Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.92 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

TẠ MINH THỦY

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học

Hà Nội - 2016



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

TẠ MINH THỦY

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số:60 22 01 20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Lý Hoài Thu

Hà Nội – 2016





MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................2
CHƢƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC
CỦA TÔ HOÀI TRONG BỨC TRANH VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT
NAM ................................................................................................................... 11
1.1.Nghệ thuật tự sự ......................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm ........................................................................................... 11
1.1.2 Quá trình hình thành phát triển của tự sự học.................................... 11
1.1.3. Những đóng góp của tự sự học trong nghiên cứu văn học ............... 15
1.2. Khái quát về văn học thiếu nhi Việt Nam ................................................ 16
1.2.1 Khái niệm văn học thiếu nhi .............................................................. 16
1.2.2 Sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam.................................... 17
1.2.3 Đặc điểm văn học thiếu nhi Việt Nam ............................................... 21
1.3 Hành trình sáng tác của Tô Hoài .............................................................. 23
1.3.1 Sơ lược tiểu sử .................................................................................... 23
1.3.2 Hành trình sáng tác ............................................................................. 24
1.3.3. Truyện thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài .............................................. 28
CHƢƠNG 2 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI ................... 34
2.1 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ................................................................... 34
2.1.1 Khái niệm cốt truyện .............................Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện thiếu nhi Tô Hoài .... Error!
Bookmark not defined.
2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................. 46



2.2.1 Khái niệm về nhân vật ........................................................................ 46
2.2.2 Các loại hình nhân vật trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài ............... 48
2.2.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thiếu nhi Tô Hoài ......... 57
CHƢƠNG 3: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI ......................................... 71
3.1 Người kể chuyện trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài .............................. 72
3.1.1 Ngôi kể ............................................................................................... 73
3.1.2 Điểm nhìn trần thuật ........................................................................... 78
3.1.3 Giọng điệu trần thuật .......................................................................... 83
3.2 Ngôn ngữ trần thuật .................................................................................. 88
3.2.1 Ngôn ngữ giàu tính tạo hình ............................................................... 90
3.2.2 Ngôn ngữ địa phương và lứa tuổi....................................................... 93
3.2.3 Sáng tạo phép so sánh tu từ đặc sắc ................................................... 93
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 100


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn Cao học, tôi đã nhận được rất
nhiều sự chỉ dẫn nhiệt tình của các thầy - cô giáo khoa Văn học, trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội). Tôi vô cùng quý trọng,
biết ơn sự chỉ bảo đó và xin được chân thành gửi lời tri ân đến toàn thể các thầy cô giáo.
Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời cám ơn sâu sắc nhất đến PGS. TS Lý Hoài Thu, cô
đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Và hơn hết, trong
quá trình làm việc, tôi đã học tập ở cô một tinh thần nghiên cứu khoa học nghiêm
túc, cẩn thận, tỉ mỉ và một thái độ làm việc hết mình. Xin được gửi đến cô sự biết
ơn và lòng kính trọng chân thành nhất.
Cảm ơn gia đình và những người thân yêu đã luôn tin tưởng, động viên và

ủng hộ. Cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp những người luôn sẵn sàng giúp đỡ tôi
hoàn thành tốt luận văn của mình.

Hà Nội, tháng 10 năm 2016

Tạ Minh Thủy


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Tự sự học là ngành nghiên cứu còn non trẻ, định hình từ những năm 1960
- 1970 ở Pháp nhưng đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực học thuật
được quan tâm phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, các công trình về
tự sự học đã xuất hiện, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục khai
thác. Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng
là nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hay nói cách
khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự. Vì thế, tiếp
cận truyện ngắn trên từ phương diện nghệ thuật tự sự là hướng tiếp cận từ góc độ thi
pháp.
1.2 Với bất kì ai, tuổi thơ luôn là quãng thời gian đáng nhớ, quãng thời gian đẹp và
gắn bó với nhiều cảm xúc, suy nghĩ hồn nhiên sống động. Những lời hát ru, những
câu chuyện cổ tích thời thơ ấu sẽ theo chúng ta suốt cả cuộc đời, trở thành những kỉ
niệm khó quên của tuổi thiếu niên. Khi lớn lên, chúng ta được học chữ rồi biết đọc,
ta lại tiếp tục tìm đến với những câu chuyện phù hợp với sở thích và ta lại được
thỏa mãn với trí tưởng tượng phong phú của mình. Văn học thiếu nhi, vì vậy đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu với bất kỳ nền văn học của mỗi thời kỳ. Nhìn lại
mảng văn học viết cho thiếu nhi nói chung và truyện ngắn thiếu nhi nói riêng ở Việt
Nam, có thể thấy những tác phẩm dành cho các em nhỏ mới chỉ thực sự xuất hiện
vào những năm 40 của thế kỷ XX, với những tên tuổi như Tô Hoài, Võ Quảng,
Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Cao, Nguyễn Đình Thi..... Dấu hiệu đáng mừng

là nhiều tác phẩm đã thể hiện cái nhìn mới mẻ trong sáng tác văn học dành cho
thiếu nhi, lứa tuổi đang cần đến sự chăm sóc, nuôi dưỡng về mặt tình cảm, trí tuệ
và tinh thần. Văn học được coi là cái nôi phát triển nhân cách sâu sắc, hiệu quả qua
từng lời văn nghệ thuật. Đối với bất kì ai, tuổi thơ đi qua đều tìm thấy trong lời thơ
câu văn những bài học đầu đời. Kí ức đẹp về tuổi thơ bao giờ cũng là khoảng thời
gian quý giá, không thể phai mờ. Cho nên, những tác phẩm văn học nói chung và
những truyện ngắn nói riêng có giá trị gắn bó với các em từ thủơ nhỏ sẽ là những
2


bài học bổ ích quý giá, giúp các em tăng thêm sức mạnh tiến bước trong cuộc hành
trình dài phía trước.
1.3 Nhà văn Tô Hoài đã có nhiều tác phẩm dành cho thiếu nhi. Sáng tác của ông đa
dạng, từ những câu chuyện nhỏ hàng ngày, câu chuyện về loài vật, đến những cốt
truyện khai thác từ truyện dân gian cổ tích, truyền thuyết... Tác giả dành phần
không nhỏ sự nghiệp cầm bút để viết nên những tác phẩm hay tặng cho lứa tuổi
thiếu nhi. Thông qua hình tượng nhân vật, Tô Hoài đã giúp các em thiếu nhi có nền
tảng tốt đẹp để cảm nhận và thẩm thấu điều hay lẽ phải ở đời. Chọn đề tài Nghệ
thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài, với hơn 180 truyện thiếu nhi, chúng
tôi hy vọng sẽ tìm hiểu kỹ một mảng sáng tác, một lối tự sự trong văn học Việt
Nam hiện đại, từ đó giải mã được phần nào nghệ thuật tự sự truyện thiếu nhi của Tô
Hoài và góp thêm một phần cảm nhận của cá nhân về tác phẩm cũng như con người
nhà văn cùng những đóng góp của ông đối với diện mạo nền văn học Việt Nam
hiện đại.
2. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi củaTô Hoài nhằm
rút ra phong cách tự sự độc đáo của ông so với các nhà văn khác cũng viết truyện
thiếu nhi, đồng thời cố gắng tìm cách tiếp cận mới, khai thác những bình diện mới
trong nghệ thuật tự sự truyện thiếu nhi Tô Hoài.

