Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.8 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC HÀ

TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT CHÁY,
CHẤT ĐỘC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC HÀ

TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT CHÁY,
CHẤT ĐỘC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
:
60.38.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Quốc Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUI ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG
TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP
CHẤT CHÁY, CHẤT ĐỘC ........................................................................... 6
1.1. Những vấn đề lý luận về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc ...................................................... 6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc ........................ 16
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ,

VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
CHÁY, CHẤT ĐỘC...................................................................................... 27
2.1. Thực tiễn định tội danh tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc .................................................... 27
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc ........................ 40
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG
ĐÚNG CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SẢN
XUẤT, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT CHÁY, CHẤT ĐỘC .................................................. 51
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự
về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất
cháy, chất độc .................................................................................................. 51


3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
chất cháy, chất độc .......................................................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự


BLDS

: Bộ luật dân sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

NaCN

: Natry Cyanua

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
THTP

: Tình hình tội phạm

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Cơ cấu tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc
2.1.

mua bán trái phép chất độc trong tổng số các tội phạm
đã bị xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2012

31

đến năm 2016
Cơ cấu của tội sản xuất, tàng trữ,vận chuyển, sử dụng
2.2.

hoặc mua bán trái phép chất độc trong tổng số các tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng đã bị


32

xét xử trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
Số liệu xét xử sơ thẩm tội sản xuất, tàng trữ, vận
2.3.

chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc tại

33

tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến năm 2016.
2.4.

Cơ cấu về loại và mức hình phạt được áp dụng

43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Quảng Nam được tái lập theo Nghị định số 01/2005/NĐ-CP ngày
05 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ, gồm 18 huyện, thị xã, thành phố, diện
tích tự nhiên 10,480 km2, dân số 1,4 triệu người, mật độ dân số 312 người/
km2. Với điều kiện tự nhiên đa dạng, Quảng Nam có nhiều mỏ khoáng sản quí
với trữ lượng lớn như vàng, than, sắt, đồng… trong đó có 2 mỏ vàng lớn nhất
nước là Phước Sơn và Bồng Miêu. Trong khoảng 5 năm gần đây, tình trạng
khai thác vàng trái phép trên địa bàn tỉnh diễn biến rất phức tạp. Trong khi
tình trạng này chưa được kiểm soát, xử lý thì sự kiện công ty Bersa Việt Nam
(chủ đầu tư 2 mỏ vàng) kinh doanh thua lỗ, nợ thuế kéo theo hệ lụy công tác

quản lý, bảo vệ tài nguyên vàng bị buông lỏng. Tình trạng khai thác vàng trái
phép bằng Natry Cyanua (NaCN- một loại hóa chất cực độc để tách vàng)
diễn ra phức tạp, kéo dài. Nếu kể từ giai đoạn 2008- 2012, trung bình hàng
năm có khoảng 750 lượt người tham gia khai thác vàng trái phép thì từ năm
2012 đến nay hàng năm tăng lên từ 7.000 – 8.000 người tham gia. Sự gia tăng
đột biến nêu trên dẫn đến hệ lụy hàng loạt vấn đề: tình hình an ninh trật tự, an
sinh xã hội, ô nhiễm môi trường… ngày càng diễn biến hết sức phúc tạp. Đặc
biệt, tình hình tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán
trái phép chất độc (chất độc ở đây chủ yếu là NaCN), có xu hướng gia tăng cả
về số vụ, số lượng. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc còn nhiều
vướng mắc, chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề
định lượng, định khung hình phạt tăng nặng, quyết định hình phạt. Bất cập
này đòi hỏi khoa học pháp lý phải giải quyết một cách đầy đủ.
Việc nghiên cứu tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua
1


bán trái phép chất cháy, chất độc dưới góc độ hoạt động hình sự và tố tụng
hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nhằm tìm kiếm nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập trong xử lý tội này, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng pháp luật về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua
bán trái phép chất cháy, chất độc là nhu cầu khách quan của đời sống xã hội.
Chính vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài: “Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về
các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói chung và tội sản

xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất
độc nói riêng nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc một cách
chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ, có hệ thống từ lý luận đến thực tiễn cũng như
vấn đề hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt của tội phạm này trong
phạm vi toàn tỉnh Quảng Nam.
Để nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết nội dung những vấn đề lý luận
của tội sản xuất, tàng trữ, vận, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất
độc theo pháp luật hình sự Việt Nam, tác giả luận văn này tham khảo các luận
văn, luận án nghiên cứu một nhóm tội phạm hay một tội cụ thể, dưới góc độ
luật hình sự và tố tụng hình sự nhằm học tập cách tiếp cận nghiên cứu của các
nhà nghiên cứu đi trước. Thêm vào đó, tác giả luận văn này dựa trên những số
liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong năm năm qua (từ năm 2012
đến năm 2016). Đồng thời, tác giả cũng làm rõ thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này tại địa phương góp phần giúp
2


cơ quan thực thi pháp luật hình sự, cơ quan quản lý nhà nước có cái nhìn đa
chiều về loại tội phạm này cũng như những vấn đề lý luận có liên quan. Đề tài
mà tác giả lựa chọn nghiên cứu khá mới, không trùng lặp với bất kỳ công
trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc theo
pháp luật hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất
độc trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, rút ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế đó, luận văn đề xuất giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

pháp luật về tội nói trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện những
nhiệm vụ dưới đây:
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép cất cháy, chất độc theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
- Phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất
độc.
- Khái quát những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá thực tiễn
định tội danh đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua
bán trái phép chất cháy, chất độc từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong năm năm
(từ năm 2012 đến năm 2016).
- Khái quát những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt và phân tích
3


thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam, những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn
đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
chất cháy, chất độc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam. Luận văn lấy các quan điểm khoa học, quy định của pháp luật hình sự,
thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội nói trên trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam để nghiên cứu đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua
bán trái phép chất cháy, chất độc dưới góc độ pháp luật hình sự và hoạt động
định tội danh, định khung hình phạt cũng như quyết định hình phạt đối với loại
tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian từ năm 2012 đến
năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về đấu tranh phòng
chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt, đan
xen các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp vụ án
4


điển hình, phương pháp lịch sử và nghiên cứu thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận góp phần làm nguồn tư liệu
tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp người tiến hành tố tụng
ở tỉnh Quảng Nam nói riêng và địa phương khác nói chung trong hoạt động
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc được chính xác
hơn nhằm thực hiện hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu; Phần kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo; Danh
mục các chữ viết tắt và Danh mục các bảng biểu, nội dung luận văn gồm 3
chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái
phép chất cháy, chất độc
Chương 2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất
độc tại tỉnh Quảng Nam
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy
định của pháp luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc
mua bán trái phép chất cháy, chất độc

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SẢN XUẤT, TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG HOẶC MUA BÁN TRÁI PHÉP
CHẤT CHÁY, CHẤT ĐỘC
1.1. Những vấn đề lý luận về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc
Bộ luật hình sự năm 2015 của nước ta được Quốc hội thông qua ngày
27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018, quy định các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng tại chương XXI (từ Điều 260 đến
Điều 329) gồm 70 điều luật. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc
mua bán trái phép chất cháy, chất độc nằm trong nhóm tội xâm phạm an toàn

công cộng thuộc chương XXI. Vì vậy, khái niệm tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc phải thõa mãn khái niệm
chung của các tội xâm phạm an toàn công cộng đồng thời phải thỏa mãn các
dấu hiệu đặc thù riêng.
Khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội xâm phạm an toàn
công cộng và trật tự công cộng xuất phát từ khái niệm tội phạm được quy
định tại Điều 8 Bộ luật hình sự và các cấu thành tội phạm ở chương XXI như
sau: Các tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại chương XXI của Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt hại cho
tính mạng, sức khỏe của nhân dân hoặc gây thiệt hại đến tài sản của Nhà
6


nước, tài sản của cá nhân [27, tr.380].
Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất
cháy, chất độc là hành vi làm ra, cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại
chất cháy, chất độc và theo Điều 311 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, tội
phạm này được hiểu là hành vi sản xuất trái phép, tàng trữ trái phép, vận
chuyển trái phép, sử dụng trái phép, mua bán trái phép chất cháy, chất độc.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư: Chất độc là chất có thể gây hư hại,
bệnh hoặc tử vong cho các cơ thể; thường bằng các phản ứng hóa học hoặc
các hoạt tính khác trên phạm vi phân tử, khi một số lượng vừa đủ được cơ thể
sinh vật hấp thụ vào.
Chất cháy là chất có đặc tính bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không
khí, nước hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất dễ tự bốc
cháy ở nhiệt độ không cao như diêm tiêu (Kali nitơrát), phốt-pho, thuốc đạn...
Paracelsus- cha đẻ của ngành độc chất học đã từng viết: “Mọi thứ đều
là chất độc, trong mọi thứ đều có chất độc. Chỉ có liều lượng là làm cho mọi

