Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.38 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta ngày càng hội nhập và phát triển
như hiện nay thì trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu
quả và được sử dụng khá phổ biến. Thỏa thuận trọng tài là một yếu tố cơ bản,
xuyên suốt trong hoạt động trọng tài. Do đó, để có được một khung pháp lý phù
hợp về trọng tài thương mại thì việc xây dựng và hoàn thiện một hành lang pháp
lý về trọng tài thương mại là một nhu cầu bức thiết và được đặt lên hàng đầu. 1
Để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài:
“Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng
tài thương mại” cho bài tập lớn của mình.
Với sự hiểu biết còn hạn chế, bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu
sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết có thể hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát về trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài.
1. Khái quát chung về trọng tài thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định: “Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này”. Phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài được lựa chọn sử dụng ngày càng nhiều. Khi nghiên cứu khái
niệm trọng tài ta thường xem xét dưới hai góc độ chủ yếu: là cơ quan giải quyết
tranh chấp (tổ chức trọng tài) và một hình thức giải quyết tranh chấp (hình thức
trọng tài).
Trọng tài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, được lập ra một cách tự
nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh doanh theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại, được tiến hành bởi các trung tâm trọng tài và các trọng tài
viên với tư cách là chủ thể thứ ba độc lập, thông qua các trình tự, thủ tục nhất
1


Mỵ Thị Phương, “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”, Hà Nội, 2012.

1


định đưa ra một phán quyết dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp
và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.2
2. Khái quát chung về thỏa thuận trọng tài.
2.1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài.
Khoản 2 Điều 3 LTTTM 2010 quy định: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa
thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát
sinh hoặc đã phát sinh”.
Như vậy, có thể hiểu khái quát thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận bằng
văn bản theo đó các bên kí kết nhất trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc
sẽ có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài
ra giải quyết bằng con đường trọng tài. Trong phương thức trọng tài thì thỏa
thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất. Thỏa thuận trọng tài là yếu tố tiên
quyết để hình thành việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Bản chất của thỏa
thuận ở đây thể hiện sự thống nhất ý chí, sự tự nguyện và đồng thuận của các
bên tham gia tranh chấp. Điều cơ bản làm nên một thỏa thuận trọng tài là sự
thống nhất ý chí của các bên khi cùng nhau đưa tranh chấp ra giải quyết tại một
tổ chức trọng tài nhất định. Thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý nếu
chỉ là ý chí chủ quan của một bên hay là sự áp đặt của bất kỳ cơ quan, tổ chức
hay cá nhân nào.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thỏa thuận trọng tài có những đặc
điểm cụ thể sau:
Thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ý chí của các bên có liên quan trong
việc giải quyết tranh chấp. Theo đó, các bên cam kết và đồng thuận với nhau về
việc sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra, đồng
thời thỏa thuận cụ thể về cách thức, trình tự giải quyết và các vấn đề khác có

liên quan.
Thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới hình thức văn bản. Trong các
trường hợp, thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
2

Trần Thanh Huyền, “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận trọng tài theo Luật trọng tài thương mại
2010”, Hà Nội, 2012.

2


Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ xác định
ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập trước hoặc sau khi tranh chấp
xảy ra. Một là, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ
thương mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
tương lai. Hai là, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh
chấp ra giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Nội dung của thỏa thuận trọng tài: pháp luật có quy định một số điều
khoản mang tính cơ bản trong thỏa thuận trọng tài như phạm vi tranh chấp được
giải quyết bằng trọng tài, tổ chức trọng tài, ngôn ngữ trọng tài, luật áp dụng, địa
điểm trọng tài, chi phí trọng tài, cam kết thi hành quyết định trọng tài. Ngoài ra
các bên có thể thỏa thuận lựa chọn thêm các điều khoản khác nhằm tạo điều kiện
cho việc giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất.
Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng, trong cả trường
hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng. Dù thỏa thuận trọng
tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay
dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài
thực chất là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp
đồng chính. Như vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, bị hết hiệu lực

thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị.3
2.2. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Thỏa thuận trọng tài là nguồn gốc phát sinh hoạt động của trọng tài. Thỏa
thuận trọng tài là cơ sở để vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, qua đó
giúp các bên thực hiện quyền tự do kinh doanh, trong đó có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp; mặt khác giúp giảm tải công việc xét xử của
toà án, chuyển bớt các tranh chấp cho các chế định xã hội, cụ thể là trọng tài giải
quyết.
Thỏa thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được xác lập
dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Một khi đã xác
3