2.2 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi Tô Hoài
trên các khía cạnh: Cốt truyện, nhân vật, ngƣời kể chuyện, giọng điệu trần thuật và
ngôn ngữ.
2.3 Phạm vi nghiên cứu
Tô Hoài sáng tác nhiều thể loại, với nhiều đề tài phong phú: từ thế giới loài
vật (dưới nước, trên trời, trên cạn...) cho đến con người, từ đồng bằng cho đến miền
núi, từ giáo dục đạo đức cho đến xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.... Với
180 tác phẩm viết cho thiếu nhi, có thể nói, cho đến nay chưa có nhà văn nào viết
2


về thiếu nhi, cho thiếu nhi có khối lượng tác phẩm nhiều như Tô Hoài. Tuy nhiên,
với mục đích và khuôn khổ của đề tài, luận văn tập trung chủ yếu vào khảo sát
những sáng tác của Tô Hoài trong Tuyển tập văn học thiếu nhi - tập 1 – 2, do nhà
xuất bản Văn học xuất bản năm 1995 – 1997.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1 Tình hình nghiên cứu về tác giả Tô Hoài
Trong cuộc đời mình, Tô Hoài đã có hơn bảy mươi năm cầm bút, dấn thân
vào nghiệp văn chương. Kết quả là ông gặt hái được một khối lượng đồ sộ về tác
phẩm và khẳng định chỗ đứng vững chắc trong làng văn chương Việt Nam. Việc
nghiên cứu về Tô Hoài đã được bắt đầu từ trước năm 1945 và đến nay vẫn còn tiếp
tục.
Trước năm 1945, những truyện ngắn về đề tài nông thôn, dân quê và thiếu
nhi của Tô Hoài đã được bạn đọc đón nhận và bước đầu ghi dấu ấn riêng của ông.
Vũ Ngọc Phan đã xếp Tô Hoài vào nhóm “các tác giả tả chân” và đánh giá Tô
Hoài là “nhà văn có biệt tài viết về những cảnh nghèo nàn của dân quê” [59, tr.
21].
Sau năm 1945, Tô Hoài viết nhiều hơn, dày hơn ở nhiều thể loại, nhiều mảng
đề tài khác nhau nhưng tiêu biểu hơn cả là đề tài viết về miền núi và Hà Nội. Thời

điểm này Tô Hoài đã nhận được nhiều lời khen về khả năng bao quát đời sống hiện
thực, sự khắc họa công phu đời sống và thiên nhiên miền núi. Tuy vậy, cũng có
những đánh giá không đồng tình về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật của ông ở
một số tiểu thuyết. Nhiều tác phẩm vẫn được người đọc đón nhận nhưng lại ít có
bài bình luận.
Sau năm 1975, cùng với các bài phê bình, giới thiệu tác phẩm, các công trình
nghiên cứu về Tô Hoài trở nên sôi nổi và có nhiều kết quả. Tiêu biểu phải kể đến
các tiểu luận của những nhà nghiên cứu: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân
Thanh....... Tác giả Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Tô Hoài không chìm đắm trong thiên
nhiên, không tìm ở thiên nhiên một lối thoát, một niềm an ủi nhƣ các nhà lãng mạn
tiêu cực, nhƣng bao giờ anh cũng chắt chiu, trân trọng những vẻ đẹp và chất thơ

3


của đời sống” [59, tr. 87]. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức thì cho rằng: “Tác phẩm
của Tô Hoài luôn khai thác ở mạch chìm sâu của cuộc đời nơi bóng tối đang còn
đè nặng” [59, tr. 119] và “Tô Hoài, một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng” [59,
tr. 131]. Vương Trí Nhàn cũng là tác giả của những bài viết sâu sắc và hấp dẫn về
Tô Hoài. Ông đã không quá lời khi nhận xét: “Tô Hoài viết là say và viết là tỉnh.
Viết để ghi lại những gì đã sống, viết lại chính mình là sự sống nữa” [59, tr. 195].
Chính thực tế cuộc đời cầm bút cần mẫn và chuyên nghiệp của Tô Hoài đã là minh
chứng chắc chắn cho sự sống, sức lao động mãnh liệt, dẻo dai, bền bỉ của ông.
Để có cái nhìn đầy đủ hơn về nhà văn, ta không thể không tìm hiểu đến cuốn
Tô Hoài về tác gia tác phẩm. Đây thực sự là cuốn sách tổng hợp tương đối đầy đủ
và toàn diện các bài nghiên cứu về Tô Hoài từ trước đến nay. Điều này cho thấy vị
trí của Tô Hoài trong nền văn học nước nhà: một tác giả lớn của nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam.
Ngoài ra, trong quá trình tìm hiểu về tác giả Tô Hoài chúng tôi còn thấy có
rất nhiều bài nghiên cứu khoa học, khóa luận, luận văn và luận án có đi sâu vào tìm

tòi, phát hiện những sáng tạo độc đáo của Tô Hoài từ trước đến nay. Ví dụ như:
luận án tiến sĩ ngữ văn của Mai Thị Nhung (Phong cách nghệ thuật Tô Hoài), luận
văn thạc sĩ văn học của Phạm Thị Thanh Thủy (Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn
Tô Hoài trƣớc cách mạng), luận văn thạc sĩ văn học của Trần Thị Thu Hà (Hồi kí
về Hà Nội của Tô Hoài), luận văn thạc sĩ văn học của Mai Thị Nga (Nghệ thuật tự
sự trong tiểu thuyết Tô Hoài)..... Như vậy, có thể khẳng định Tô Hoài là một hiện
tượng văn học được nghiên cứu nhiều. Các nhà nghiên cứu về Tô Hoài và tác phẩm
của ông đều hướng đến đánh giá cao bút lực dồi dào, độc đáo và giá trị đích thực
của văn chương ông.
3.2 Tình hình nghiên cứu về truyện thiếu nhi của Tô Hoài
Tô Hoài được biết đến là một nhà văn của thiếu nhi. Những tác phẩm của Tô
Hoài viết về thiếu nhi, viết cho thiếu nhi không chỉ là niềm yêu thích của các em
nhỏ, mà ngay cả những người lớn là các bậc phụ huynh cũng rất thích thú. Các em
đọc tác phẩm của Tô Hoài để hiểu thêm về điều hay lẽ phải ở đời, về những giá trị
của cuộc sống. Còn những người lớn tuổi đọc truyện là để nhớ lại thời thơ ấu của
4