thứ không phải là một chất độc”.
Theo quy định tại Điều 4 Luật hóa chất ngày 21/11/2007 thì: Hóa chất
độc là hóa chất nguy hiểm có ít nhất một trong những đặc tính nguy hiểm quy
định từ điểm đ đến điểm n khoản 4 Điều này. Theo đó:
Điểm đ) Độc cấp tính;
e) Độc mãn tính;
g) Gây kích ứng với con người;
h) Gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư;
i) Gây biến đổi gen;
k) Độc đối với sinh sản;
l) Tích lũy sinh học;
m) Ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy;
7


n) Độc hại đến môi trường.
Vì là hóa chất nguy hiểm nên chất độc nằm trong Danh mục hóa chất
sản xuất, kinh doanh có điều kiện, Danh mục hóa chất hạn chế sản xuất, kinh
doanh, Danh mục hóa chất cấm. Danh mục này được quy định tại Nghị định
108/2008/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2008 Quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật hóa chất.
Chỉ những cá nhân, tổ chức vì mục đích nghiên cứu khoa học, đảm bảo
quốc phòng an ninh, phòng, chống dịch bệnh và được phép của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mới được sản xuất, kinh doanh. Việc sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán một cách trái phép, trái pháp luật sẽ bị xử lý
nhằm thống nhất quản lý nhà nước về chất độc, ngăn chặn tình trạng lạm
dụng chất độc cũng như bảo vệ sức khỏe người dân, ngăn ngừa tội phạm.
Tội phạm là thể thống nhất của bốn yếu tố: Khách thể của tội phạm;
khách quan của tội phạm; Chủ thể của tội phạm; chủ quan của tội phạm. Tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy,

chất độc cũng bao gồm bốn yếu tố của tội phạm như trên.
Như vậy, theo điều 311 BLHS năm 2015, tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc là hành vi làm ra,
cất giữ, chuyển dịch, mua bán chất cháy, chất độc trái pháp luật hình sự Việt
Nam, gây nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xam phạm an toàn, trật tự công cộng, gây
ra những thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nhân dân hoặc gây thiệt hại
đến tài sản của Nhà nước, tài sản của cá nhân.
1.1.1.1. Khách thể của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc
mua bán trái phép chất cháy, chất độc
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại [28, tr.130]. Bất kỳ tội phạm nào cũng đều xâm
8


phạm đến một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo về
bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội
đó. Những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là những quan hệ được
quy định tại Khoản 1, Điều 8 của BLHS năm 2015, đó là: “ Độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa”. Hành vi của một người không gây thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 thì không
phải là tội phạm. “ Khách thể của tội phạm là yếu tố bắt buộc của tội phạm,
không có thể xâm hại thì không có tội phạm, khách thể của tội phạm có ý
nghĩa quan trọng đối với việc định tội danh” [28, tr.131].
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
chất cháy, chất độc là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về chất
cháy, chất độc, xâm phạm an toàn, trật tự xã hội.

Trong pháp luật hình sự, an toàn công cộng được hiểu là sự an toàn
trong các lĩnh vực giao thông vận tải (giao thông đường bộ, đường sắt, đường
thủy, đường không), trong lao động, trong sinh hoạt đông người, trong một số
lĩnh vực máy tính, quản lý các đối tượng là các tài sản đặc biệt như chất nổ,
chất cháy, chất độc...Đây là những lĩnh vực hoạt động liên quan trực tiếp đến
hoạt động chung của xã hội và mỗi cá nhân. Pháp luật hình sự thông qua bảo
vệ an toàn lĩnh vực này để bảo vệ an toàn cho tính mạng, sức khỏe của cá
nhân nói riêng và cộng đồng nói chung, an toàn về tài sản của Nhà nước, các
thành viên trong xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm này là chất cháy, chất độc. Chất cháy,
như đã nhấn mạnh, là chất có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong
không khí, nước hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất dễ tự
9