Trần Thanh Huyền, “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận trọng tài theo Luật trọng tài thương mại
2010”, Hà Nội, 2012.

3


lập thỏa thuận trọng tài thì không bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài. Ngay cả khi thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp
đồng và hợp đồng đã chấm dứt hoặc vô hiệu thì điều khoản trọng tài vẫn có thể
tồn tại, vẫn có hiệu lực.
Thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất, luôn được đặt lên hàng đầu
từ khi đưa tranh chấp thương mại ra trọng tài cho đến khi phán quyết cuối cùng
được đưa ra. Thỏa thuận trọng tài với nội dung chính là quyền lựa chọn của các
bên về các yếu tố của luật tố tụng trọng tài sao cho phù hợp nhất với mình nên
sẽ giúp hình thành những điều kiện tốt nhất để tiến hành trọng tài và thi hành
quyết định trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với tranh
chấp. Tuy nhiên điều này không loại trừ sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động

giải quyết tranh chấp của trọng tài khi: có khiếu nại liên quan đến thỏa thuận
trọng tài vô hiệu, yêu cầu các bên áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, chỉ định
trọng tài viên (trọng tài vụ việc), triệu tập người làm chứng, yêu cầu cơ quan tổ
chức thu thập chứng cứ và khi có căn cứ pháp luật đề nghị Tòa án hủy phán
quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc.
Thỏa thuận trọng tài trao cho các trọng tài viên thẩm quyền giải quyết
tranh chấp có thể xảy ra giữa các bên. Đồng thời với việc loại trừ thẩm quyền
của tòa án quốc gia, thỏa thuận trọng tài trao cho các trọng tài viên thẩm quyền
giải quyết tranh chấp và đây chính là cơ sở pháp lý cho các trọng tài viên thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình.4
II. Thỏa thuận trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành.
1. Hệ thống quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng
tài.
Tại Việt Nam hiện nay, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động của trọng tài
thương mại được tạo thành bởi quy định trong các văn bản sau đây:
4

Trần Thanh Huyền, “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận trọng tài theo Luật trọng tài thương mại
2010”, Hà Nội, 2012.

4


Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các Quyết định của
Trọng tài nước ngoài mà Việt Nam là thành viên, nội dung cơ bản của công ước
đã được luật hóa tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2004;
Bộ luật tố tụng Dân sự 2015;
Bộ luật Dân sự 2015;
Luật Trọng tài thương mại 2010;

Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán số 01/2014/NQ-HĐTP ngày
20/3/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định Luật trọng tài thương mại.
2. Những quy định cụ thể liên quan đến thỏa thuận trọng tài thương mại.
2.1. Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
LTTTM 2010 không quy định các điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài. Với tư cách là một giao dịch dân sự, thỏa thuận trọng tài phải tuân theo
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 122 BLDS
2005.
a) Điều kiện về năng lực chủ thể.
Người tham gia kí kết thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân
sự. Đối với mỗi loại chủ thể thì nội dung pháp lý điều chỉnh lại có những quy
định khác nhau phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng loại chủ thể. Chủ thể ở
đây gồm có: cá nhân, pháp nhân và quốc gia ( hoặc các cơ quan nhà nước), đối
với mỗi loại chủ thể pháp luật đều có những quy định về cách xác định luật áp
dụng riêng. Theo pháp luật Việt Nam, thỏa thuận trọng tài phải được người đại
diện hợp pháp của pháp nhân ký kết. Người đại diện hợp pháp là người đại diện
theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền.
b) Điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể.
Thỏa thuận trọng tài là một loại hợp đồng trong đó ý chí tự nguyện của
chủ thể đóng vai trò là một nguyên tắc vô cùng quan trọng trong quá trình xác
lập. Thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý nếu nó không phải là kết
quả của sự thống nhất ý chí của bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
c) Điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài.