chính mình, để từ đó có cơ sở hiểu biết và có thêm giải pháp giáo dục con em mình.
Sáng tác của Tô Hoài đã được nhiều thế hệ bạn đọc biết đến, đặc biệt là về
hệ thống nhân vật của ông. Đã có nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm
đến những sáng tác truyện thiếu nhi của Tô Hoài. Chúng tôi xin được tổng hợp lại
những bài phê bình, nghiên cứu về sáng tác truyện thiếu nhi của Tô Hoài từ trước
đến nay với các nhà nghiên cứu, phê bình như: Hoàng Trung Thông, Vũ Ngọc
Phan, Vân Thanh, Hoàng Anh, Phan Cự Đệ, Trần Hữu Tá, Đỗ Bạch Mai, Hà Minh
Đức, Vũ Quần Phương.... Đây đều là những nhà nghiên cứu có những bài viết đánh
giá sâu sắc cả mặt tích cực lẫn hạn chế truyện thiếu nhi của Tô Hoài. Dưới đây là
một số các công trình tiêu biểu của họ:
Trong công trình nghiên cứu về các Nhà văn Việt Nam hiện đại, quyển IV,
nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã có những nhận xét về tài năng văn chương của

Tô Hoài. Đặc biệt ông đánh giá rất cao về thể loại truyện ngắn viết cho thiếu nhi
của Tô Hoài. Vũ Ngọc Phan nhận thấy Tô Hoài là một nhà văn trẻ, có sức viết khỏe
và hay: “Truyện thiếu nhi của Tô Hoài không những đặc biệt về lời văn, về cách
quan sát, về lối kết cấu, mà còn đặc biệt cả về những đầu đề do ông lựa chọn nữa”
[59, tr. 59].
Cũng đánh giá về tài năng của nhà văn Tô Hoài, Trần Đình Nam trên Tạp chí
văn học số 9 (1995) đã khẳng định tài năng văn xuôi của Tô Hoài là một khả năng
trời phú: “Ông là một nhà văn xuôi bẩm sinh. Chỉ có một nhà văn xuôi bẩm sinh
mới viết đƣợc cuốn Dế Mèn phiêu lƣu kí ở độ tuổi hai mƣơi. Cuộc dấn thân của Dế
Mèn vì hòa bình, công lí đã làm xúc động hàng triệu trái tim mọi lứa tuổi, dân tộc,
xứ sở” [59, tr. 167].
Hoàng Trung Thông trên báo Văn nghệ số 5 (1987) với bài viết Nhà văn trên
dòng sông Tô Lịch, đánh giá rất cao về tài năng viết truyện thiếu nhi của Tô Hoài:
“Tô Hoài là ngƣời “khôn ngoan, nghịch ngợm, láu lỉnh”, nhƣ ngƣời ta thƣờng nói
về dân ngoại ô. Anh rất yêu, rất hiểu và chịu khó viết văn cho các em, nếu tính từ
quyển đầu đến quyển cuối thì anh đã viết 45 quyển sách cho các em đọc. Vì thế,
những tác phẩm của anh đã đƣợc lứa tuổi thiếu nhi yêu thích. Vừ A Dính, Kim
Đồng, Đảo Hoang, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, nhất là Dế Mèn phiêu lƣu ký, đó là
những tác phẩm đánh dấu quan trọng cho văn học phục vụ thiếu nhi. Dầu chúng ta
5


có thể chê trách mặt này hay mặt khác, nhƣng những tác phẩm ấy của Tô Hoài khi
viết về truyền thống yêu nƣớc của thiếu nhi, hay về đồng thoại, đã đƣa lại cho các
em hứng thú và đƣa lại cho văn học phục vụ các em những điều mà sau này các
nhà văn khác sẽ tiếp tục” [59, tr. 111].
Vân Thanh trên báo Thời mới số ra ngày 28/5/1964 có viết về tác phẩm Hai
ông cháu và đàn trâu của Tô Hoài: “Cốt truyện “Hai ông cháu và đàn trâu” khá
đơn giản. Trọng tâm của tác giả là miêu tả những suy nghĩ, hành động của hai ông
cháu, nhƣng qua đó chúng ta thấy đƣợc tình yêu quê hƣơng, lòng quyết tâm xây

dựng nông thôn đổi mới của bà con nông dân” [59, tr. 471]. Cũng với tác phẩm
này, khi Vân Thanh đánh giá cao ý nghĩa của truyện ngắn này về những tư tưởng
phù hợp với thời đại mà tác giả đã nêu thì Hoàng Anh cũng trên tờ báo Thời mới số
ra ngày 17/9/1964 lại nhận thấy ở tác phẩm Hai ông cháu và đàn trâu của Tô Hoài
còn có “một đặc điểm nổi bật nữa là Tô Hoài đã ít nhiều nắm đƣợc đặc điểm lứa
tuổi thiếu nhi. Thông qua những tấm gƣơng chiến đấu dũng cảm, tác giả giáo dục
các em lớn tuổi về lí tƣởng cộng sản chủ nghĩa. Thông qua những câu chuyện xinh
xắn, dí dỏm, tác giả giáo dục các em nhỏ những vấn đề lớn của xã hội” [59, tr.
475]. Cũng tìm hiểu về truyện viết cho thiếu nhi, Vân Thanh trong cuốn Truyện viết
cho các em nhỏ dƣới chế độ mới cũng đã đánh giá truyện thiếu nhi của Tô Hoài:
“Tô Hoài là một trong số ít nhà văn viết đều tay nhất cho thiếu nhi. Ông viết nhiều
thể loại truyện, về nhiều đề tài, nhiều lứa tuổi. Và điều quan trọng: có nhiều tác
phẩm hay, đƣợc các em ƣa thích. Làm đọng lại trong tâm trí và tình cảm các em ấn
tƣợng sâu (....), với lứa tuổi nhỏ, tác giả lại sử dụng những mẩu chuyện, với lời văn
dí dỏm, với ngôn ngữ đối thoại sinh động, với sự việc cụ thể, và nhất là với hình
ảnh những con vật quen thuộc để khiêu gợi ở các em những suy nghĩ đơn giản
nhƣng thấm thía về vẻ đẹp của chế độ, về những vấn đề đặt ra trong sinh hoạt hằng
ngày của các em” [75, tr. 138, 140]. Như vậy, phải là một người thực sự hiểu được
tâm lí tuổi thơ, ngôn ngữ và những suy nghĩ của tuổi thơ thì nhà văn Tô Hoài mới
mang lại niềm thích thú cho các em nhỏ qua những tác phẩm của mình. Như đánh
giá của Vân Thanh: “Nhìn chung trong truyện ngắn viết cho thiếu nhi, Tô Hoài đã
nắm bắt đƣợc đặc điểm tâm lí của thiếu nhi ở các lứa tuổi khác nhau. Với lứa tuổi
trƣởng thành (....). Tô Hoài đã khiêu gợi đúng lòng mong ƣớc có một cuộc sống
6


