LỜI MỞ ĐẦU
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng kể: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng trưởng ổn định
trong thời gian dài, các tỉnh thành khai thác được tiềm năng sẵn có của mình, góp
phần rất lớn trong việc nâng cao đời sống của nhân dân…Việt Nam đã dần
khẳng định mình trên trường thế giới với những thành tựu đổi mới trong quá trình
xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO. Đối với một nước có nền kinh tế chủ yếu là nơng nghiệp thì tác động của
WTO vào khu vực này càng rõ nét. Đến nay sau 2 năm vào WTO, Nhà nước phải
thực hiện cam kết mở cửa thị trường nội địa theo yêu cầu cắt giảm thuế và bãi bỏ
hàng rào phi thuế quan. Đồng thời phải thực hiện theo đúng những nguyên tắc mà
tổ chức đã đề ra là nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Không riêng một
ngành, một DN cụ thể nào, tất cả đều phải thực hiện theo những nguyên tắc đó.
Ngành cơng nghiệp mía đường cũng khơng ngoại lệ, họ cũng vận động
theo xu hướng chung đó. Mặc dù ngành cơng nghiệp mía đường trong những
năm qua đã góp phần đáng kể, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của nhiều vùng
nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, việc gia nhập WTO dẫn đến dỡ bỏ bảo hộ sản
xuất sẽ gây ra áp lực lớn, đặt các nhà máy đường Việt Nam trước trước thử thách
gay gắt: đóng cửa hay tiếp tục tồn tại và phát triển? Việc đóng cửa các nhà máy
sẽ gây ra nhiều khó khăn cho một số vùng trồng mía, nhất là vùng nghèo.Vậy
điều cấp bách cần làm bây giờ là gì? Cần phải đổi mới tổ chức quản lý đối với
ngành cơng nghiệp mía đường, tăng cường liên kết kinh tế giữa các tác nhân
trong ngành, đặc biệt là gắn kết người nông dân với các nhà máy chế biến là một
nhiệm vụ quan trọng.
Vì vậy, trước những khó khăn đó,cần phải có những biện pháp để nâng
cao sức canh tranh và hiệu quả trong sản xuất , kinh doanh, đưa ra những chính
sách phù hợp để ngành cơng nghịêp mía đường thực sự là một ngành mũi nhọn
trong khu vực kinh tế nông thơn. Do đó em đã chọn đề tài: “ Tăng cường liên kết
kinh tế trong ngành cơng nghiệp mía đường ở Việt Nam”.
Mục tiêu của đề án nhằm phân tích thuận lợi và khó khăn hiện tại của ngành
cơng nghiệp mía đường. Từ đó đưa ra được những giải pháp tăng cường quan hệ
liên kết giữa các tác nhân trong ngành để đạt được mục tiêu cuối cùng là phát
triển bền vững ngành cơng nghiệp mía đường ở Việt Nam.
Mặc dù trong quá trình thực hiện đề án em đã hết sức cố gắng nhưng do còn
hạn chế về năng lực và thời gian nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ thầy cô và các bạn để bài viết được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
PHẦN I: Những lý luận chung về liên kết kinh tế
1.1.
Khái niệm liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một trong những hình thức hợp tác ở trình độ cao của
con người trong quá trình sản xuât kinh doanh. Hợp tác giữa con người với con
người đã xuất hiện từ khi lồi người xuất hiện thơng qua việc ở theo bầy đàn và
biết cùng nhau săn bắn, hái lượm. Qua thời gian, cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, trình độ hợp tác ngày càng cao hơn. Ngày nay, để tăng hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh thì việc liên kết giữa các đơn vị là một tất yếu không
thể phủ nhận.
Đối với mỗi doanh nghiệp, liên kết kinh tế là một trong những nhân tố quan
trọng hàng đầu tạo ra sự thành công. Vậy liên kết kinh tế là gì? Xét một cách
tổng quát : “ Liên kết kinh tế là sự thiết lập các mối quan hệ giữa chủ thể sản xuất
kinh doanh,giữa các DN thuộc cùng lĩnh vực hoạt động, giữa các đối tác cạnh
tranh, hoặc giữa các doanh nghiệp có các hoạt động mang tính chất bổ sung,
nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh,
tạo ra sức mạnh cạnh tranh, cùng nhau chia sẻ các khả năng, mở ra những thị
trường mới”.
Liên kết kinh tế là một hoạt động rất phức tạp, ngày càng phát triển phong
phú về nội dung, hình thức tổ chức, đối tác tham gia vào quá trình liên kết . Liên
kết kinh tế gồm nhiều loại hình khác nhau như: liên kết ngang (liên kết diễn ra
giữa các DN hoạt động trong cùng một ngành); liên kết dọc (liên kết giữa các
DN trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất mà trong đó mỗi DN đảm
nhận một bộ phận hoặc một số cơng đoạn nào đó); liên kết nghiêng (hợp tác
trong nghiên cứu công nghệ); liên kết theo lãnh thổ; liên kết tồn cầu…mỗi loại
hình đều có những đặc điểm riêng cũng như những ưu điểm riêng của nó.
Liên kết kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia, cụ thể là: tạo
điều kiện để tiết kiệm quy mơ, chi phí; giúp doanh nghiệp làm chủ tốt hơn, phản
ứng nhanh nhạy hơn với những thay đổi của môi trường kinh doanh; tạo điều
kiện tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh
chóng với cơng nghệ mới, giảm thiểu rủi ro, chinh phục những thị trường mới và
tạo điều kiện giảm nhẹ cơ cấu bên trong doanh nghiệp thông qua việc chuyên
môn hố.