5


Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống
nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ thương mại. Nhìn chung, pháp luật
trọng tài của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thỏa thuận trọng tài

phải được thể hiện dưới dạng bằng văn bản. Quy định này đã trở thành một tập
quán quốc tế chung bởi chỉ có thể được xác lập bằng văn bản mới tạo ra sự tin
tưởng cho các bên, đồng thời là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên khi
phát sinh tranh chấp.
d) Điều kiện về thẩm quyền của trọng tài.
Không phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết được bằng trọng tài,
ngay cả khi giữa các bên tranh chấp thỏa mãn điều kiện về sự thỏa thuận. Đó là
khi pháp luật nơi diễn ra trọng tài không cho phép giải quyết tranh chấp đó
thông qua hình thức trọng tài. Trong thương mại quốc tế, Việt Nam đã tuyên bố
bảo lưu đối với Công ước New York 1958 tại Quyết định số 453 QĐ/CTN của
Chủ tịch nước ngày 17/7/1995, không cho phép thỏa thuận trọng tài đối với tất
cả các vấn đề liên quan đến trật tự công cộng.
e) Nội dung của thỏa thuận trọng tài không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.5
2.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài.
Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống
nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ thương mại. Phù hợp với thông lệ trọng
tài thương mại thế giới, LTTTM quy định thỏa thuận trọng tài có thể được xác
lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa
thuận riêng (Khoản 1 Điều 16). Thỏa thuận trọng tài dù là một điều khoản của
hợp đồng hay một văn bản riêng biệt đều giống nhau về bản chất và đều có giá
trị pháp lý như nhau.
Khoản 2 Điều 16 LTTTM 2010 đã khắc phục được sự không rõ ràng về
các dạng tồn tại của thỏa thuận trọng tài quy định trong Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003. Bởi, Khoản 1 Điều 9 PLTTTM 2003 quy định: “Thỏa thuận
trọng tài phải được lập thành văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, thư
5

Trần Thanh Huyền, “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận trọng tài theo Luật trọng tài thương mại
2010”, Hà Nội, 2012.


6


báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của
các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thỏa thuận trọng tài
bằng văn bản”. Đây là một hạn chế của PLTTTM khi không có hướng dẫn cụ
thể “hình thức văn bản khác” là gì. Điều này gây nên khó khăn đối với trọng tài
viên và các bên khi xác định hình thức nào là văn bản, hình thức nào không
được coi là văn bản.
Do đó, việc sửa đổi của LTTTM 2010 về hình thức trọng tài thương mại
bằng việc liệt kê như trên dù không phải lúc nào cũng bao quát được hết các nội
dung nhưng trong trường hợp này là vô cùng cần thiết vì nó sẽ giúp các Trung
tâm trọng tài hay Hội đồng trọng tài dễ dàng tiếp nhận các vụ tranh chấp mà
không phải dè dặt suy đoán với một vài khác biệt về hình thức của thỏa thuận
trọng tài đồng thời tạo nên sự tương đồng của pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam với Luật mẫu UNCITRAL và Luật trọng tài của nhiều nước trên thế
giới.6
2.3. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là một hợp đồng trong đó các bên đồng ý đệ trình các
tranh chấp đang tồn tại hoặc các tranh chấp phát sinh trong tương lai của mình ra
trọng tài, mà không phải ra tòa án. Điều 19 LTTTM 2010 quy định: “Thoả
thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ
hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu
lực của thoả thuận trọng tài”.
Theo đó, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng, trong cả
trường hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng. Dù thỏa thuận
trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng
chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận
trọng tài thực chất là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập

với hợp đồng chính. Như vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, bị hết
hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị.

