỏ rõ bản lĩnh, dốc hết năng lực của mình, phát hiện những tài năng mà nhân dân sẵn
có cả một nguồn vô tận, những tài năng mà chủ nghĩa tư bản đã giày xéo, đè nén,
bóp nghẹt mất hàng nghìn, hàng triệu, nhiệm vụ của chúng ta hiện nay, khi chính
phủ xã hội chủ nghĩa đang cầm quyền, là phải tổ chức thi đua" [45, tr.234-235].
Như vậy, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều khẳng định, thi đua là một
tất yếu khách quan, được nảy sinh từ chính cuộc sống của con người, con người
sống trong xã hội luôn có quan hệ tiếp xúc với nhau, do đó tất yếu nảy sinh thi đua.
Vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
thi đua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng,
đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Người coi tổ chức thi đua yêu nước
là cách tốt nhất để khơi dậy lòng yêu nước tiềm tàng trong mỗi người dân Việt
Nam, biến nó thành sức mạnh, thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
cũng như trong bảo vệ Tổ quốc, Người khẳng định: “Hễ là người Việt Nam yêu
nước thì phải thi đua, thi đua là yêu nước; thi đua là một cách yêu nước thiết thực
nhất, những người thi đua là những người yêu nước nhất” [18, tr.473].


5


Theo từ điển tiếng việt, thi đua là cùng nhau đem hết tài năng, sức lực ra làm
nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong chiến đấu, sản xuất, công tác
và học tập [46, tr.871] và tại Điều 3 Luật thi đua, khen thưởng năm 2003, sửa đổi,
bổ sung năm 2005 ghi rõ: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự
nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”, như vậy theo khái niệm này thi đua phải bao gồm 3 thành
tố đó là:
Là hoạt động có tổ chức: Thi đua là hoạt động có tổ chức vì các phong trào
thi đua là do người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phát động để thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoạt động có tổ chức của thi đua được
thể hiện từ khi lập kế hoạch, xác định mục tiêu, hình thức, đối tượng, tổ chức phát
động, ký giao ước thi đua, kiểm tra, sơ kết, tổng kết phong trào thi đua, biểu dương,
nhân rộng điển hình tiên tiến.
Là hoạt động tự nguyện: có tự nguyện thì mới khơi dậy được sự sáng tạo của
con người.
Là hoạt động có mục tiêu và hướng đích rõ rệt: Mục đích để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; thi đua sẽ giúp cho hiệu quả, chất lượng và năng suất lao động, học tập
và công tác không ngừng được nâng lên, từ đó thúc đẩy xã hội phát triển về mọi
mặt.
Như vậy thi đua là động từ biểu hiện hoạt động của con người, tác động của
con người vào tự nhiên, vào các quá trình xã hội để đạt mục đích đề ra; là hoạt động
có ý thức, có tính tổ chức, tính tập thể cao, gồm nhiều người cùng tham gia, diễn ra
mọi lúc, mọi nơi. Thi đua có thể diễn ra trong phạm vi một tập thể nhỏ, một địa
phương hay trong phạm vi cả nước, với sự tham gia của mọi thành phần, lứa tuổi,
tôn giáo, dân tộc; diễn ra trong một thời gian nhất định (theo đợt) hay cả một quá
trình lâu dài, thường xuyên; thi đua thể hiện bản chất của xã hội, không tách rời

mục tiêu của xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Thi đua là hoạt động xã hội có ý
thức, có tổ chức, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn với sự tham gia của các
6