Tuy nhiên, liên kết kinh tế cũng có mặt tiêu cực, đó là nó có thể tạo ra sự
độc quyền, khơng khuyến khích cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường,
dẫn đến gây thiệt hại cho người mua và người bán. Ngồi ra, cịn có thể dẫn tới
tình trạng sụp đổ dây chuyền. Để đảm bảo cho sự thành cơng của các liên kết
kinh tế, cần phải có một chính sách minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế.
1.2. Nguyên tắc liên kết kinh tế
Mọi hoạt động muốn đạt được kết quả như mong muốn đều phải thực hiện trên
những quy tắc nhất định.Hoạt động liên kết cũng khơng ngoại trừ.Nó được chi
phối bởi 3 ngun tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc lợi ích kinh tế cao nhất. Các hoạt động trong môi
trường của nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn
nhiều phương thức hoạt động khác nhau để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Vì vậy DN có thể lựa chọn hoạt động độc lập hoặc tham gia vào liên kết
kinh tế cụ thể nào đó khi nó có thể đem lại lợi ích kinh tế cao nhất cho DN. Nếu
đến khi quyền lợi kinh tế mang lại không như mong muốn, DN có thể chấm dứt
hoạt động liên kết.
Thứ hai: Nguyên tắc bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa các thành
viên tham gia tổ chức liên kết. Quyền lợi của các thành viên sẽ theo đúng thoả
thuận ghi trong hợp đồng liên kết và tương ứng với mức độ đóng góp vào tổ chức
liên kết.
Thứ ba: Nguyên tắc pháp lý độc lập giữa các hoạt động liên kết và các hoạt
động khác. Các chủ thể kinh tế có thể đồng thời tham gia nhiều tổ chức liên kết
khác nhau hoặc vừa tham gia liên kết vừa hoạt động kinh tế độc lập.
1.3. Vai trò của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một phương thức đã xuất hiện từ lâu trong hoạt động
kinh tế, nhưng trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, liên kết kinh tế đã và
đang trở thành nhu cầu cấp bách, xuất hiện ở mọi mặt của đời sống xã hội. Liên
kết kinh tế đóng góp vai trị khơng nhỏ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc
biệt ở lĩnh vực công nghiệp.
1.3.1.Khắc phục những bất lợi về quy mô
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp có một hoặc một
vài lĩnh vực hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù. Bên cạnh đó là một loạt các
hoạt động phụ mà bản thân doanh nghiệp khơng thực hiện được, nhưng nó lại
khơng thể thiếu đối với dây chuyền sản xuất chính. Do đó, nếu liên kết với DN
khác thì quá trình sản xuất sẽ diễn ra nhanh mà lại tiết kiệm chi phí, đạt được
mục tiêu tối đa hố lợi nhuận. Thay vì tổ chức sản xuất đầy đủ tất cả các loại phụ
tùng đó, các nhà máy này đặt gia công ở từng cơ sở sản xuất cụ thể. Như vậy sẽ
tiết kiệm được một khoản chi phí khổng lồ. Hình thức này đã xuất hiện từ lâu và
hiện đang rất thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới. Như hãng Ford, họ đã đưa ra
mục tiêu tiết kiệm chi phí sản xuất đến năm 2010, mỗi năm 6 tỷ USD, và họ đã
thực hiện bằng cách lên kế hoạch tăng gấp đôi trị giá linh kiện mua từ Trung
Quốc, mỗi năm dự kiến đạt khoảng 2,3 tỷ USD.
Như vậy ta càng khẳng định được một điều “to không phải là tốt”, quan trọng
là mỗi doanh nghiệp phải tự tìm ra được phương thức kinh doanh hợp lý.
1.3.2. Phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường
Không chỉ khắc phục được những bất lợi về quy mô, liên kết kinh tế giúp
DN phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường:
Thứ nhất, nhu cầu thị trường là luôn luôn thay đổi. Do vậy, để tồn tại, doanh
nghiệp phải thay đổi phù hợp với nhu cầu của thị trưịng, có thơng tin và khả
năng triển khai nhanh các phương án sản xuất mới. Chính sự liên kết sẽ giúp cho
DN thực hiện được điều đó.
Thứ hai, liên kết kinh tế giúp cho DN tiêu thụ sản phẩm của mình được nhanh
hơn do có sự liên kết giữa hệ thống các nhà thương mại với nhà sản xuất thơng
qua hình thức đại lý bán hàng. Do đó sản phẩm của DN được đưa vào thị trường
một cách nhanh chóng hơn, kịp thời hơn.
Thứ ba, liên kết kinh tế giúp cho DN có thể tiếp cận nhanh với các công nghệ
và kỹ thuật mới, nhờ sự phối hợp với các nhà nghiên cứu ở các trường đại học
hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ngược lại, sự thay đổi của thị trường cũng thúc đẩy liên kết kinh tế. Trong
thực tế, khi những thay đổi của môi trường vượt ra khỏi khả năng đáp ứng của
DN, buộc các DN phải tìm cách liên kết với nhau để tìm kiếm sự hỗ trợ về vốn và
công nghệ, kể cả việc tiến hành đặt gia cơng sản xuất bên ngồi. Mục tiêu cuối
cùng là duy trì sự phồn thịnh của DN và đưa doanh nghiệp lên một vị thế mới.
1.3.3. Giảm rủi ro trong kinh doanh
Ngồi hai lợi ích trên, liên kết kinh tế cịn góp phần làm giảm rủi ro trong kinh
doanh. Phát triển sản xuất là một q trình vận động khơng ngừng, tích tụ tập
trung rồi lại chia tách, sát nhập, để đáp ứng nhu cầu xã hội và phù hợp với khả
năng nội tại của DN, với mục tiêu tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất mà lại giảm
được rủi ro trong kinh doanh.