6

Mỵ Thị Phương, “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”, Hà Nội, 2012.

7


2.4. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên thỏa thuận về việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng thỏa thuận đó không được công nhận hiệu
lực. PLTTTM 2003 đã liệt kê các trường hợp thỏa thuận trọng tài bị coi là vô
hiệu, tuy nhiên một số quy định không hợp lý và mâu thuẫn với các quy định
khác của Pháp lệnh này cũng như thông lệ của pháp luật quốc tế: “Thỏa thuận
trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức
trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên có thỏa
thuận bổ sung”.
LTTTM 2010 đã khắc phục hạn chế trên của PLTTTM. Điều 18 LTTTM
2010 có quy định cụ thể về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu như sau:
a) Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
Pháp luật luôn tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên về việc đưa
tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên dù giữa các bên có tồn tại thỏa
thuận trọng tài xuất phát từ sự tự do thỏa thuận nhưng tranh chấp giữa họ phát
sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài thì thỏa thuận
trọng tài cũng vô hiệu và dẫn đến hậu quả là trọng tài không có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp. Theo Điều 2 của Luật, phạm vi thẩm quyền của trọng tài được
mở rộng, không chỉ bao gồm tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại hiểu

theo nghĩa rộng như quy định của PLTTTM 2003. Như vậy, phạm vi xác định
thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không thuộc thẩm quyền của trọng tài được thu
hẹp.
b) Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
Người không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được hiểu là
người không có thẩm quyền theo luật định để ký kết thỏa thuận trọng tài, ví dụ
như người không được ủy quyền hợp pháp, người được ủy quyền vượt quá phạm
vi ủy quyền...Chính vì vậy, khi một bên ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm
quyền ký kết thì thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu, bởi ý chí thể hiện trong thỏa
8


thuận trọng tài có thể không phải là ý chí thật của bên ký sai thẩm quyền. Tuy
nhiên trong thực tế có nhiều trường hợp tại thời điểm ký thỏa thuận trọng tài thì
người ký không được ủy quyền nhưng sau đó người đại diện theo pháp luật chấp
thuận thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài không bị coi là vô hiệu.
c) Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của BLDS.
Năng lực hành vi dân sự là một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Theo quy định của BLDS 2005 thì
năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của
mình để xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Người không có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Để chứng minh người ký thỏa
thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải có giấy tờ tài
liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền
hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đối với chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài là pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia

đình,...do đặc trưng việc tham gia quan hệ pháp luật của các chủ thể này phải
thông qua người đại diện hợp pháp nên khi xem xét năng lực hành vi dân sự của
các chủ thể này phải căn cứ vào năng lực hành vi dân sự của người đại diện hợp
pháp. Nếu người đại diện không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì thỏa
thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu.
d) Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều 16 của Luật này.
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định thỏa thuận
trọng tài phải được thể hiện bằng văn bản, nghĩa là thỏa thuận trọng tài có giá trị
chứng cứ xác định ý chí của các bên khi muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài. Các hình thức khác của thỏa thuận trọng tài như lời nói hay hành vi đều dẫn
tới hận quả pháp lý là thỏa thuận trọng tài vô hiệu.

9


e) Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là
vô hiệu.
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các bên dựa
trên nguyên tắc tự do, bình đẳng. Sự thống nhất ý chí ấy không thể bị ràng buộc,
tác động hay áp đặt bởi pháp luật hay bất kỳ một cá nhân, cơ quan hay tổ chức
nào. Chính vì thế sự lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép giữa các bên tham gia ký kết
thỏa thuận trọng tài là những hành động đi ngược lại với nguyên tắc tự do thỏa
thuận và hệ quả tất yếu dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
f) Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Khoản 6 Điều 18 LTTTM và Khoản 6 Điều 3 NQ 01/2014/ NQ – HĐTP
quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “vi phạm điều cấm của pháp luật”.
Theo đó, thỏa thuận thuộc trường hợp quy định tại Điều 128 BLDS được coi là
thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.7