cá nhân, tập thể, mọi thành phần, lứa tuổi, dân tộc, tôn giáo trên tinh thần tự
nguyện, tự giác nhằm phấn đấu đạt được thành tích cao nhất trong lao động sản
xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
1.1.1.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thưởng là công việc đã tồn tại khá lâu trong lịch sử xã hội, gắn liền với
thưởng phạt của Nhà nước thuộc các chế độ xã hội khác nhau; khen thưởng đã được
thực hiện ở nước ta từ các triều đại phong kiến trước đây, các hình thức khen
thưởng của thời phong kiến đã được Ngô Sỹ Liên nêu rất rõ trong “Đại việt sử ký
toàn thư”. Cách đây hơn 600 năm, Nguyễn Trãi đã viết: “Nhà nước thưởng nhiều
hơn phạt là Nhà nước phồn vinh; nhà nước thưởng, phạt nghiêm minh là Nhà nước
vững mạnh; nhà nước phạt nhiều hơn thưởng là nhà nước đang suy tàn” [27, tr.131].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến vấn đề khen thưởng, ngày 26
tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký một văn kiện quan trọng, đó là Quốc
lệnh quy định những trường hợp thưởng và phạt. Quan điểm cơ bản của văn kiện
này được nêu rõ: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới
yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công” [16, tr.269].
Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích cho cá nhân hoặc tập
thể bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo luật định; là vấn đề thuộc
phạm trù khoa học xã hội; công tác khen thưởng cũng như trừng phạt là một vấn đề
thực hiện phát sinh và tồn tại trong quá trình phát sinh, phát triển của con người.
Theo từ điển tiếng Việt thì “khen” là sự nhận xét đánh giá tốt về một người
nào đó, tổ chức nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng; còn “thưởng” là
tặng cho bằng hiện vật hoặc tiền [46, tr.1050], như vậy khen thưởng là hình thức ghi
nhận công lao, thành tích của cơ quan có thẩm quyền đối với cá nhân, tập thể.

Tại khoản 2, Điều 3, Luật thi đua, khen thưởng năm 2003, sửa đổi, bổ sung
năm 2005 quy định: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công
trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, khen thưởng là việc Nhà nước ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công
7


trạng của các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc bằng những hình thức nhất định (cả vật chất và tinh thần). Nó đóng
vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, khơi dậy một cách đúng
đắn động cơ làm việc của con người, khiến cho họ coi việc thực hiện mục tiêu của
tổ chức cũng như thực hiện nhu cầu của bản thân, từ đó làm cho tính tích cực và
sáng tạo của họ tiếp tục được duy trì và phát huy, góp phần xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại thi đua, khen thưởng là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
là biện pháp để người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, chính trị của cơ quan,
đơn vị mình nhằm khuyến khích, động viên mọi người hăng hái lập thành tích trong
lao động, sản xuất. Thi đua, khen thưởng là hai mặt hoạt động gắn kết với nhau, có
mối quan hệ hữu cơ, thi đua không phải vì khen thưởng mà khen thưởng là bước
tiếp sau của thi đua, là kết quả của thi đua, phản ánh chất lượng, hiệu quả thi đua.
Thi đua tạo nên thành tích để khen thưởng và khen thưởng là động lực thúc đẩy,
kích thích trở lại thi đua; nếu thi đua là nội dung thì khen thưởng là hình thức; thi
đua là nguyên nhân thì khen thưởng là kết quả; nếu chỉ có thi đua mà không có khen
thưởng thì phong trào thi đua không thể phát triển mạnh và khi khen thưởng đúng sẽ
trở thành động lực thúc đẩy phong trào thi đua phát triển cao hơn, phong trào thi
đua phát triển mạnh thì sẽ có nhiều thành tích và xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến
để khen thưởng, biểu dương
1.1.2. Khái niệm cán bộ, công chức, viên chức
Tại điều 4, khoản 1, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định:

Cán bộ: là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
Công chức: là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
8


Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
(sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật.
Tại điều 2 Luật viên chức năm 2010 quy định: viên chức là công dân Việt
Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập
theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, cán bộ, công chức, viên chức là những người được Nhà nước tuyển
dụng, nhận một công vụ hoặc một nhiệm vụ nhất định, do Nhà nước trả lương và có
nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân, phục vụ Nhà nước theo các quy định của
pháp luật
1.1.3. Khái niệm thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên
chức
Thi đua đối với cán bộ, công chức, viên chức là biện pháp thúc đẩy cán bộ,
công chức, viên chức cùng nhau đem hết tài năng, sức lực, nhằm thúc đẩy lẫn nhau
hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Thi đua đối với cán bộ, công chức, viên

chức là hoạt động có tổ chức, được cán bộ, công chức, viên chức tham gia một cách
tự nguyện và không ngừng nổ lực, phấn đấu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mục
tiêu mà cơ quan, đơn vị đã đặt ra. Bản chất của thi đua đối với cán bộ, công chức,
viên chức không phải là sự cạnh tranh, ganh đua mà là hình thành động cơ thi đua
trong sáng, lành mạnh. Động cơ thi đua là lực thúc đẩy bên trong của cán bộ, công
chức, viên chức, giúp họ thực hiện phong trào thi đua bằng tinh thần tự giác, tự
nguyên, bằng ý thức và trách nhiệm đối với sự phát triển của tập thể cơ quan, đơn
vị.
9


Khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức là hình thức công nhận sự
đóng góp “vượt trên mức yêu cầu” của cán bộ, công chức, viên chức đối với hoạt
động công vụ; là sự ghi nhận và trao cho cán bộ, công chức, viên chức có những
thành tích xuất sắc những giá trị vật chất và tinh thần để động viên, khích lệ sự cống
hiến của họ. Mục đích của khen thưởng là khích lệ, khơi dậy một cách đúng dắn
động cơ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức; khiến cho họ coi việc thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị như là thực hiện nhu cầu của bản thân, từ
đó làm cho tính tích cực, sáng tạo của họ tiếp tục được duy trì và phát huy.
Như vậy thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức là hình
thức ghi nhận sự cống hiến của họ, một phương pháp tuyên truyền, giáo dục tích
cực để động viên ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động thực tiễn của
cán bộ, công chức, viên chức nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao; là “đòn
bẩy”, kích thích cá nhân, tập thể hăng say hoạt động, phát huy hết tài năng của mình
trong việc xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện
1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ,
công chức, viên chức
1.1.4.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Theo tự điển tiếng việt quản lý là trông coi và điều khiển hoạt động nào đó
theo những yêu cầu nhất định [46, tr.871].

Theo điều khiển học, quản lý “là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một
quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ
thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được
những mục đích đã đặt trước” [26, tr.8,9].
Trong lĩnh vực hành chính, quản lý có thể hiểu là “Hoạt động có ý thức của
con người nhằm sắp xếp, tổ chức, chỉ huy, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra...các quá
trình xã hội và hoạt động của con người để hướng chúng phát triển phù hợp với quy
luật xã hội, đạt được mục tiêu xác định theo ý chí của nhà quản lý với chi phí thấp
nhất” [20, tr.35].
Quản lý nhà nước: “Là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp,
10


hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà
nước, nói cách khác quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền
lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các
chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước” [26, tr.10-11].
Theo khái niệm này, quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa
rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà nước,
nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức quyền lực nhà nước trên các phương diện
lập pháp hành pháp và tư pháp, theo cách hiểu này thì quản lý nhà nước được đặt
trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ".
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu
nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nước nói chung còn thực hiện
các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước
nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Quản
lý nhà nước theo nghĩa hẹp được xem là đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành
chánh nhà nước.

Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý nhà
nước theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành
các văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động
của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của
Nhà nước
1.1.4.2. Khái niệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ,
công chức, viên chức
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng: là sự tác động, điều chỉnh của
Nhà nước bằng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân và tổ
chức trong hoạt động thi đua, khen thưởng, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước
thực hiện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
11


Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đảm bảo sự chấp hành các chính
sách, quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng, bời vì trên thực tế thi đua,
khen thưởng là một hoạt động rộng khắp ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội
từ kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế…; được triển khai ở các ngành, các cấp;
phong phú về hình thức và biện pháp thi đua để phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội, vì vậy thi đua, khen thưởng là một quan hệ xã hội nên nó cũng cần
có sự điểu chỉnh của pháp luật và sự quản lý của nhà nước. Mọi công việc suy cho
cùng đều do nhân dân và tổ chức thực hiện, vậy ai làm tốt, tập thể nào làm tốt phải
biết và khen ngợi, phải tuyên dương để học tập, có như vậy những việc tốt, việc tích
cực mới nhiều lên, mới phát triển, mới lấn át và đẩy lùi cái xấu, tiêu cực và nếu
không có sự quản lý của nhà nước sẽ dễ dẫn đến tình trạng khen thưởng tràn lan,
không kiểm soát, làm triệt tiêu động lực phấn đấu của tập thể, cá nhân, ảnh hưởng
đến mục tiêu của phong trào thi đua; pháp luật về thi đua, khen thưởng dù có hoàn
thiện đến đâu nhưng nếu không có cơ chế để đảm bảo cho tính chấp hành các quy
định, chính sách đó thì công tác quản lý nhà nước sẽ không đạt được hiệu quả.