Trước đây, hai doanh nghiệp là hai đối thủ cạnh tranh của nhau trên cùng
một thị trường với cùng một loại sản phẩm. Nay, khi họ liên kết lại, cùng thoả
hiệp phân chia lại thị trường, cùng hưởng lợi theo tỷ lệ đóng góp. Như vậy liên
kết kinh tế làm giảm đi sự cạnh tranh trong môi trường kinh doanh đầy biến
động.
Khi đứng trước một dự án lớn, nhiều khi vượt quá khả năng sản xuất của
doanh nghiệp. Nếu DN bỏ lỡ thì sẽ mất cơ hội làm ăn, nhưng nếu DN đơn độc
một mình triển khai thực hiện dự án, nhiều khi không kham nổi sẽ dẫn đến hiệu
quả thấp, thậm chí thua lỗ dẫn tới hậu quả đáng tiếc. Để tránh hiện tượng này,
DN đã mời các DN khác tham gia cùng thực hiện. Như vậy, nếu xảy ra rủi ro,
chúng sẽ được phân tán cho các DN theo tỷ lệ đóng góp ghi trong hợp đồng liên
kết.
Phần II: Thực trạng liên kết kinh tế trong ngành cơng nghiệp
mía đường ở Việt Nam
2.1. Mơ hình liên kết bốn nhà
Sau Quyết định 80/2002QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ,
mơ hình liên kết giữa bốn nhà: nhà nông, nhà công nghiệp, nhà khoa học, nhà
nước đã dần hình thành. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành và phát triển, mơ
hình cịn tồn tại nhiều vấn đề rất cơ bản cần được giải quyết. Để đạt được hiệu
quả như mong muốn cần phải thực hiện theo những quy tắc nhất định.
2.1.1. Mục đích chung của mơ hình liên kết bốn nhà
Một là phát huy sức mạnh tổng hợp của “các nhà”, tận dụng có hiệu quả
cao nhất tiềm năng, lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp của nước ta nhằm tạo
ra ngày càng nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường,
xuất khẩu thu ngoại tệ lớn cho đất nước, đẩy mạnh cơng nghiệp hố nơng nghiệp
và nơng thơn.
Hai là, tăng cường quản lý Nhà nước cải cách hành chính - đưa nền hành
chính thực sự vì dân phục vụ chứ khơng phải chủ yếu “hành dân là chính” như
lâu nay. Mặt khác, từ đó phát triển khoa học cơng nghệ, gắn khoa học với sản
xuất nông nghiệp, đưa các nhà khoa học về trực tiếp phục vụ nông dân, nông
thôn.
Ba là, tăng cường sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà kinh doanh hướng
vào mục tiêu. đối tượng chung là phục vụ sản xuất nông nghiệp - là nhà nông, và
thơng qua đó mà tạo điều kiện để mọi nhà kinh doanh đều phát triển kinh doanh
có hiệu quả.
Bốn là, về phương thức hành động không phải chỉ liên kết song phương mà
còn liên kết tổng hợp, tác động qua lại giữa các “nhà” với nhau, hỗ trợ cho mỗi
nhà thực hiện tốt vai trò, chức năng hoạt động của mình.
2.1.2. Ngun tắc liên kết giữa các nhà
Mụch đích chung chỉ có thể đạt được khi sự liên kết diễn ra theo nguyên tắc
cơ bản sau đây:
Với nhà nước: Thực hiện được các nguyên tắc quản lý kinh tế vĩ mô về kinh tế
như: tập trung dân chủ; phân công phân cấp mạnh cho cấp dưới và cơ sở kinh
doanh; vận dụng có hiệu quả các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật,
phạm trù của kinh tế thị trường; hiệu quả kinh tế; kết hợp hài hoà các lợi ích nhà
nước, tập thể,cá nhân người lao động…
Với các “nhà” khác: Tuân thủ pháp luật; thích nghi với thị trường; tự nguyện,
bình đẳng, dân chủ; hiệu quả kinh doanh; và cùng có lợi.
2.2. Chuỗi cung ứng trong ngành cơng nghiệp mía đường ở Việt Nam
2.2.1. Đặc điểm các tác nhân trong chuỗi
Chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp mía đường bao gồm các tác nhân
chính: các nhà cung ứng nguyên vật liệu, các nhà máy chế biến,các lò đường thủ
công và các nhà phân phối.
2.2.1.1. Nhà cung ứng nguyên liệu
Do điều kiện khí hậu và đất đai ở Việt Nam nên cây mía rất dễ sinh trưởng,
phát triển. Tuy nhiên, chúng chủ yếu được trồng trên những thửa ruộng nhỏ, chỉ
có một số ít vùng chuyên canh cây mía, là vùng nguyên liệu tập trung cho các
nhà máy chế biến. Mía được trồng ở một số nơng trường quốc doanh( Lam Sơn
-Thanh Hố), cịn lại phần lớn là do các hộ nông dân sản xuất với qui mô nhỏ và
không đồng đều, xa khu chế biến. Quy mô của các hộ chỉ dưới 0,5 ha/hộ, riêng
khu vực ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có diện tích 5 ha/ hộ. Do khơng
tập trung nên khi thu hoạch rất tốn cơng, chi phí về nhân công và vận chuyển.
2.2.1.2. Các nhà máy chế biến
Hầu hết tại các nhà máy được xây dựng mới và mở rộng, công nghệ và
thiết bị chế biến đều được nhập khẩu từ các nước phát triển như Ơxtrâylia,
Pháp, Anh, Nhật…Cơng nghệ và thiết bị tiên tiến chủ yếu áp dụng ở các nhà máy
có quy mơ lớn. Cịn ở những nhà máy quy mơ nhỏ và trung bình, chủ yếu là các
công nghệ và thiết bị đơn giản nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ…Những nhà
máy sử dụng thiết bị có nguồn gốc nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ sản xuất được
đường thô và đường trắng RS.