bốc cháy ở nhiệt độ không cao như diêm tiêu, phốt-pho, thuốc đạn...Chất độc
ở đây được hiểu là những chất có độc tính rất cao và rất có hại đối với sức
khỏe và tính mạng của con người, nếu bị nhiễm phải một liều lượng nhất định
nào đó (có thể là rất ít). Những loại chất độc quy định tại bảng A như: A-côni-tin và các muối của nó, ni-cô-tin và các muối của nó, các loại muối thủy
ngân…
Khi xác định đối tượng tác động phải có chất cháy, chất độc hay không,
các cơ quan tiến hành tố tụng cần tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên
môn hoặc trưng cầu giám định.
1.1.1.2. Mặt khách quan của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm,
là những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan, bao gồm hành vi
nguy hiểm cho xã hội (hành động hoặc không hành động), hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do
hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đoạn,

phương tiện phạm tội” [28, tr.131].
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội
phạm. Do đó, việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa rất lớn
vì nếu như không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của
tội phạm và đương nhiên sẽ không có tội phạm.
Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện
cơ bản nhất. Các biểu hiện khác như hậu quả của tội phạm, công cụ, phương
tiện…cũng chỉ thể hiện khi có hành vi khách quan. Theo quan điểm truyền
thống, mặt khách quan được quy định trong Luật hình sự có những nội dung
sau:
Thứ nhất: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
10


Thứ hai: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
Thứ ba: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội;
Thứ tư: Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội
(công cụ, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,…).
Hành vi phạm tội là hoạt động khách quan bên ngoài của người phạm
tội. Hành vi được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. Trong
hành động, người phạm tội thực hiện những động tác cơ học của cơ thể mà
luật cấm. Trong không hành động, người phạm tội không thực hiện những
động tác mà mình có nghĩa vụ phải làm và có thể làm được.
Mặt khách quan của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc
mua bán trái phép chất cháy, chất độc thể hiện ở một trong các hành vi sau:
- Hành vi sản xuất trái phép chất cháy, chất độc. Ví dụ như: điện phân
trái phép thuốc pháo (KCLO – Kaliclorua), điều chế trái phép KCN (Xyanua
kali dùng để đãi vàng...), K3ASO4 (Kaliacơnát- nhân ngôn thạch tín);
- Hành vi tàng trữ trái phép chất cháy, chất độc. Ví dụ như: cất giấu các

chất kể trên trong người, trong nhà hoặc nơi nào khác một cách trái phép;
- Hành vi vận chuyển trái phép chất cháy, chất độc;
- Hành vi sử dụng trái phép chất cháy, chất độc. Ví dụ như: sử dụng
chất độc để khai thác nguồn lợi thủy sản, đãi vàng trái phép...
- Hành vi mua bán trái phép chất cháy, chất độc. Đó là hành vi đổi
chác, chuyển nhượng trái phép các chất kể trên bằng tiền hoặc lợi ích vật
chất...
Việc xác định hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
chất cháy, chất độc có trái phép hay không, cần căn cứ vào quy định của Nhà
nước về sản xuất, tàng trữ vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc.
Nếu việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán chất cháy, chất độc
11


được phép thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 311 BLHS
năm 2015.
Do tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất cháy, chất độc và yêu cầu đấu tranh
phòng chống, luật quy định tội này có cấu thành hình thức. Hậu quả của hành
vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất cháy, chất
độc cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc
xác định hậu quả là rất cần thiết. Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tùy trường hợp, người phạm tội
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều
luật.
Các dấu hiệu khác của mặt khách quan như: công cụ, phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, thời gian, không gian, địa điểm phạm tội...cũng
không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành cơ bản của tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc.
1.1.1.3. Chủ thể của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc

mua bán trái phép chất cháy, chất độc
“Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện một tội phạm
đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự” [28,
tr.131]. Các dấu hiệu đặc trưng cho chủ thể của tội phạm được quy định trong
Phần chung của Bộ luật hình sự, còn các dấu hiệu đặc thù của từng tội phạm
cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Chủ thể
của tội phạm phải có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
pháp luật hình sự cấm, có năng lực TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS theo luật
định. Theo Điều 2 BLHS năm 2015: “Chỉ người nào phạm một tội đã được
Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự . Chỉ pháp nhân
thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này
12


mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, ngoài cá nhân,
pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm, song căn cứ các quy định
của BLHS năm 2015, chủ thể của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc là cá nhân
Một cá nhân chỉ trở thành chủ thể của tội phạm nói chung hay chủ thể
của tội tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
chất cháy, chất độc nói riêng khi phải có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật
định. Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Luật hình sự Việt
Nam không quy định thế nào là người có năng lực TNHS mà chỉ quy định
những trường hợp được coi là không có năng lực TNHS: “Người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình” (Điều 21 BLHS năm 2015). Căn cứ vào Điều 12 BLHS năm 2015 và