Thi đua, khen thưởng là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực tiễn quá trình quản lý nhà nước về
công tác này cho thấy cần thiết phải quản lý nhằm đảm bảo khen thưởng đúng
người, đúng việc, tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua phát triển góp phần ổn
định kinh tế, phát triển xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh.
Như vậy quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công
chức, viên chức: là sự tác động của Nhà nước thông qua quy định của pháp luật
điểu chỉnh hoạt động thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức
nhằm đảm bảo cho hoạt động đó diễn ra theo đúng quy định của pháp luật, góp
phần tạo động lực thực thi công vụ, phát huy mọi nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển
của đất nước.

12


1.2. Nội dung, nguyên tắc của quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng
đối với cán bộ, công chức, viên chức
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với cán bộ,
công chức, viên chức
Cũng giống như hoạt động quản lý nhà nước khác, nội dung quản lý Nhà
nước về thi đua khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức bao gồm những
hoạt động: xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng; tuyên
truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi
đua, khen thưởng; tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về thi đua, khen thưởng;
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng, cụ
thể như sau:
1.2.1.1. Xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng
Văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng là hình thức thể hiện ý chí của
Nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng; được thể hiện dưới dạng ngôn ngữ
viết; được ban hành theo hình thức, thủ tục do luật định và được Nhà nước đảm bảo

thực hiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đặt ra. Văn bản pháp luật về thi đua,
khen thưởng là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý đối với công tác này, thông
qua pháp luật Nhà nước điều chỉnh, định hướng để hoạt động thi đua, khen thưởng
phát triển theo đúng mục tiêu, kế hoạch và định hướng đã đặt ra, đồng thời đây là
các văn bản cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công tác thi đua, khen
thưởng.
Văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng tạo ra hành lang pháp lý để các tổ
chức, các tầng lớp nhân dân, các cá nhân phát huy lòng nhiệt tình hăng hái tham gia
thi đua và đón nhận những kết quả, phần thưởng xứng đáng; hành lang đó tạo ra sự
thống nhất về công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp và trong cả nước.
Lịch sử pháp luật về thi đua, khen thưởng đã thể hiện rõ tầm quan trọng của
việc ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng, nó đã động viên và cổ
vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng Việt Nam. Ngay sau khi tuyên bố thành lập
nước Việt Nam dân chủ công hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến công tác
13


thi đua, khen thưởng, ngày 20/01/1946 đã ra Quốc lệnh ban hành 10 điều khen
thưởng với lời mở đầu: “Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân
dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”. Quốc lệnh
là văn bản pháp lý đầu tiên về điều kiện khen thưởng, đặt nền móng hình thành
chính sách khen thưởng; văn bản này đã góp phần quan trọng thúc đẩy phong trào
thi đua yêu nước phát triển, làm nên chiến thắng Điện Biên phủ, miền Bắc được
hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên sau khi đất nước thống nhất, do vừa phải khắc phục hậu quả chiến
tranh, vừa tập trung phát triển kinh tế nên trong thời gian này công tác thi đua, khen
thưởng không được quan tâm đúng mức, chủ yếu thực hiện công tác khen thưởng là
chính. Nhận thức được vai trò, ý nghĩa và sức mạnh của thi đua, khen thưởng, ngày
03 tháng 5 năm 1998 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới. Chỉ thị đã làm rõ vị trí, vai trò

quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và
quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng; kiện toàn và đổi mới tổ
chức - cán bộ của cơ quan tham mưu thi đua, khen thưởng, đổi mới nội dung và
hình thức thi đua, khen thưởng.
Tiếp đến ngày 21 tháng 5 năm 2004, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Chỉ thị
số 39 - CT/TW đã làm cho công tác thi đua, khen thưởng có chuyển biến tích cực,
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm
bảo an ninh đối ngoại và tăng cường đoàn kết dân tộc; Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình
tiên tiến.
Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 39 - CT/TW, ngày 07 tháng 4 năm 2014 Bộ
Chính trị khoá IX tiếp tục ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW nhằm đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào
thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và chủ động hội nhập quốc tế gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo
14


tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Thực tế cho thấy rằng, công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
muốn đạt được hiệu quả thì cần phải có cơ chế chính sách về thi đua, khen thưởng
phù hợp, bởi vì một bài toán đặt ra cho người quản lý là làm thế nào để đánh giá
một phong trào thi đua đạt hiệu quả, khen thưởng khi nào và cấp độ nào là phù hợp,
phần thưởng nào là tốt nhất trong các trường hợp cụ thể. Chính sách thi đua, khen
thưởng rất quan trọng để động viên, khuyến khích mọi người thi đua học tập, lao
động, sáng tạo, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân. Luật Thi đua, khen
thưởng, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật đã đề cập một
cách toàn diện các mặt của công tác thi đua, khen thưởng; đây là chủ trương chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước, do vậy vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về

công tác thi đua, khen thưởng là xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng,
chính sách này phải đáp ứng kịp thời sự phát triển của xã hội thậm chí của mỗi
ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương và cơ sở.
Riêng đối với cán bộ, công chức, viên chức việc xây dựng chính sách thi đua,
khen thưởng vô cùng cần thiết. Xây dựng cơ chế, chính sách thi đua, khen thưởng
hợp lý, kết hợp giữa động viên tinh thần với quyền lợi vật chất, có chính sách đãi
ngộ thỏa đáng sẽ làm cho cán bộ, công chức, viên chức nhận thấy làm việc không
chỉ là nghĩa vụ cứng nhắc mà còn là quyền lợi gắn với khen thưởng, đây sẽ là công
cụ hữu hiệu để quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với cán bộ, công chức,
viên chức, đồng thời tăng cường hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức trong nền công vụ.
1.2.1.1. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy
định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
Tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của quản lý nhà nước nói chung nhằm đưa các quy định của pháp luật
vào thực tiễn cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của người dân, từ đó nâng hiệu quả công tác quản lý Nhà nước.
Đối với công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng thì việc tuyên
15


truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi
đua, khen thưởng có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm
quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng; làm cho mọi người hiểu rõ các quy
định của pháp luật, tự giác thực hiện và có nhiều ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện
chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng, đồng thời giúp cho các cơ quan làm
công tác thi đua, khen thưởng từ Trung ương đến địa phương triển khai thực hiện
đồng bộ, thống nhất. Thông qua công tác tuyên truyền nhằm nhân rộng các điển
hình tiên tiến, làm cho phong trào thi đua lan toả, sôi nổi, ngăn chặn và làm hạn chế

những hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội ở địa phương.
Xác định tầm qua trọng và sự cần thiết của công tác tuyên truyền, phổ biến
các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng do vậy tại Điều 9, Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013 đã quy định: “đặc biệt
coi trọng công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phong
trào thi đua; chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên trong việc hướng dẫn, tổ chức các phong trào thi đua và kiểm tra việc
thực hiện; tham mưu sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, nhân rộng các điển
hình tiên tiến; đề xuất khen thưởng và kiến nghị đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng”. Tiếp đến trong Chỉ thị 34-CT/TW ngày 07 tháng 4 năm 2014 của Bộ
Chính trị có nêu “Tiếp tục quán triệt, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Ðảng,
tư tưởng về thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chính sách, pháp luật của
Nhà nước về thi đua, khen thưởng, trong đó chú trọng công tác tuyên truyền Luật
thi đua, khen thưởng. Qua đó, làm chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên và
nhân dân về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập
quốc tế”. Như vậy cho thấy Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác tuyên truyền,
phổ biến các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng, xác định đây là nhiệm
vụ quan trọng của các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị khi tiến hành công tác
16