Trong tổng số các nhà máy đường hiện có, hầu hết các nhà máy quy mô
nhỏ( <1500 TMN) đều thuộc sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, Trung ương
hoặc địa phương. Các nhà máy được cổ phần hố có quy mơ lớn hoặc trung
bình(>1500 TMN). Trong khi đó các nhà máy liên doanh hoặc có vốn đầu tư
nước ngồi thường là những nhà máy lớn( >2500 TMN).
Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến đường là khá lớn, đầu tư bình
qn cho một tán cơng suất là 130 triệu đồng( khoảng 9 000 USD/TMN). Tuy
nhiên, đây vẫn là mức khá thấp so với suất đầu tư tư bản của thế giới( từ 10 000 –
14 000 USD/TMN).
Theo số liệu của Bộ NN và PTNT, hiện nay các nhà máy đã tạo việc làm
cho khoảng 35 000 lao động công nghiệp chuyên nghiệp trong chế biến đường,
sản phẩm sau đường và bên cạnh đường. Bình quân để tạo ra một lao động công
nghiệp chuyên nghiệp, ngành cần đầu tư khoảng 18 000 USD. Như vậy chi phí
tạo ra một vị trí lao động chuyên nghiệp trong ngành là không rẻ. Hơn thế nữa,
các nhà máy xây dựng xa vùng nguyên liệu nên gặp nhiều khó khăn trong q
trình sản xuất, tăng chi phí và đẩy giá đường lên một mức mới cao hơn.
2.2.1.3. Các lò đường thủ cơng
Cây mía đã có mặt từ rất lâu tại Việt Nam. Vì nhu cầu trong sản suất và khi
đó khoa học kỹ thuật chưa phát triển nên các lò đường thủ công đã ra đời. Dần
dần, các khu vực cơng nghiệp xuất hiện, tuy nhiên các lị đường thủ cơng vẫn tồn
tại, thậm chí ngay bên cạnh các nhà máy đường và cạnh tranh trực tiếp với các
nhà máy đường khi thu mua nguyên liệu.
Sản xuất đường thủ công chủ yếu tập trung ở ĐBSCL, một số tỉnh miền
Trung do tính ưu việt của nó và cũng do địa hình của từng vùng. Hoạt động sản
xuất đường tiểu thủ cơng có mức đầu tư thấp nên có thể phần nào cạnh tranh trực
tiếp với các nhà máy đường công nghiệp. Hơn nữa, điều kiện giao thơng của
vùng trồng mía rất khó khăn, phương tiện vận chuyển thơ sơ mà các nhà máy chế
biến lại ở xa nên các lò đường thủ cơng có ưu thế hơn. Thường tại mỗi địa bàn
như vậy sẽ hình thành các lị đường thủ cơng phục vụ nhu cầu tại chỗ. Tuy
nhiên, tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu của các nhà máy đường là rất lớn, khoảng 20
mía/ 1đường, gấp đơi các nhà máy chế biến đường.
2.2.1.4. Nhà phân phối
Tham gia vào hệ thống phân phối có hàng trăm đại lý, nhà bán bn, bán lẻ
trên phạm vi cả nước. Phần lớn nhà bán buôn mua hàng tận nơi sản xuất, thậm
chí đến tận đường biên giới Tây Nam hoặc phía Bắc để mua đường nhập lậu. Các
nhà buôn này cung cấp đường cho những người bán lẻ. Các nhà máy lớn cũng có
các nhà kho và hệ thống đại lý lớn để bán sản phẩm nhanh hơn.
Ngồi ra cịn tồn tại các doanh nghiệp thương mại Nhà nước, họ giữ vai trò
khá quan trọng. Nhà nước giao cho họ một phần vai trò “điều tiết” thị trường
thông qua các hoạt động thương mại để hạn chế hiện tượng biến động giá quá
mạnh ở thị trường trong nước. Bên cạnh đó, các cơng ty thương nghiệp của Nhà
nước cũng đóng vai trị đáng kể trong việc cung cấp sản phẩm đến những vùng
sâu, vùng xa, đi lại khó khăn, những nơi mà các doanh nghiệp tư nhân thường
khơng vươn tới vì những động lực về kinh tế.
2.2. Quan hệ liên kết kinh tế giữa các tác nhân trong chuỗi
Mối quan hệ quan trọng nhất quyết định tính hiệu quả trong sản xuất đường
đó là mối quan hệ giữa nhà cung ứng và nhà sản xuất. Bên cạnh đó, mối quan hệ
giữa các nhà máy chế biến và hệ thống phân phối đường cũng đóng vai trò đáng
kể.
2.2.1. Giữa nhà cung ứng và nhà máy chế biến
Doanh nghiệp có thể tồn tại, phát triển sản xuất khi có đầy đủ các yếu tố
đầu vào. Các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cũng tồn tại và tiếp tục sản xuất ổn
định khi những gì mình sản xuất ra đã được tiêu thụ hết. Do vậy họ có mối quan
hệ rất mật thiết với nhau.
Đối với các nhà máy đường, hoạt động sản xuất chỉ được diễn ra khi có
nguồn ngun liệu là cây mía. Tuy nhiên, khi nguồn nguyên liệu dồi dào, các nhà
máy lại ép giá hoặc sản xuất không kịp do công suất q thấp. Khi giá cao thì lại
khơng có mía để bán và các nhà máy dư thừa cơng suất. Đó là một thực tế đang
rất cần được giải quyết.