Điều 311 của Bộ luật này có thể thấy cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc.
Tóm lại, cơ sở pháp lý để xác định chủ thể của tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất độc là Điều 2, Điều 8, Điều
12, Điều 21, Điều 311 BLHS năm 2015.
1.1.1.4. Mặt chủ quan của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng
hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc
Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và các yếu tố
chủ quan. “Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng
thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội” (23; Tr
13


132). Như vậy, nếu mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội
phạm thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi
đó gây nên, bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Lỗi là dấu hiệu cơ bản
nhất của mặt chủ quan của tội phạm và biểu hiện dưới hai hình thức: Lỗi cố ý
(cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp) và lỗi vô ý (vô ý do cẩu thả và vô ý vì quá tự
tin). Nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt Nam, một
người chỉ phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm cho xã hội khi họ có lỗi trong
việc thực hiện hành vi đó. Người thực hiện hành vi bị coi là có lỗi nếu họ có sự
tự do lựa chọn thực hiện hành vi đó trong khi họ có đủ điều kiện lựa chọn xử sự
khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội: “Một hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ
bị coi là có lỗi, nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của
chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn
và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội”.
Động cơ là nhân tố tâm lý bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
tội phạm. Mục đích phạm tội là khuynh hướng, là cái đích mà người phạm tội

mong muốn đạt được. Mặt chủ quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố bắt
buộc của cấu thành tội phạm.
Mặt chủ quan của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua
bán trái phép chất cháy, chất độc được thực hiện do lỗi cố ý. Về mặt lý trí,
người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là hành vi trái pháp luật
hình sự và nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện. Nếu vì lý do
nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải nhận
thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp phạm tội
này.
Động cơ và mục đích phạm tội thực hiện không phải là dấu hiệu bắt
buộc của tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
14


chất cháy, chất độc.
1.1.2. Phân biệt tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc
mua bán trái phép chất cháy, chất độc với một số tội phạm khác
Do được tách từ tội “chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chát độc, chất phóng xạ” nên các dấu hiệu cơ
bản của tội phạm này cũng tương tự như đối với tội “chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ” quy định tại
Điều 305 Bộ luật hình sự năm 2015 và tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, phát tán, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, vật liệu hạt
nhân quy định tại Điều 309 Bộ luật hình sự năm 2015, chỉ khác ở chỗ đối
tượng tác động của tội phạm này là chất cháy, chất độc chứ không phải là chất
phóng xạ hay vật liệu nổ, vật liệu hạt nhân.
1.1.2.1. Những điểm giống nhau
Chủ thể của các tội phạm này giống nhau về độ tuổi là từ đủ 16 tuổi trở
lên mới phải chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện.
Điểm giống nhau thứ hai là đều có lỗi cố ý. Động cơ, mục đích phạm

tội đều không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.
Điêm giống nhau thứ ba là về hình thức của các hành vi đều là sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,…trái phép chất cấm.
1.1.2.2. Những điểm khác nhau
Điểm khác nhau cơ bản giữa các tội đó là đối tượng tác động của tội
phạm
Đối tượng tác động của tội phạm này là chất cháy, chất độc.
Chất cháy là chất có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong
không khí, nước hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất dễ tự
bốc cháy ở nhiệt độ không cao như : diêm tiêu (ka-li-ni-trat), phốt pho, thuốc
đạn…
15


Chất độc là những chất có độc tính rất cao và rất có hại đối với sức
khoẻ và tính mạng của con người, nếu bị nhiễm phải một liều lượng nhất định
nào đó (có thể là rất ít). Những loại chất độc quy định tại bảng A như : A-côni-tin và các muối của nó, kẽm Phốt-pho, Ni-cô-tin và các mối của nó, các
loại muối thuỷ ngân…
Vật liệu nổ bao gồm vật liệu nổ quân dụng và vật liệu nổ công nghiệp,
đó là các loại thuốc nổ và phụ kiện gây nổ (kíp nổ, ngòi nổ, dây nổ, chất nổ là
một bộ phận trong khái niệm vật liệu nổ). Chất nổ có khả năng gây nên một
phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt.
Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những
nhân tố đồng vị không bền của nguyên tố hóa học có khả năng phát ra các
chùm tia Anpha, beeta, Gamma. Tác hại của chất phóng xạ là gây bệnh phóng
xạ đối với người và động vật.
Nếu vì lý do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc
không buộc phải nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không
thuộc trường hợp phạm tội này.
Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa tội danh quy định ở Điều 311 với