anh hùng ở các em. Còn các em nhỏ, do chƣa có khả năng nhìn nhận (...), nhà văn đã
thông qua những chi tiết cụ thể, dễ hiểu để giáo dục các em” [75, tr. 141 - 142].
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong Kỷ yếu 20 năm nhà xuất bản Kim Đồng
(1977), có nhận định về những tác phẩm dành cho thiếu nhi của Tô Hoài, đó là việc

nhà văn “Tô Hoài đã khai thác những đặc điểm của thần thoại, truyền thuyết và cổ
tích (...), đã khơi dậy trí tƣởng tƣợng và niềm khát khao muốn hiểu biết, khám phá
đến mênh mông, vô tận của các em” [59, tr. 494].
Trần Hữu Tá trong cuốn Văn học Việt Nam 1945 - 1975, tập 2 (Nxb Giáo
dục 1990) có nhận xét đánh giá truyện ngắn thiếu nhi của Tô Hoài nhất là đối với
truyện Dế Mèn phiêu lƣu kí: “Dế Mèn phiêu lƣu kí là một thành công xuất sắc của
Tô Hoài, khẳng định tiếng nói đặc sắc cũng nhƣ vị trí văn học độc đáo của ông
trong văn học đƣơng thời cũng nhƣ trong lịch sử văn học lâu dài sau này. Mỗi đối
tƣợng độc giả - ngƣời lớn và trẻ nhỏ đều có thể tìm thấy ở “Dế Mèn phiêu lƣu kí”
những thích thú riêng. Tuổi thơ bị lôi cuốn bởi cốt truyện lí thú lạ lùng, giàu kịch
tính, pha trộn cả hiện thực và huyền thoại, bởi thế giới loài vật nhỏ bé gần gũi;
chàng Dế Mèn hùng dũng, đƣờng hoàng đáng yêu; anh Dế Trũi cần cù, chung
thủy; bác Xiến Tóc trầm lặng chán đời (....), quen thuộc đấy mà sao vẫn làm ta ngỡ
ngàng” [59, tr. 148]. Ngoài ra, Trần Hữu Tá còn đặc biệt đánh giá cao những
truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Tô Hoài: “ở những truyện thiếu nhi thành công
nhất, ông đã kích thích trí tƣởng tƣợng, lòng ham muốn vƣơn tới cái đẹp, cái thiện
cho trẻ nhỏ, bồi dƣỡng cho các em lòng yêu văn chƣơng, học đƣợc cách miêu tả, kể
chuyện tự nhiên, duyên dáng và một vốn ngôn ngữ phong phú” [59, tr. 157]. Như
vậy, để trở thành nhà văn quen thuộc của các em, nghĩa là ngòi bút nhà văn: “Tô
Hoài có khả năng quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả linh động. Ngƣời, vật, thiên
nhiên, cảnh sinh hoạt....tất cả đều hiện lên lung linh, sống động, nổi rõ cái thần của đối
tƣợng và thƣờng bàng bạc một chất thơ” [59, tr. 158].
Tác giả Hà Minh Đức trong Tuyển tập Tô Hoài, tập I (Nxb Văn học, 1987)
lại đặc biệt đánh giá rất cao về các giá trị, trách nhiệm của người cầm bút khi sáng
tác cho các em: “Tô Hoài luôn luôn có ý thức chọn lọc một hình thức biểu hiện
thích hợp với đối tƣợng phản ánh. Ngay các truyện viết cho các em, ông cũng thể
hiện trách nhiệm đó” [59, tr. 139]. Ngoài ra, ông còn bộc lộ niềm mến phục đối với
7



nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học thiếu nhi nước nhà: “Ông cũng là một nhà
văn lớn của thiếu nhi. Ông đến với các em với tâm hồn ngƣời nghệ sĩ. Ông đem đến
cho các em một niềm vui, một bài học nhỏ, một lời căn dặn. Với các em lúc nào
ngòi bút của ông cũng đầm ấm, tƣơi trẻ. Thời gian không mệt mỏi, không hằn vết
trên trang viết cho các em. Có biết bao nhiêu câu chuyện bổ ích và tƣơi đẹp trong
cuộc đời sẽ còn giành cho tuổi thơ, ông còn là ngƣời kể chuyện hứng thú và sáng
tạo” [59, tr. 142].
Bên cạnh việc chỉ ra những mặt tích cực của Tô Hoài khi viết những truyện
thiếu nhi, các nhà nghiên cứu, phê bình cũng chỉ ra các mặt hạn chế về mảng truyện
ngắn viết cho thiếu nhi của Tô Hoài như sau:
Trong cuốn Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại, Vân Thanh có viết: “Bút
pháp Tô Hoài linh hoạt. Anh có tài dẫn chuyện và chuyển cảnh. Đọc tác phẩm của
anh, ta có cái thú của một ngƣời xem phim, đƣợc thấy chuyện bất ngờ. Ngôn ngữ
của Tô Hoài thƣờng ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động, với
những ƣu điểm và nhƣợc điểm của khẩu ngữ, phong phú giàu hình tƣợng, nhƣng
cũng nhiều lúc không được trong sáng” [59, tr. 77]. Theo nhận xét của Vân Thanh
thì bên cạnh thành công khi viết truyện thiếu nhi, Tô Hoài là nhà văn ít nhiều có rơi
vào chủ nghĩa tự nhiên của ngôn ngữ. Những tác phẩm của ông, yếu tố khẩu ngữ
chiếm rất nhiều. Có lẽ đây vừa là thế mạnh nhưng đồng thời lại cũng là hạn chế của
Tô Hoài khi viết truyện ngắn thiếu nhi. Đó là trường hợp trong tác phẩm Hai ông
cháu và đàn trâu, Vân Thanh đã thẳng thắn chỉ ra mặt hạn chế của tác giả: “Đáng
tiếc phần sau của câu chuyện lại kém phần sinh động, do tác giả tham lam lồng
vào đây quá nhiều vấn đề: nào là công trình thủy lợi, nào là công nông liên minh...
Câu chuyện trở nên thiếu ý vị, thiên về kể lể sự việc hơn là miêu tả tính cách
nhân vật” [59, tr. 427].
Trong tập truyện O chuột, Trần Hữu Tá cũng đưa ra ý kiến của mình: “Dấu
vết của chủ nghĩa tự nhiên thỉnh thoảng gợi lên trong tác phẩm của ông. Trong O
chuột, lẫn với những truyện về xúc vật, Tô Hoài có phần nhẫn tâm đƣa vào đây một
con ngƣời: cu Lặc. Tác phẩm biến những con ngƣời khốn khổ thành những đối
tƣợng để gây cƣời, với cái “sa mạc bụng”, “cái núm rốn thây lẩy” của cu Lặc, với