Các tỉnh khu vực ĐBSCL đã bắt đầu bước vào vụ ép mía từ đầu tháng 9.
Tuy nhiên, đã nhiều năm nay, ngành mía đường phải đối mặt với tình trạng thiếu
- thừa nguyên liệu, sự tranh mua giữa các nhà máy mà vẫn chưa có biện pháp
khắc phục hữu hiệu.
Tỉnh Hậu Giang “khai mạc” niên vụ mía đường 2008 - 2009 với 200.000
tấn mía cịn non phải thu hoạch sớm để tránh lũ trong bối cảnh đường nhập lậu
tràn ngập biên giới Tây Nam, “cám dỗ” cả doanh nghiệp sản xuất, bn bán
đường.
Ước tính, tồn vùng ĐBSCL có khoảng 64.573ha mía, giảm 4.527 ha
so với niên vụ 2007 - 2008 và có 10 nhà máy đường hoạt động với tổng cơng suất
24.000 tấn mía/ngày. Nỗi lo của nơng dân cũng như các doanh nghiệp chế biến là
giá đường sản xuất trong nước thấp do đường nhập lậu tràn lan trong khi giá
thành sản xuất tăng cao. Các nhà máy đường ở ĐBSCL vừa phải đối đầu với
đường nhập lậu, vừa phải giữ mức giá tiêu thụ mía cho nơng dân ở mức cao nhất
nên gặp rất nhiều khó khăn.
Tình trạng này khơng phải chỉ có ở năm nay, cuối vụ ép năm 2005 - 2006,
các nhà máy đường đẩy giá lên 600-700đ/kg nên nông dân thắng lớn và khơng
ngần ngại mở rộng diện tích. Niên vụ 2006 - 2007, theo Hiệp hội Mía đường Việt
Nam, diện tích mía ở ĐBSCL đạt trên 65.000ha, tăng hơn 5.300ha so với vụ
trước. Vì vậy, cung vượt cầu, khủng hoảng thừa nguyên liệu đe doạ người trồng
mía từng ngày.
Vào đầu vụ, các nhà máy đường trong vùng vận động nông dân trồng mía
khơng nên thu hoạch sớm mía non. Vào dịp cuối tháng 9, đầu tháng 10, giá mía
cịn cao, bà con khơng bán, cố giữ lại chờ mía chín, chữ đường cao thì mía lại
liên tục giảm giá. Giá mía rớt một cách thảm hại, từ 360-400đ/kg đầu tháng 10,
đến giữa tháng tụt xuống 300-340đ/kg và hiện nay chỉ cịn 260-280đ/kg. Cuối
cùng, người nơng dân mất cả chì lẫn chài.
Vào những ngày cuối tháng 11, hàng trăm chiếc ghe có trọng tải trên 40
tấn chờ bán mía cho Casuco đã chờ chực nhiều ngày. Tại Nhà máy đường Vị
Thanh có trên 100 chiếc ghe tải trọng nhiều mức, đậu gần khắp các tuyến kênh để
chờ ra bến cân mía. Những người nơng dân trồng mía lâu năm ở Mỹ Tú (Sóc
Trăng) cịn nhớ như in mùa mía năm 1999-2000 giá rớt thảm hại. Tình cảnh năm
nay đang đe doạ lặp lại. Đã vào vụ hơn tháng nay, nông dân chờ mỏi mắt vẫn
khơng thấy ghe mua mía từ các tỉnh Long An, Bến Tre, Trà Vinh... hối hả về mua
mía. Ngược lại, nhà máy đường trong tỉnh ghe lái mía đổ về tấp nập, chen kín cả
bến sơng. Mức cung ứng mía nguyên liệu lên tới 8.000 tấn/ngày, trong khi đó,
cơng suất nhà máy tối đa chỉ 2.000 tấn mía/ngày.
Sự cam kết mua mía của các nhà máy đường cho nơng dân có ấn định theo
thời gian. Dù giá đường bán ra tại các nhà máy xuống thấp nhất trong hơn một
năm qua (7.000-7.5000đ/kg), nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với thế giới. Giá
mía phụ thuộc rất lớn vào giá đường. Tết nguyên đán sắp về, năm nào cũng vậy,
nhu cầu đường để làm bánh kẹo, tiêu dùng rất lớn. Tuy vậy, theo các nhà kinh tế,
giá đường rất khó tăng lên, thậm chí các nhà máy đường cịn phải đối mặt với
tình trạng tồn kho. Từ thực tế vụ ép năm nay, mía nguyên liệu cung đang vượt
cầu, người trồng mía ở ĐBSCL có lặp lại “thảm cảnh” của mấy năm trước: Để
mía chết khơ giữa đồng?
Hiện tại đang tồn tại nhiều vùng trồng mía với các xưởng thủ công trước khi
các nhà máy chế biến đường được xây dựng. Nhiều hộ trồng mía có thể lựa chọn
bán nguyên liệu cho nhà máy hoặc các lò đường thủ công. Do vậy mối quan hệ
giữa các hộ trồng mía và nhà máy chế biến có thiên hướng theo thị trường tự do.
Thông thường, các xưởng thủ công thu mua mía trực tiếp từ các hộ nơng dân theo
giá thị trường mà khơng địi hỏi phải có một mối quan hệ chặt chẽ .