thi đua, khen thưởng. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện ở mỗi ngành, mỗi cấp việc tổ
chức thực hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác
nhau. Đối với các cơ quan ở Trung Ương tập trung tuyên truyền và hướng dẫn các
địa phương, các ngành triển khai thực hiện các quy định, chính sách về thi đua,
khen thưởng, thường xuyên theo dõi việc thực hiện để có những định hướng, kịp
thời điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng. Đối với các địa
phương, căn cứ và các quy định và tình hình thực tế xác định nội dung, đối tượng và

phương pháp tuyên truyền, triển khai phù hợp; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về thi đua, khen thưởng phải được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp,
các ngành, có như vậy mới đạt được hiệu quả.
Bên cạnh đó tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi đua, khen thưởng không
chỉ là trách nhiệm của các cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng mà đó là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên vô cùng quan trọng. Tại Điều 12, Luật thi đua, khen thưởng sửa
đổi, bổ sung năm 2005 đã quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành
viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm: Tuyên truyền, động viên các thành viên của mình và tham
gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp
luật về thi đua, khen thưởng; Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức
các cuộc vận động, các phong trào thi đua; Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng”. Với vai trò tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ
quốc sẽ kêu gọi kêu gọi, động viên mọi tầng lới nhân dân tích cực tham gia các
phong trào, chấp hành các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng, đồng
thời phát huy vai trò giám sát và phản biện khi thực hiện các chính sách, pháp luật
về thi đua, khen thưởng.
Song song đó, Luật thi đua, khen thưởng sửa đổi, bổ sung năm 2013 còn quy
định: “Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền
chủ trương, chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng; phổ biến, nêu gương các
điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; phát hiện các cá nhân, tập thể có thành
17


tích xuất sắc trong phong trào thi đua; đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật
về thi đua, khen thưởng”.
Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thi hành pháp luật về thi đua, khen
thưởng đã mang lại lợi ích thiết thực, là một khâu quan trọng trong công tác quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng vì có tổ chức thực hiện thì Luật và các văn bản

quy định của pháp luật mới trở thành hiện thực trong cuộc sống, Nhà nước mới đảm
bảo được sự quản lý và từ đó công tác thi đua, khen thưởng mới trở thành động lực
phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen
thưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [17, tr.238]. Ngay
sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ công hoà, để phong trào thi đua
đạt được kết quả tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tới việc xây dựng bộ máy
tổ chức chỉ đạo và đào tạo cán bộ cho phong trào. Ngày 1 tháng 6 năm 1948, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 195 thành lập Ban vận động thi đua ái quốc, nội
dung Sắc lệnh quy định thành lập Ban vận động thi đua ái quốc từ Trung ương đến
khu, tỉnh, huyện, xã và thành phần của Ban này, đồng thời cũng quy định nhiệm vụ
của Ban vận động thi đua ái quốc các cấp. Như vậy Nhà nước và các cấp chính
quyền từ Trung ương đến địa phương muốn quản lý tốt công tác thi đua, khen
thưởng trước hết phải xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thi đua,
khen thưởng ở các cấp, các ngành có chất lượng tốt, có đầy đủ uy tín và tinh thần
trách nhiệm cao, công minh, công tâm trong công tác.
Để tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng hoạt động có
hiệu quả và nâng cao chất lượng công tác tham mưu, trước hết bộ máy và cán bộ
làm công tác thi đua phải đảm bảo cơ cấu về biên chế tổ chức và tính chuyên
nghiệp. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng phải có đủ
năng lực thực tiễn, trình độ chuyên môn sâu, có bản lĩnh và bề dày kinh nghiệm,
từng bước chuyên nghiệp hoá trên cơ sở chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ,
18