cái đức ăn khỏe đã gây ra chia rẽ giữa cu Lặc và thị Hoa: “giá họ cùng không ăn
8


khỏe cả thì họ yêu nhau biết mấy” [59, tr. 147].
Hoàng Thanh lại chỉ ra hạn chế của Tô Hoài với tập truyện ngắn Con mèo
lƣời: “Có thể nói tuyển tập Con mèo lƣời đã tập hợp đƣợc nhiều tác phẩm tốt về tƣ
tƣởng và nghệ thuật, mặc dù cũng còn đôi truyện có những chi tiết rườm rà nhƣ:
“Hai ông cháu và đàn trâu” hoặc thiếu ý vị nhƣ “Ƣớc gì”. Nhƣng nhìn chung các
truyện đều đều có tác dụng giáo dục và gây cho các em nhiều cảm xúc thẩm mỹ
tốt” [59, tr. 475].
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ lại có sự phát hiện: “Tô Hoài biết phát huy
những mặt mạnh của lối kể chuyện truyền thống để viết những truyện lịch sử,
truyện ngƣời thật việc thật, truyện thiếu nhi. Nhìn chung, anh thành công về về
truyện hơn là về tiểu thuyết. Tuy nhiên, anh vẫn chƣa hoàn toàn vƣợt qua đƣợc
những nhược điểm, những hạn chế của lối kể chuyện truyền thống” [59, tr. 96].
Có thể nói nhà văn Tô Hoài là một nhà văn có nhiều đóng góp trong văn học
thiếu nhi nước nhà. Ông biết quan sát, biết nắm bắt suy nghĩ, ước mơ của các em,
truyện của ông được tuổi thơ đón nhận nhiệt tình. Xét về đề tài sáng tác, truyện
thiếu nhi của Tô Hoài phong phú về chủ đề. Ông viết truyện về loài vật (dưới nước,
trên trời, trên cạn), về hồi ức, lịch sử, về quê hương đất nước.... Ở chủ đề nào ông
cũng xây dựng cốt truyện cho phù hợp với, gần gũi với lứa tuổi ở các em. Tác
phẩm của ông trong sáng, gợi mở nhiều vấn đề trong cuộc sống. Ngôn ngữ ông
giản dị, tự nhiên, sử dụng nhiều phương ngữ.... Với ý thức, trách nhiệm của người
cầm bút, Tô Hoài luôn tìm ra hướng đi phù hợp với quá trình tâm sinh lý thiếu nhi.
Ông hiểu các em, hiểu được suy nghĩ - ước mơ của các em nên các nhân vật của
ông mang lại cho các em những điều kì thú, những suy ngẫm và bài học bổ ích.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về truyện viết cho thiếu nhi nói
chung và truyện ngắn thiếu nhi nói riêng của Tô Hoài, phần lớn các tác giả đi sâu
vào khai thác vào từng mảng sáng tác. Tuy nhiên, về phạm vi nghiên cứu về Nghệ

thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài vẫn chưa có công trình nào đi sâu
vào nghiên cứu một cách tổng hợp. Với khả năng nghiên cứu còn chừng mực,
chúng tôi cố gắng kế thừa những người đi trước, tìm hiểu những tài liệu có liên
quan nhằm mở rộng và phát huy các vấn đề trong nghệ thuật tự sự truyện thiếu nhi
của Tô Hoài như: Cốt truyện, nhân vật, ngƣời kể chuyện, giọng điệu trần thuật và
9


ngôn ngữ. Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát một cách hệ thống các tác phẩm truyện
thiếu nhi của Tô Hoài để đem lại cái nhìn mới về nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn thiếu nhi của ông. Đồng thời chúng tôi còn hy vọng đây sẽ là đề tài có ý nghĩa
đối với các độc giả yêu thích truyện thiếu nhi của Tô Hoài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp loại hình sẽ giúp cho chúng ta thấy được đặc trưng của loại
hình tự sự được thể hiện trong tác phẩm, thấy được hệ thống nhân vật, mô hình cốt
truyện, người trần thuật, cũng như ngôn ngữ trần thuật…
Phương pháp so sánh giúp chúng ta thấy được những điểm giống và khác
nhau trong nghệ thuật tự sự của tác giả được phản ánh trong tác phẩm, cũng như sự
khác biệt so với các tác giả khác…
Phương pháp phân tích, tổng hợp giúp chúng ta cung cấp những dẫn chứng
đầy đủ và chính xác cho những nội dung, những nhận xét đánh giá có hiệu quả và
thuyết phục hơn…
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
chia thành 3 chương:
Chƣơng 1. Khái quát về nghệ thuật tự sự và sáng tác của Tô Hoài trong bức tranh
văn học thiếu nhi Việt Nam
Chƣơng 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong truyện thiếu
nhi của Tô Hoài
Chƣơng 3: Ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật trong truyện thiếu nhi của Tô

Hoài

10


Chƣơng 1:
KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC CỦA TÔ HOÀI
TRONG BỨC TRANH VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
1.1 Nghệ thuật tự sự
1.1.1 Khái niệm
Tên gọi Tự sự học - Narratology/ Narratologie do nhà nghiên cứu Pháp gốc
Bungari T.Todorov đề xuất năm 1969 trong sách Ngữ pháp “Câu chuyện mƣời
ngày”. Kể từ đó, lí luận tự sự đã trở thành một vấn đề chủ yếu của nghiên cứu văn
học. J.H.Miller, nhà giải cấu trúc Mĩ (1993) cho rằng: “Tự sự là cách để ta đƣa các
sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng có một ý nghĩa. Tự sự là cách tạo
nghĩa cho sự kiện, biến cố”. Còn Jonathan Culler (1998) lại nhận định: “Tự sự là
phƣơng thức chủ yếu để con ngƣời hiểu biết sự vật”. Ở Việt Nam, các nhà nghiên
cứu cũng đưa ra những cách hiểu khác nhau về tự sự. Đặng Anh Đào cho rằng: “Tự
sự là một khái niệm rất rộng và có thể xét ở hai bình diện. Bình diện thứ nhất: Tự
sự nhƣ sự đồng nghĩa với “câu chuyện kể” đối lập với miêu tả. Bình diện thứ hai:
Tự sự đƣợc xem xét theo hành động kể chuyện”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì
khẳng định: “Tự sự là hệ thống những sự kiện, cách thức tổ chức sự kiện, các mô
típ truyện, sự phân loại các mô típ, diễn ngôn, lời kể với những ngƣời kể, điểm
nhìn, thời, thức”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tự sự là một phƣơng thức tái
hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh
hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các
sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời của con ngƣời. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng
có cốt truyện, gắn với cốt truyện là một hệ thống nhân vật đƣợc khắc họa đầy đủ,
nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình 10 kịch”. Tựu chung lại, nội dung của nghệ
thuật tự sự là nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan.