Các nhà chức trách không khỏi băn khoăn trước vấn nạn đường nhập lậu; vấn
đề giá trần, giá sàn mía ngun liệu; tình trạng “tư thương làm chủ khâu trung
gian” và vốn hoạt động - vấn đề “muôn thuở”, nhất là trong bối cảnh lãi suất cao,
hạn mức tín dụng bị “siết cị” như lúc này. Trên cả nước, vùng ĐBSCL là nơi duy
nhất có “thị trường” ở khâu tiêu thụ mía ngun liệu, nơng dân bán được mía giá
cao nhưng do chưa được tổ chức hợp lý nên “nóng lạnh thất thường”. Hiệp hội
mía đường đã cố gắng nhưng chưa làm được gì nhiều cho doanh nghiệp hội viên,
các nhà máy cần “ngồi lại” với bà con nơng dân, làm sao cho bà con có lãi thì
mới giữ được vùng nguyên liệu, và nên chăng cần thành lập hội của những người
trồng mía, làm đường, tiêu thụ đường?
Doanh nghiệp chưa chịu đầu tư thật sự cho nông dân, chính quyền cần quy
hoạch và giao vùng nguyên liệu cho doanh nghiệp để quan hệ sản xuất mía - chế
biến đường gắn bó, có trách nhiệm và chủ động trong chương trình đầu tư. Sự
đồn kết rất thấp giữa các DN chế biến đường, từ giá cả thiếu thống nhất, thiếu
cập nhập thông tin nên việc phối kết hợp cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Ngành cơng nghiệp mía đường đang gặp nhiều cái khó và tới đây cịn khó
khăn hơn vì khấu hao nhà máy chậm, lộ trình gia nhập WTO ngày càng sâu rộng
hơn, phải “gánh” thêm quota nhập khẩu đường, đường lậu Thái Lan “nhập ào ạt”
vào Việt Nam là đường bị phạt quota do sản lượng dư thừa. Các nước gia nhập
WTO sớm được ưu đãi nhiều hơn (tới 70%), như Úc đã khống chế sản lượng ở
mức 150 tấn/ha nhưng mía của họ chữ đường cao; trong khi sản lượng, chất
lượng mía của ta thấp, tạp chất nhiều nhưng đầu tư và sản xuất đều cao, dẫn đến
giá thành cao, khó bán… Mỗi doanh nghiệp một vẻ nhưng cái khó, cái dễ na ná
nhau. Việc trồng, thu mua, chế biến và kinh doanh đường còn manh mún, chưa
gắn kết giữa doanh nghiệp và nông dân, vì thế, rất cần có “nhạc trưởng” trên mặt
trận này.
Cơng ty CPMĐ Lam Sơn và nhà máy đường Phụng Hiệp đóng vai trị quan
trọng trong chuỗi các doanh nghiệp sản xuất mía đường. Vì vậy hai DN này sẽ
mơ tả rõ hơn về mối quan hệ giữa doanh nghiệp - người nông dân và sự khác biệt
trong việc tạo lập mối quan hệ với người nông dân giữa các doanh nghiệp này.
CƠNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG LAM SƠN
MƠ HÌNH KÊNH TIấU TH
Hộ NÔNG DÂN
15%
HợP TáC XÃ
80%
5%
THU GOM
CHủ HợP ĐồNG
100%
100%
100%
CÔNG TY
LAM SƠN
20%
80%
BáN BUÔN
80%
BáN Lẻ
100%
NGƯờI TIÊU
DùNG
20%
NHà MáY CHế
BIếN THựC PHẩM
Trước kia, Công ty CPMĐ Lam Sơn trực tiếp hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
với hộ nông dân nhưng thực chất việc giao dịch buôn bán với hộ thông qua hai
lực lượng chủ yếu là hợp tác xã và chủ hợp đồng. Đầu tiên, chủ hợp đồng và các
hộ nông dân thành viên đến với nhau hoàn toàn tự nguyện, thông thường theo
quan hệ thân tộc, giúp đỡ nhau là chính. Sau, mối quan hệ ngày càng trở nên
phức tạp. Một số chủ hợp đồng áp đặt giá mua cho hộ thiếu thông tin, những hộ
vùng xa, chiếm dụng tiền bán mía của hộ,
Sau này, để tránh ảnh hưởng xấu, công ty đã xuống tận địa bàn nghiên cứu tổ
chức lại sản xuất, hướng dẫn thành lập một số hợp tác xã và củng cố bộ phận cán
bộ nông vụ, hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư ứng trước… Vụ trồng mía 2008 mặc dù gặp
nhiều khó khăn về nguồn vốn, cơng ty CPMĐ Lam Sơn (Thanh Hố) đã đầu tư
ứng trước khơng tính lãi trên 36 tỷ đồng giúp các hộ trồng mía mở rộng diện tích
trồng mía giống mới và thâm canh tăng năng suất. Ngoài đầu tư ứng trước, cơng
ty cịn cung ứng hơn 21.000 tấn phân bón vi sinh các loại do các nhà máy phân
bón của công ty sản xuất cho các hộ trồng và chăm sóc mía. Cơng ty ký hợp đồng
với hộ, ln giữ chữ “tín” và chấp hành đúng các thoả thuận của hợp đồng. Vai
trò của người thu gom rất mờ nhạt.
Cùng với đầu tư ứng trước các loại vật tư, phân bón trong từng vụ,
Cơng ty đang thực hiện đầu tư ứng trước 40 tỷ đồng từ nay đến năm 2013 thực
hiện dự án xây dựng các cơng trình tưới thấm nhỏ giọt cho mía đồi đối với các
đơn vị hợp đồng trồng mía bán cho cơng ty. Theo đó, năm 2008 cơng ty đã lắp
đặt 4 cơng trình tưới cho 130 ha, dự kiến đến năm 2009 sẽ lắp đặt mở rộng diện
tích tưới thấm nhỏ giọt lên 1.000 ha và đến năm 2013 sẽ có 5.000 ha (chiếm 30%
diện tích) mía vùng đồi Lam Sơn được tưới thấm theo công nghệ mới.