kỹ năng, tăng cường rèn luyện thông qua trãi nghiệm công tác; đồng thời cán bộ
làm công tác thi đua, khen thưởng phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm huyết, biết
vận động quần chúng và tổ chức phong trào thi đua.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen
thưởng trước hết phải tập trung trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên cập nhật những quan
điểm mới của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng; kịp thời tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật về thi đua, khen thưởng nhất là trong điều kiện hiện nay các quy
định pháp luật thường xuyên có sự thay đổi. Một nội dung không kém phần quan
trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm thi đua, khen thưởng đó là trang
bị những kiến thức xã hội, bởi vì xã hội ngày càng phát triển, cán bộ làm công tác
thi đua, khen thưởng có kiến thức và kỹ năng để có thể theo kịp với xu thế phát triển
chung của xã hội.
Thực tiễn đã cho thấy, ở đâu có đội ngũ cán bộ tốt thì ở đó có phong trào thi
đua khen thưởng đạt chất lượng. Do đó nhu cầu tào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán
bộ làm công tác thi đua, khen thưởng là cần thiết, nhất là trong điều kiện hiện nay
khi Luật mới ra đời, mặt bằng cán bộ vừa thiếu, vừa yếu.
1.2.1.4. Sơ kết tổng kết, đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng
Mục đích của sơ kết, tổng kết là nhằm đánh giá hiệu quả của các phong trào
thi đua, đánh giá những mặt làm được, những việc còn hạn chế, phân tích những
nguyên nhân, từ đó rút ra những kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các phong
trào thi đua. Do đó yêu cầu của việc sơ kết, tổng kết là phải đánh giá đúng, trung
thực, khách quan thực tiễn phong trào thi đua. Việc sơ kết, tổng kết là điều kiện để
cấp trên có thể đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới, thấy được
những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện các chủ trương, chính sách tại cơ sở, từ
đó kịp thời chỉ đạo tháo gỡ khó khăn và điều chỉnh trong công tác lãnh chỉ đạo.
Nội dung sơ kết, tổng kết phải đánh giá được vai trò lãnh đạo của cấp ủy
đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong chỉ đạo thực hiện công tác thi đua,
khen thưởng; đánh giá chất lượng, hiệu quả của các phong trào thi đua; đánh giá
19


chuyển biến nhận thức về vai trò, vị trí của công tác thi đua, khen thưởng trong tình

hình mới. Từ thực tiễn sơ kết, tổng kết sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm,
phương pháp tổ chức các phong trào thi đua có hiệu quả; phát hiện những điển hình
tiên tiến để nhân rộng; phát hiện những thiếu sót, những vấn đề còn bất cập cần sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, đơn vị. Thông qua sơ
kết, tổng kết kịp thời đề xuất, kiến nghị công tác lãnh chỉ đạo, thực hiện các bước,
quy trình, thủ tục xét duyệt khen thưởng, các hình thức tặng thưởng xứng đáng, kịp
thời, đồng thời đề ra những giải pháp, phương hướng cho những giai đoạn tiếp theo.
Trong điều kiện hiện nay, trước tình hình thực tế bệnh quan liêu, thành tích
còn khá phổ biến thì việc sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen
thưởng phải được thực hiện ghiêm túc, thực chất với mục tiêu và chất lượng cao
hơn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và từng bước hoàn thiện pháp luật
về thi đua, khen thưởng
1.2.1.5. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng
Trước sự phát triển nhanh về kinh tế xã hội, xu thế hội nhập và hợp tác quốc
tế của đất nước, Đảng và Nhà nước nhận thấy cần phải có chuyển biến trong tư
tưởng chỉ đạo, nhận thức mới đối với công tác thi đua khen thưởng đó là hợp tác
quốc tế về thi đua, khen thưởng. Điều này nghĩa là cần phải có sự trao đổi, học tập
kinh nghiệm với các nước bạn về cách thức quản lý thi đua, khen thưởng; các hình
thức khuyến khích, động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua; việc thiết
lập các khung khen thưởng để từng bước hoàn thiện chính sách thi đua, khen
thưởng của Việt Nam; đồng thời giới thiệu những mô hình hay, những gương điển
hình tiên tiến của Việt Nam với bạn bè quốc tế; kịp thời phát hiện và khen thưởng
những tổ chức, cá nhân người nước ngoài đã có những đóng góp tích cực cho sự
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, góp phần
tăng cường tình hữu nghị và hợp tác quốc tế.
1.2.1.6. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Thanh tra, kiểm tra là một trong những công cụ không thể thiếu đối với quản
20



×