1.1.2 Quá trình hình thành phát triển của tự sự học
Tự sự học đã có từ xa xưa. Từ Platon, Aristote người ta đã biết phân biệt các
loại tự sự: tự sự lịch sử và tự sự nghệ thuật. Đến thế kỉ V người ta phân biệt: tự sự
11


mô phỏng (không có sự can dự của người kể, như kịch), tự sự giải thích (có kèm
phân tích, bình luận) và tự sự hỗn hợp (như sử thi).
Tự sự học hiện đại manh nha hình thành từ cuối thế kỉ trước. Nhưng cho
đến nay có thể chia làm ba thời kì. Tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự
học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa:
Thứ nhất, thời kỳ trƣớc chủ nghĩa cấu trúc: Tự sự học chủ yếu nghiên cứu
các thành phần và chức năng của tự sự như: cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ trần
thuật, điểm nhìn.... Có thể kể đến công trình nghiên của B. Tomasepxki1 năm 1925,
đã nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự. V. Shklovski chia truyện thành hai
lớp: chất liệu và hình thức. V. Propp nghiên cứu cấu trúc và chức năng tự sự
trong truyện cổ tích (1928). Từ những năm 20 của thế kỉ trước, Bakhtin đã
nghiên cứu mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, ngôn từ trần thuật và tính đối
thoại của nó. Họ trở thành những người mở đường cho tự sự học hiện đại. Ở
phương Tây, với sáng tác của Flaubert thế kỉ XIX, cũng như sáng tác của Henry
James (Mĩ) và M. Proust (Pháp) đầu thế kỉ XX, người ta đã biết rằng trong tiểu
thuyết sự kiện không phải là cái quan trọng nhất, mà quan trọng nhất là ý thức, là
phản ánh tâm lí của nhân vật đối với sự kiện, từ đó người ta quan tâm tới “trung
tâm ý thức”, chi tiết trong tiểu thuyết phải lọc qua trung tâm ý thức của nhân vật
mới bộc lộ ý nghĩa. Từ đó, các vấn đề điểm nhìn, dòng ý thức được đặc biệt
quan tâm với Percy Lubbock (1921), K. Friedemann (1910). Về sau, các vấn đề
này còn được phát triển bởi một loạt tác giả Âu - Mĩ khác như J. Pouillon, A.
Tate, C. Brooks, T. Todorov, G. Gennette... Những tìm tòi này gắn với ý thức về
kĩ thuật của tiểu thuyết.
Thứ hai, thời kỳ cấu trúc chủ nghĩa với vấn đề nghiên cứu chủ yếu là bản

chất của ngôn ngữ và ngữ pháp tự sự, nhằm tìm ra một cách đọc mà không cần đến

1

B. Tomasepxki vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận “Hệ chủ đề” ông đã trở thành người đầu tiên

nghiên cứu thủ pháp cốt truyện. Ông phân biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sujet): tuyến
hành động liên quan đến chuyện kể, còn tuyến trần thuật liên quan đến cốt truyện. Ông phân biệt “thời gian của
chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời trình bày nhiều thủ pháp như: trì hoãn, bình luận ngoại đề, che
giấu bí mật, đảo lộn thời gian...
12


sự đối chiếu giữa tác phẩm tự sự và hiện thực khách quan. Với mục đích như vậy,
chủ nghĩa cấu trúc có đặc điểm là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là
sự mở rộng của các cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Tiêu biểu
cho giai đoạn nghiên cứu này là G. Genette với tuyên bố: “mỗi câu chuyện là sự
mở rộng của một câu - chủ yếu là vị ngữ động từ”.
Mở đầu cho thời kỳ cấu trúc chủ nghĩa với công trình Dẫn luận phân
tích tác phẩm tự sự của R. Barthes năm 1968 và S/Z (1970) tác phẩm này đã bắt
đầu chuyển sang hậu cấu trúc chủ nghĩa; T. Todorov có Ngữ pháp “ Truyện mười
ngày”... Sơ khởi của quan niệm này là Hình thái học truyện cổ tích của Propp,
tiếp theo là nghiên “cứu cấu trúc thần thoại” của Claude Levi - Strauss và “mô
hình hành vi ngôn ngữ” của Roman Jakobson. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ
nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng
của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Todorov xem nhân vật
như danh từ, tình tiết là động từ, trong chủ nghĩa hiện thực thì tình tiết thuộc thức
chủ động, còn trong thần thoại lại thuộc thức bị động.... A. J. Greimas vận dụng sự
đối lập trục liên kết và trục lựa chọn để nghiên cứu cấu trúc tự sự. G.Genette
tuyên bố mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu - chủ yếu là vị ngữ động từ

và ông sử dụng tràn lan các thuật ngữ ngôn ngữ học. R. Barthes cũng tán thành
quan điểm đó. Mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ,
bản chất ngữ pháp của tự sự nhằm tìm một cách đọc tự sự mà không cần đối
chiếu giản đơn tác phẩm tự sự với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ
nhận được mối quan hệ văn học với đời sống, nhưng họ đã góp phần làm sáng tỏ
bản chất biểu đạt và giao tiếp của tự sự. Song, sự lạm dụng mô hình ngôn ngữ
học đã làm cho tự sự học gặp khó khăn, và chính Todorov cũng vấp phải thất bại,
bởi ông chỉ quan tâm ngữ pháp tự sự hơn là văn bản tự sự.
Thứ ba, thời kỳ hậu cấu trúc chủ nghĩa coi tự sự học gắn liền với kí hiệu học
và siêu kí hiệu học, lấy văn bản làm cơ sở và ý nghĩa tác phẩm được biểu hiện qua
hình thức tự sự. Ở thời kỳ này, các nhà cấu trúc chủ nghĩa như: I. Lotman, B.
Uspenski, Pierre Acherey. Giai đoạn thứ ba của tự sự học là sự gắn liền với kí hiệu
học, một bộ môn quan tâm tới các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy
13