Hình thức đầu tư ứng trước vốn khơng tính lãi với mức bình quân trên 40
tỷ đồng/năm giúp các hộ trồng mía có điều kiện mở rộng diện tích, thâm canh
tăng năng suất mía đã phát huy hiệu quả tích cực. Tồn vùng đã có gần 30.000 hộ
nơng dân hợp đồng trồng mía cho Cơng ty. Vụ ép 2008 - 2009 vừa kết thúc,
Công ty CPMĐ Lam Sơn đạt sản lượng mía nguyên liệu trên 1,1 triệu tấn, chế
biến được trên 120.000 tấn đường tinh luyện, cao nhất từ trước đến nay.
Ngồi ra, Cơng ty cịn tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật
thâm canh mía cho nơng dân và trích một phần lợi nhuận hỗ trợ các địa phương
trồng mía xây dựng trường học, trạm xá...
Bí quyết lớn nhất, rõ ràng nhất tạo nên sự thành công của Cơng ty
CPMĐ Lam Sơn hơm nay chính là sự gắn kết giữa công ty với vùng nguyên liệu,
sự gắn kết tổ chức hợp tác ổn định bền vững với sản xuất nông nghiệp nông thôn
và nông dân trong suốt 20 năm qua.
Thành công của Công ty CPMĐLam Sơn càng được khẳng định khi công ty
trở thành đơn vị đầu tiên trong ngành mía đường thực hiện bán cổ phần cho nơng
dân. Hiện đang có tới hơn 1.000 hộ trồng mía là cổ đơng có cổ phần tại Cty mía
đường Lam Sơn và 20.000 hộ nông dân đã được mua cổ phần ưu đãi (chiếm tới
22,7% số cổ phần) giống như các công nhân của công ty. Để đáp ứng yêu cầu của
hội nhập, tháng 12/2006, cổ phần của Công ty CPMĐ Lam Sơn đã được niêm yết
trên thị trường chứng khoán
NH MY NG PHNG HIP
Mễ HèNH KấNH TIấU TH
Hộ NÔNG DÂN
4%
1%
HợP TáC XÃ
95%
THU GOM
CHủ HợP ĐồNG
100%
100%
100%
NHà MáY CHế
BIếN Vị THANH
1%
95%
4%
NHà MáY CHế
BIếN THựC PHẩM,
CÔNG TY KHáC
10%
BáN BUÔN
90%
BáN Lẻ
100%
NGƯờI TIÊU
DùNG
Theo khảo sát, vụ 2002 – 2003, tỷ lệ hộ ký hợp đồng với nhà máy trong mẫu
điều tra ở Phụng Hiiệp còn rất thấp, chỉ bằng 15% so với 100% số hộ ở Lam
Sơn. Do nhà máy mua theo giá tại cầu cảng mà hộ nông dân thiếu phương tiện
vận tải, không thể vận chuyển đến tận nhà máy nên nhà máy vẫn ký hợp đồng
trực tiếp với hộ nhưng thực tế người sản xuất khơng được hưởng hồn toàn mức
giá ký kết. Hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do hộ phải bán qua
người thu gom, người thu gom sau khi mua mía của hộ, cầm hợp đồng hộ ký với
nhà máy và vận chuyển mía bán cho nhà máy tại cầu cảng nhà máy và nguyên
nhân thứ hai là do chữ đường thấp. Từ đó cho thấy sự liên kết giữa hộ nơng dân
và nhà máy qua hợp đồng chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng nhiều hộ khơng trả
nợ sau khi thu hoạch mía. Người thu gom đóng vai trị rất quan trọng.
V ụ mía 2006 – 2007, những nơng dân trồng mía ở Phụng Hiệp (Hậu Giang)
mất ăn mất ngủ vì tình trạng mía q lứa, trổ cờ, rồi chết dần chết mịn mà khơng
bán được. Nhiều hộ nóng lịng chạy đi khắp nơi tìm thương lái kêu bán mía,
nhưng ai cũng lắc đầu, trong khi tiền vật tư, công lao động, nợ ngân hàng… bao
vây không đường gỡ?
Hiện nay, nông dân đứng ngồi khơng n vì mía q ngày thu hoạch từ lâu
nhưng khơng bán được, giá mía thì liên tục sụt giảm. Mía quá lứa để lâu làm
chữ đường trong mía giảm trầm trọng. Trong những ngày này, tại vùng mía
chín sớm Phụng Hiệp khi các nhà máy đường cơng suất lớn chưa vào vụ thì đã
có lác đác ghe mua mía về bán cho lị đường thủ cơng.
Như vậy, để phát triển đồng bộ sản xuất nguyên liệu với ngành công nghiệp chế
biến đường, các nhà máy chế biến phải gắn bó mật thiết hơn với vùng nguyên
liệu. Sản xuất - chế biến - tiêu thụ phải nằm trong một chuỗi ngành hàng, có tổ
chức liên kết chặt chẽ, bền vững và có hiệu quả.
2.3.2. Giữa nhà máy chế biến và hệ thống phân phối tiêu thụ
Mối quan hệ giữa nhà máy chế biến và các đại lý tiêu thụ đóng vai trị rất
quan trọng. Các cơng ty thương mại Nhà nước có khả năng tài chính, mạng lưới
cơ sở và hệ thống phân phối rất tốt. Thị trường thiếu vắng những tác nhân có tầm
cỡ cả về cung lẫn cầu. Đơn vị bán nhiều nhất là Biên Hồ cũng khơng vượt q
14% tồn bộ thị trường. Đơn vị tiêu thụ mạnh nhất là Vinamilk không quá 10%.