2.5. Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được.
Tuy LTTTM không có quy định cụ thể về các điều kiện có hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài nhưng lại có quy định về trường hợp thỏa thuận trọng tài vô
hiệu tại Điều 18. Như vậy, có thể suy đoán thỏa thuận trọng tài không rơi vào
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì được xác định là thỏa thuận trọng tài
có hiệu lực . Tuy nhiên, chỉ có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực cũng không đảm
bảo rằng tranh chấp sẽ được giải quyết bởi trọng tài. Trên thực tế, có nhiều
trường hợp, các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó
có hiệu lực theo quy định của pháp luật nhưng khi tranh chấp xảy ra, thỏa thuận
trọng tài đó không thể thực hiện được do nhiều nguyên nhân.
Theo Điều 6 LTTTM 2010 trong trường hợp thỏa thuận trọng tài không
thể thực hiện được, các bên tranh chấp có thể khởi kiện ra tòa án có thẩm quyền
để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, LTTTM cũng như Nghị định số
63/2011/NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
LTTTM đều không quy định cụ thể thế nào là thỏa thuận trọng tài không thể
7

Trần Thanh Huyền, “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận trọng tài theo Luật trọng tài thương mại
2010”, Hà Nội, 2012.

10


thực hiện được và trường hợp có thể coi thỏa thuận trọng tài là không thể thực
hiện được. Thiếu sót này trong quy định của pháp luật sẽ gây nhiều khó khăn
cho các chủ thể khi xác định thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay
không để khởi kiện ra tòa án.8
Để khắc phục vướng mắc trên HĐTP đã ban hành NQ 01/2014/ NQ –
HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định LTTTM. Cụ thể, tại Điều 4 của NQ
đã quy định khá chi tiết và rõ ràng về thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện

được.
2.6. Thỏa thuận trọng tài được kí giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và
người tiêu dùng.
Lần đầu tiên, LTTTM 2010 ghi nhận quyền lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp của người tiêu dùng tại Điều 17 như sau: “Đối với các tranh
chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều
khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng
hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng
vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà
cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được
người tiêu dùng chấp thuận”. Theo đó, đối với các tranh chấp giữa doanh
nghiệp và người tiêu dùng thì điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các
điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn, thỏa
thuận trọng tài chỉ có hiệu lực với điều kiện nhà cung cấp phải thông báo trước
và được người tiêu dùng chấp thuận bằng một văn bản riêng.

8

Trần Quỳnh Anh, “Một số vướng mắc và hướng hoàn thiện Luật trọng tài thương mại”, Tạp chí Luật học số
7/ 2012.

11


Quy định này dựa trên một thực tế thông thường là người tiêu dùng bị đặt ở
một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản
trong hợp đồng in sẵn của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ, nên cần thiết
cần có những quy định để bảo vệ người tiêu dùng trong các tình huống cần
thiết. Đây là một quy định mang tính tiến bộ của LTTTM 2010. 9
3. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa

thuận trọng tài.
LTTTM 2010 thay thế cho PLTTTM 2003 đã khắc phục những hạn chế
của PLTTTM và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, LTTTM đang dần
bộc lộ một số vướng mắc cần tiếp tục được hoàn thiện.
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 2 LTTTM thì trọng tài thương mại được giải
quyết các loại việc sau: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương
mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải
quyết bằng trọng tài. Với quy định này, việc xác định thẩm quyền của trọng tài
thương mại sẽ gặp khó khăn ở 2 vấn đề: một là tranh chấp phát sinh từ “hoạt
động thương mại” được hiểu theo quy định nào?; hai là “tranh chấp khác” mà
LTTTM quy định giải quyết theo thủ tục trọng tài rất khó xác định trong pháp
luật hiện hành Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam không có quy định về nội dung chủ yếu của
thỏa thuận trọng tài. Việc không quy định về nội dung chủ yếu của thỏa thuận
trọng tài tuy có ưu điểm là nâng cao quyền tự do thỏa thuận của các bên khi xác
lập thỏa thuận trọng tài nhưng lại gây không ít khó khăn cho các bên tranh chấp
cũng như trọng tài và tòa án khi xác định thông tin được đưa ra có phải là thỏa
thuận trọng tài hay không?
Thứ ba, các bên soạn thảo thảo thuận trọng tài còn nhiều thiếu sót. Đó là
những điều khoản trọng tài hay thỏa thuận trọng tài có khiếm khuyết, không cho
phép triển khai tố tụng trọng tài. Còn tồn tại điều khoản lựa chọn đồng thời tòa
9