văn bản làm cơ sở (Jean - Claude Coquet). Ở đây, hình thức tự sự là phương
tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. Tư tưởng này gắn với việc phân tích ý thức
hệ của M. Bakhtin. Các tác giả như I. Lotman, B.Uspenski, cũng theo hướng
này, nhìn thấy đằng sau điểm nhìn một lập trường quan điểm xã hội thẩm mĩ
nhất định. Đặc điểm của lí thuyết tự sự hiện nay, tuy cũng coi trọng phân tích
hình thức nhưng không tán thành việc sao phỏng giản đơn các mô hình ngôn ngữ
học mà đi theo kí hiệu học và siêu kí hiệu học. Pierre Macherey, nhà mácxít
Pháp cho rằng bất cứ sự đồng nhất nào giữa phê bình văn học với ngôn ngữ học
đều sẽ thất bại, bởi nó bỏ qua vai trò tác động của hình thái ý thức, còn I.
Lotman cho rằng thông tin ngôn ngữ là thông tin phi văn bản, mà điểm xuất
phát của văn bản lại chính là chỗ bất cập của ngôn ngữ khiến nó trở thành văn
bản. Nếu văn bản trở về với ý nghĩa của ngôn ngữ học thì có nghĩa là sự sụp đổ
của văn hóa. Như thế lí thuyết tự sự phải gắn với chức năng nhận thức và giao
tiếp.

Tổng quan quá trình phát triển của lí thuyết tự sự, nhà lí luận tự sự Mĩ
Gerald Prince chia làm ba nhóm theo ba loại hình: Nhóm một là những nhà tự sự
học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp, trong số
này có Greimas, ông đã giản lược số chức năng của Propp xuống tới con số 20
và làm nổi bật lôgic tự sự. Các tác giả khác như Todorov, Barthes, Remak, Norman
Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau... mỗi người một cách, chú ý tới cấu
trúc của câu chuyện được kể, đi tìm mẫu cổ của tự sự, chức năng của biến cố và
qui luật tổ hợp, lôgic phát triển và loại hình cốt truyện... Khi cực đoan nhất họ cho
rằng tác phẩm tự sự không bị chi phối bởi chất liệu. Một câu chuyện có thể kể
bằng văn học, điện ảnh, ba lê, hội họa... đều được, do đó bỏ qua hoặc không đi
sâu vào đặc trưng biểu đạt của chất liệu; Nhóm thứ hai lấy G. Genette làm tiêu
biểu đã xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết mà biểu đạt,
cho nên vai trò của người trần thuật được coi là quan trọng nhất. Họ chú ý lớp
ngôn từ của người trần thuật với các yếu tố cơ bản như điểm nhìn, giọng điệu...
Đây là nhóm đông nhất thu hút nhiều nhà nghiên cứu như Dolezel, Micke Bal;
Nhóm thứ ba đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman, họ coi trọng phương
14


pháp nghiên cứu tổng thể, hay dung hợp. J. Culler cũng thuộc phái này, ông coi
trọng cả cấu trúc sự kiện lẫn cấu trúc lời văn.
Như vậy, có thể thấy lí thuyết tự sự học đã trải qua một quá trình hình thành,
phát triển từ rất sớm, qua nhiều giai đoạn khác nhau. Với nội dung là nghiên
cứu cấu trúc văn bản tự sự và những vấn đề liên quan, tự sự học đã dần khẳng định
được vai trò quan trọng của mình là một ngành khoa học nghiên cứu về văn học.
Nghiên cứu tự sự học đang là một xu thế có nhiều triển vọng trong lí luận
văn học. Và nó càng có ý nghĩa văn hóa rộng lớn. Nó không chỉ mở ra khả năng
nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học, nghiên cứu so sánh quốc tế
về phương diện tự sự, nghiên cứu loại hình ảnh hưởng; mà nó còn trở thành một bộ
phận của thi pháp học so sánh; nó còn giúp chúng ta hiểu rõ về mọi hình thức tự sự,

nghệ thuật và phi nghệ thuật. Tìm hiểu về tự sự học sẽ cho chúng ta thấy được kĩ
thuật trần thuật của các thể loại, các nhà văn, truyền thống văn hóa .... để từ đó
chúng ta nhìn nhận các vấn đề văn học sử, văn học lí luận một cách sâu sắc hơn.
Nhất là đối với nền văn học dân tộc Việt Nam, khi nghiên cứu văn học, đặc biệt là
các tác phẩm văn học dưới góc độ tự sự, nó lại càng chứng tỏ vai trò và ý nghĩa lớn
lao của tự sự học.
Như vậy, nghiên cứu tự sự học có một ý nghĩa văn hóa rất rộng lớn. Nghiên
cứu tự sự học còn mở ra khả năng nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền
văn học. Nó cho ta thấy không chỉ là kĩ thuật trần thuật của các thể loại, các nhà
văn, mà còn cho thấy cả truyền thống văn hóa ở đằng sau nó, cho thấy ưu điểm
và chỗ yếu của các truyền thống văn học, để từ đó, cho ta nhìn lại các vấn đề
văn học sử dân tộc một cách tỉnh táo và sâu sắc.
1.1.3 Những đóng góp của tự sự học trong nghiên cứu văn học
Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của
cấu trúc tự sự. Tác giả là người ghi lại lời kể chứ không phải một người kể. Người
trần thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Hành vi trần thuật tạo ra sản phẩm
là văn bản tự sự. Ngôi kể là yếu tố tạo thành tiếng nói, giọng điệu. Lí thuyết tự sự
học hiện đại lần đầu tiên làm cho người trần thuật vô hình được chú ý phân tích.

15


Lí thuyết tự sự đã chỉ ra kết cấu của các tầng bậc trần thuật. Người trần
thuật càng cao thì càng xuất hiện sau và nhiệm vụ của nó là giới thiệu người trần
thuật bậc thấp. Phân biệt trần thuật chính, trần thuật phụ, siêu tự sự để gia tăng khả
năng hư cấu cho tiểu thuyết. Tự sự càng phát triển thì siêu tự sự cũng càng phát
triển theo, xuất hiện các kiểu người trần thuật khác nhau.
Lí thuyết tự sự cho thấy rõ sự biến dạng thời gian bằng các biện pháp rút
gọn, tỉnh lược, cảnh, kéo dài, dừng lại, lặp lại và các hình thức đổi thay tính liên tục
của sự kiện giúp chỉ ra cơ chế nghệ thuật của tự sự đồng thời nêu ra vấn đề góc