tội danh quy định ở các điều 305, 309 BLHS năm 2015 chính là đối tượng tác
động của tội phạm. Đồng thời, chính trong quy định về đối tượng tác động
của tội phạm ở điều 311 BHLS năm 2015 cho thấy có sự khác nhau cơ bản
giữa chất cháy và chất độc. Do vậy, thiết nghỉ nên tách điều 311 thành 2 điều
luật riêng quy định về tội phạm lien quan đến chất cháy và tội phạm lien quan
đến chất độc.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc
Để tìm hiểu kỹ hơn về lịch sử hình thành và phát triển của các quy
phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử
16


dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc, tác giả xem xét việc quy
định gắn với điều kiện, hoàn cảnh phát triển kinh tế xã hội và chính trị của đất
nước qua các thời kỳ cách mạng như sau:
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền nhân dân còn non
trẻ. Đất nước bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá.
Nền kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại phải đối phó với những khó khăn
chồng chất. Trước tình hình đó, ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, chống thực dân Pháp xâm lược. Sau đó,
hàng loạt văn bản pháp luật đã được Nhà nước ta ban hành. Bên cạnh hoạt
động đấu tranh chống thực dân cùng bọn tay sai, phản động, Nhà nước ta còn
hết sức chú trọng việc giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội trong kháng
chiến. Chính vì vậy, pháp luật hình sự của chính quyền nhân dân tập trung
phục vụ thực hiện các nhiệm vụ đó. Trong bối cảnh đó, nhà nước ta đã ban
hành những văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm
phạm xã hội chủ nghĩa như:
- Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/02/1946 về tội phá hoại công sản.
- Sắc lệnh số 223- SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ tiền công.

Trong số các văn bản pháp luật hình sự được ban hành từ 1955 đến
1964 để trấn áp, trừng trị những hành vi phản cách mạng, văn bản có ý nghĩa
quan trọng nhất là sắc lệnh 267 ngày 15/6/1956. Sắc lệnh ban hành nhằm bảo
vệ việc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, cải tạo XHCN, trừng trị
những âm mưu hành động phá hoại làm thiệt hại đến tài sản nhà nước, hợp tác
xã và nhân dân.
Năm 1975, về hình thức ở nước ta tạm thời tồn tại hai nhà nước: Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt
Nam. Mỗi nhà nước có pháp luật riêng. Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban
hành những chính sách, những văn bản pháp luật cần thiết để góp phần thực
17


hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là trấn áp bọn phản cách
mạng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an ninh xã hội ở nửa
đất nước mới giải phóng. Song song với việc chính thức thành lập Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
Miền nam Việt Nam ban hành Sắc lệnh số 03/SL/76 ngày 15/3/1976 quy định
các tội phạm và các hình phạt.
Ngày 25/4/1976, nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất
nước. Cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 1976, Quốc hội họp kỳ đầu, đây là kỳ
họp hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt nhà nước, chính thức hóa việc
thống nhất này. Nghị quyết ngày 02/7/1976 của Quốc hội quyết định đổi tên
nước ta là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong khi chưa có Hiến pháp
mới, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nghị
quyết này giao cho Hội đồng chính phủ xúc tiến dự thảo các luật, pháp lệnh
cần thiết và hướng dẫn thi hành các pháp luật hiện hành của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam cho sát thực tế.
Thực thi Nghị quyết nói trên, trên cơ sở của việc hệ thống hóa pháp luật

hiện hành của hai miền, chính phủ công bố hơn 2 danh mục gồm gần 700 văn
bản pháp luật, trong đó đã có nhiều văn bản pháp luật hình sự được thi hành
thống nhất trong cả nước. Như vậy, sau khi thống nhất nước nhà về mặt nhà
nước, vấn đề thống nhất pháp luật trong cả nước, trong đó có pháp luật hình
sự đã được giải quyết cơ bản và phương hướng hoàn chỉnh sự thống nhất đó
cũng được quy định.
Tuy nhiên, trong suốt gia đoạn này, pháp luật hình sự Việt Nam hầu
như không có quy định nào riêng liên quan đến tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc.
Bộ luật hình sự 1985 kế thừa và phát triển luật hình sự của nhà nước ta
18


×