Mỵ Thị Phương, “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”, Hà Nội, 2012.

12



án và trọng tài. Điều khoản này đặt ra câu hỏi về bản chất của cơ chế giải quyết
tranh chấp do các bên lựa chọn. Điều khoản quy định nhờ đến một hội đồng
trọng tài haymột tòa án quốc gia? Hay điều khoản đơn thuần chỉ quy định nhờ
đến hòa giải trước khi có sự can thiệp của một tòa án có thẩm quyền? Để tạo
điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp cũng như trọng tài thương mại và tòa
án khi xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, pháp luật Việt
Nam cũng nên bổ sung quy định làm rõ nội dung cơ bản phải có trong thỏa
thuận trọng tài.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài.
1. Các quy định pháp luật cần sửa đổi, bổ sung.
Những quy định của LTTTM khá tương đồng với hệ thống các văn bản
pháp luật trong nước và phù hợp với pháp luật trọng tài quốc tế nhưng để văn
bản luật này được áp dụng thuận lợi hơn thì Chính phủ cần ban hành một số văn
bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành để hướng dẫn cụ thể hơn một số vấn
đề về thỏa thuận trọng tài mà Luật chưa đề cập rõ:
Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, Luật cần có văn bản hướng dẫn thi
hành Điều 2 LTTTM để có cách hiểu rõ ràng và chi tiết hơn về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài.
Thứ hai, pháp luật cần có quy định về nội dung chủ yếu của thỏa thuận
trọng tài nhằm tháo gỡ vướng mắc cho các bên tranh chấp cũng như trọng tài và
tòa án khi xác định thông tin được đưa ra có phải là thỏa thuận trọng tài hay
không?
Thứ ba, hiện nay hầu hết pháp luật của các nước trên thế giới đều quy
định rõ các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng hoặc ngoài quan hệ hợp
đồng đều được giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, theo định nghĩa về thỏa
thuận trọng tài mà LTTTM 2010 đưa ra thì vẫn chưa quy định rõ ràng các tranh
chấp phát sinh từ quan hệ thuộc phạm vi giải quyết tranh chấp của Trọng tài
thương mại là quan hệ hợp đồng hay quan hệ ngoài hợp đồng. Thiết nghĩ cần
phải có quy định rõ ràng về vấn đề này để tránh khó khăn khi áp dụng.