Đơn vị bán buôn nhiều nhất là tổng cơng ty thương mại Sài Gịn với khoảng 100
nghìn tấn, chiếm 15% thị trường. Cạnh tranh khá gay gắt giữa các nhà máy
đường, giữa đường công nghiệp với đường thủ công. Nhiều niên vụ đã xảy ra
hiện tượng bán phá giá để tranh giành thị trường của các ngành cơng nghiệp thực
phẩm.
Như vậy, có thể thấy trong tồn bộ chuỗi ngành hàng mía đường khơng có
một tác nhân nào đóng vai trị chủ đạo, có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động
của tồn chuỗi. Thay vào đó là các mối quan hệ đan xen, ràng buộc lẫn nhau, vừa
cạnh tranh vừa liên kết giữa các tác nhân. Trong đó, quan trọng nhất và có ý
nghĩa nhất là mối liên hệ nhà cung ứng và nhà máy chế biến. Việc giải quyết một
cách hài hoà mối quan hệ này sẽ góp phần quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của ngành cơng nghiệp mía đường về lâu dài.
Phần III: Giải pháp tăng cường mối quan hệ liên kết kinh tế trong ngành cơng
nghiệp mía đường ở Việt Nam
3.1. Đối với Nhà nước
Nhà nước ban hành các chính sách hỗ trợ người nông dân về mọi mặt
như cấp kinh phí để phát triển trồng mía, ưu tiên phát triển quy hoạch vùng trồng
mía, phát triển đường giao thơng, hệ thống thuỷ lợi để tăng diện tích mía được
tưới, giảm thuế…Bên cạnh đó, nhằm hỗ trợ nơng dân tiêu thụ sản phẩm mía,
Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ/TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002
về chính sách khuyến khích tiêu thụ nơng sản hàng hố qua hợp đồng. Quyết
định đã đẩy mạnh liên kết giữa nhà máy chế biến và hộ nông dân thông qua quy
định được đề ra trong nghị quyết.
Nhà nước nhanh chóng hồn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến liên
kết kinh tế như vấn đề cơng ty mẹ cơng ty con, tập đồn kinh tế, sửa đổi pháp
lệnh hợp đồng kinh tế…theo hướng phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế và tồn
cầu hố, xây dựng khung pháp lý tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế trong việc tham gia hợp tác kinh doanh.
Thiết lập một trung tâm thông tin DN, cung cấp chính xác và đầy đủ thơng tin
cơ bản về DN trên phạm vi toàn quốc, để các đối tác muốn tham gia liên kết có
điều kiện tìm hiểu và nắm bắt được những thông tin cần thiết, qua đó sẽ tạo lịng
tin cho các DN muốn tham gia liên kết.
3.2. Phát triển vùng nguyên liệu tập trung
Thực trạng “tranh mua, tranh bán” giữa nhà máy và người nơng dân
khơng giảm, người nơng dân ít khi tự đem mía bán cho nhà máy, thương lái đóng
vai trị trung gian chính giữa nhà máy và hộ nơng dân gây lên nhiều bất lợi cho cả
hai bên. Vì vậy cần phải phát triển vùng nguyên liệu tập trung.
Rà soát lại quy hoạch, tập trung sản xuất mía tại các vùng thuận lợi như
Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên…Kiểm tra đất đai, đảm bảo vùng nguyên
liệu cung cấp đủ mía đáp ứng 100% cơng suất cho các nhà máy có tiềm năng.
Trường hợp thừa mía nguyên liệu trong vùng, nên có sự hợp tác chuyển mía cho
những nhà máy đường lân cận đang thiếu nguyên liệu. Đối với nhà máy khơng có
đủ ngun liệu hoặc khơng có điều kiện phát triển vùng nguyên liệu, cần lập
phương án di chuyển, sắp xếp lại theo quy hoạch của toàn ngành.
Nhà máy hỗ trợ một phần kinh phí để phát triển giống tốt, giúp nông dân mua
giống mới, áp dụng các biện pháp tưới tiêu, cơ giới hoá khâu làm đất để nâng cao
năng suất mía. Hỗ trợ nơng dân khai hoang mở rộng vùng ngun liệu trồng mía.
Cơng ty tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật thâm canh mía cho nơng
dân và trích một phần lợi nhuận hỗ trợ các địa phương trồng mía xây dựng cơ sở
hạ tầng. Ngồi ra, cơng ty cịn tổ chức các hiệp hội, đại diện cho người nông dân
bảo vệ lợi ích của họ, gắn bó trách nhiệm giữa nhà máy và nơng dân trồng mía
bán ngun liệu cho nhà máy, cùng nhau đóng góp vốn để xây dựng quỹ phòng
chống rủi ro, hỗ trợ nhau khi gặp thiên tai, hoả hoạn hoặc khi có biến động thị
trường.
3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà máy chế biến
Sắp xếp lại các nhà máy có quy mơ vừa và nhỏ theo hướng mở rộng cơng
suất ở những vùng có lợi thế và điều kiện phát triển mía ngun liệu, đóng cửa
những nơi khơng có điều kiện mở rộng vùng mía ngun liệu. Tạo điều kiện cho
các nhà máy có cơng suất lớn tiếp tục phát huy, mở rộng công suất thơng qua quy
hoạch và hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu, chủ yếu tập trung vào thâm canh
nâng cao năng suất.
Tạo mơi trường cạnh tranh hồn tồn bình đẳng giữa tất cả các nhà máy chế
biến đường, nghĩa là Nhà nước khơng nên hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các DN.
Nhất là vào thời điểm bây giờ, khi đã gia nhập WTO, Việt Nam cần phải thực
hiện theo những điều khoản chung khi đã tham gia vào một sân chơi lớn. Vì vậy,
mỗi DN cần phải nỗ lực tự vận động để tồn tại trên thị trường đầy biến động này.