nhìn với điểm nhìn, tiêu cự trần thuật với mô hình trần thuật.
Lí thuyết tự sự học hiện đại đã nghiên cứu sâu về hành vi ngôn ngữ tự sự và
các hình thức của nó làm cho tự học gắn chặt với phong cách học tiểu thuyết;
nghiên cứu cấu trúc của tình tiết, đơn vị cơ bản của tự sự, các kiểu tổ hợp tình tiết,
loại hình hóa cốt truyện.
Nghiên cứ tự sự học có một ý nghĩa văn hóa rất rộng lớn.Tự sự học giúp
hiểu rõ mọi hình thức tự sự, nghệ thuật và phi nghệ thuật. Nghiên cứu tự sự học mở
ra khả năng nghiên cứu truyền thống văn hóa trong mỗi nền văn học từ đó cho ta
nhìn lại các vấn đề văn học sử dân tộc một cách sâu sắc. Văn học Việt Nam ngày
càng nhiều những bài viết nghiên cứu dưới góc độ tự sự học đã chứng tỏ vai trò, ý
nghĩa lớn lao của tự sự học trong nghiên cứu văn học hiện nay.
1.2. Khái quát về văn học thiếu nhi Việt Nam
1.2.1 Khái niệm văn học thiếu nhi
Trong kho tàng văn học nhân loại đã có những sáng tác dành cho một lớp đối
tượng riêng, đó là thiếu nhi. Tuy nhiên, về khái niệm “văn học thiếu nhi”, cho đến
nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất trong giới nghiên cứu. Ở Việt
Nam dù văn học thiếu nhi không sớm được nghiên cứu chuyên biệt như những loại
hình văn học khác nhưng cũng đã được các nhà nghiên cứu xác lập cho nó một chỗ
đứng nhất định với một khái niệm cụ thể.
Từ điển Thuật ngữ văn học, đã định nghĩa về “văn học thiếu nhi” như sau:
“Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập

16


khoa học dành riêng cho thiếu nhi” [25, tr.342]. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu
nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông
thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi.
Trong Bách khoa thƣ văn học thiếu nhi, quan niệm về văn học thiếu nhi
tường tận hơn, chi tiết hơn. Khái niệm văn học thiếu nhi được nhận diện ở nhiều

góc độ: chủ thể sáng tác, nhân vật trung tâm, mục đích sáng tác, đối tượng tiếp
nhận. Cụ thể: “Mọi tác phẩm đƣợc nhà văn sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi
dƣỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi và
đôi khi cũng là ngƣời lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật, đồ vật, một cái cây....
Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các em mà cũng là các nhà văn
thuộc mọi lứa tuổi. Những tác phẩm mà thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi các em đã
tìm thấy trong đó cách nghĩ, cách và cách hành động của chính các em, hơn thế,
các em còn tìm đƣợc ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những nguồn
động viên khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích trong quá trình hoàn thiện tính
cách của mình” [74, tr. 23].
Như vậy, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung
tâm hoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người hay là thế giới tự
nhiên....nhưng được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với
vốn trải nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện
đạo đức, tâm hồn cho trẻ.
1.2.2 Sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam
1.2.2.1 Giai đoạn trƣớc cách mạng tháng Tám - 1945
Nhìn lại quá trình lịch sử văn học Việt Nam, có thể thấy văn học thiếu nhi
luôn đồng hành cùng với văn học dân tộc. Đây là một bộ phận văn học xuất hiện từ
rất sớm, từ những bài vè, bài đồng dao, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn. Từ khi văn
học viết xuất hiện, Thánh Tông với Thánh Tông di thảo và Nguyễn Trãi với Gia
huấn ca đã có sự quan tâm đến các em thiếu nhi. Đến đầu thế kỉ XX, văn học thiếu
nhi có sự mở đầu trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Năm 1917, Phan Bội Châu
viết truyện Chân tƣớng quân, Phạm Hồng Thái, Tản Đà.. đều là những tác giả có
đóng góp đối với văn học thiếu nhi giai đoạn này. Tiếp theo là sự thành công của

17


Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu (1938), Tô Hoài với Dế Mèn phiêu lƣu kí

(1941)...
Trước Cách mạng, nhóm Tự lực Văn đoàn có sách dành cho thiếu nhi tên là
Sách hồng, Hoa mai, Tuổi xanh, Hai đứa trẻ …quan tâm phản ánh sinh hoạt của trẻ
em thành thị. Các tác phẩm như: Từ ngày mẹ chết, Bài học quét nhà, Một đám cƣới,
Bảy bông hoa lép (Nam Cao), Bữa no đòn (Nguyễn Công Hoan), Những ngày thơ
ấu (Nguyên Hồng). … lại hướng đến nỗi bất hạnh của trẻ em nghèo. Chú ý khai
thác số phận trẻ thơ với những bi kịch nhân sinh sâu sắc, các nhà văn hiện thực đã
để lại trên trang viết những cuộc đời thiếu thốn vật chất, trống vắng tinh thần và
gánh nặng về tâm hồn. Trong thời kì này đã xuất hiện một số truyện đồng thoại của
Tô Hoài. Trong các tác phẩm như Đám cƣới chuột, Võ sĩ Bọ Ngựa, Dế Mèn phiêu
lƣu kí.... tác giả đã mượn hình thức đồng thoại, mượn hình tượng con vật để chuyển
tải những vấn đề mang tính xã hội. Nhìn chung, trước cách mạng tháng Tám năm
1945 chưa thực sự có phong trào sáng tác cho trẻ em nhưng những tác phẩm của
giai đoạn này đã đặt nền móng đầu tiên cho văn học thiếu nhi nước nhà.
1.2.2.2 Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, truyện viết cho thiếu nhi phát triển
toàn diện và phong phú hơn nhờ có sự quan tâm của Đảng và nhà nước. Có một bộ
phận chuyên về văn học thiếu nhi do Tô Hoài và Hồ Trúc đảm nhiệm. Thời kì
kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954, dù bộn bề trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thiếu nhi và văn học thiếu nhi.
Trong Thƣ trung thu gửi các cháu nhi đồng Bác viết: “Các cháu phải yêu, yêu Tổ
quốc, yêu đồng bào, yêu lao động…”. Lời dạy ấy của Bác sau này đã trở thành đề
tài, chủ đề và nội dung của các tác phẩm văn học thiếu nhi. Nguyễn Huy Tưởng
viết: Tìm mẹ, Chiến sĩ calô, Hà Học Hợi học sinh gƣơng mẫu, Hai bàn tay chiến sĩ,
Điện Biên của chúng em... đều nói về những em bé mưu trí, dũng cảm giúp bộ đội
chiến đấu. Nguyễn Tuân viết: Chú Giao làng Sen, Nguyên Hồng viết: Dƣới chân
cầu mây. Tô Hoài viết: Hoa Sơn cũng đều đề cập đến những tấm gương dũng cảm
của các em, đến công sức của các em trong sự thắng lợi của cuộc kháng chiến. Thời
kì này, nhà thơ Tố Hữu có làm nhiều bài thơ hay trong đó có Lƣợm là bài thơ nổi
18



×