13


2. Vấn đề soạn thảo thỏa thuận trọng tài.
Khi tham gia soạn thảo thỏa thuận trọng tài thì các bên cần chú ý một số
vấn đề sau:
Thỏa thuận trọng tài cần phải đơn giản và chính xác. Khi soạn thảo thì
điều khoản trọng tài nên quy định khái quát một cách tối đa các tranh chấp
không chỉ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng mà còn cả những vấn đề về sự
tồn tại, hiệu lực của hợp đồng, vi phạm, chấm dứt hợp đồng và cả những hệ quả
tài chính của hợp đồng.
Về hình thức của thỏa thuận trọng tài: khi soạn thảo điều khoản trọng tài
các bên cần cân nhắc để chọn ra hình thức trọng tài phù hợp nhất cho cả các bên.
Nếu lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc thì cần nêu rõ các yếu tố của việc tiến
hành trọng tài, nếu lựa chọn hình thức Trọng tài quy chế thì cần lưu ý nêu rõ tên
của tổ chức trong tài và quy tắc tố tụng trọng tài sẽ được áp dụng.
Về số lượng trọng tài viên: hiện nay theo quy định của LTTTM, nếu
không có sự thỏa thuận thì số lượng trọng tài viên sẽ là 3 trọng tài viên, pháp
luật cho phép 3 trọng tài viên nếu như không có thỏa thuận là khá hợp lý cho
những vụ tranh chấp lớn và phức tạp tránh được những định kiến cá nhân như
đối với hình thức chỉ bao gồm một trọng tài viên duy nhất.
Về địa điểm tiến hành trọng tài: đối với các tranh chấp trong nước thì việc
giải quyết tranh chấp tại trọng tài sẽ đơn giản và thuận tiện hơn, tuy nhiên đối
với những tranh chấp thương mại mang tính chất nước ngoài thì việc lựa chọn
địa điểm tiến hành trọng tài là một vấn đề rất quan trọng để các bên lưu ý tới khi
soạn thảo các điều khoản trọng tài. Các bên nên lựa chọn địa điểm tiến hành
trọng tài tại các quốc gia đã thông qua Luật mẫu UNCITRAL. Đồng thời khi lựa
chọn địa điểm tiến hành trọng tài cần phải chú ý tới vấn đề quốc gia được chọn
làm địa điểm tiến hành trọng tài đã phê chuẩn Công ước New York 1958 về
công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài hay chưa.

Luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp: khi thực hiện hợp đồng các bên
cần phải biết luật nào áp dụng cho hợp đồng và luật nào áp dụng cho tố tụng
trọng tài. Nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này thì Hội đồng trọng tài
14


sẽ quyết định áp dụng luật phù hợp nhất với quan hệ hợp đồng. Điều này cũng
đã được ghi nhận tại Điều 14 LTTTM 2010. Tuy nhiên, khi soạn thảo điều khoản
trọng tài các bên cần quyết định trước luật áp dụng cho hợp đồng để giúp chủ
động hơn trong việc thực hiện hợp đồng.
Về ngôn ngữ trọng tài, để có được một thỏa thuận trọng tài ngắn gọn,
chính xác và đầy đủ thì tốt nhất các bên nên theo thông lệ chung khi lựa chọn
ngôn ngữ trọng tài, ngôn ngữ dùng trong xét xử trọng tài là ngôn ngữ thường
được các bên sử dụng để giao tiếp, liên lạc với nhau và là ngôn ngữ được dùng
trong quá trình đàm phán và soạn thảo hợp đồng.10
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Qua những vấn đề đã phân tích trên đây, có thể khẳng định vị trí vai trò
quan trọng của thỏa thuận trọng tài đói với phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài đóng vai trò là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt và là
“hòn đá tảng” đặt nền móng cho sự tồn tại và hoạt động của trọng tài.

11

Tuy

LTTTM 2010 ra đời đã mang đến nhiều quy định mới, tiến bộ để điều chỉnh về
trọng tài thương mại nhưng để đảm bảo khung pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt
động giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại tại Việt Nam, những quy
định của LTTTM vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện.


10
11

Mỵ Thị Phương, “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”, Hà Nội, 2012.
Hoàng Linh, “Tìm hiểu một số vấn đề pháp lý về thỏa thuận trọng tài”, Hà Nội, 2009.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật trọng tài thương mại 2010
2. Bộ luật tố tụng dân sự 2015
3. Bộ luật dân sự 2015
4. Hướng dẫn học môn Luật thương mại tập 2, Bộ môn Luật thương mại
trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2014
5. Mỵ Thị Phương – Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, Hà Nội, 2012
6. Hoàng Linh – Tìm hiểu một số vấn đề pháp lí về thỏa thuận trọng tài, Hà
Nội, 2009
7. Trần Quỳnh Anh, “Một số vướng mắc và hướng hoàn thiện Luật trọng tài
thương mại”, Tạp chí Luật học số 7/ 2012.
8. Trần Thanh Huyền, “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận trọng tài
theo Luật trọng tài thương mại 2010”, Hà Nội, 2012.

16



×