Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.55 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUANG TRUNG

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NHÂN LỰC NGÀNH THANH TRA
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Số liệu trong luận văn hoàn toàn dựa theo số liệu
thu thập và điều tra thực tế tại địa phương. Các thông tin trích dẫn và số liệu
sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn tài liệu tham khảo.
Tác giả luận văn



Trần Quang Trung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH THANH TRA .............................................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của nhân lực ngành thanh tra ...................... 8
1.2. Khái niệm, mục tiêu, chủ thể, giải pháp và công cụ của chính sách phát
triển nhân lực ngành thanh tra ......................................................................... 16
1.3. Những yếu tố xã hội tác động đến chính sách phát triển nhân lực ngành
thanh tra ........................................................................................................... 26
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN
LỰC NGÀNH THANH TRA Ở TỈNH QUẢNG NAM ............................. 31
2.1. Hiện trạng chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng
Nam ................................................................................................................. 31
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh
tra tại tỉnh Quảng Nam .................................................................................... 35
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
NGÀNH THANH TRA TẠI TỈNH QUẢNG NAM ................................... 58
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng hoàn thiện chính sách phát triển nhân
lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam ......................................................... 58
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra
tại tỉnh Quảng Nam ......................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CB, CC

: Cán bộ, công chức

HĐND

: Hội đồng nhân dân

NXB

: Nhà xuất bản

TW

: Trung ương

TCCB

: Tổ chức cán bộ

TTCP

: Thanh tra chính phủ

TTV

: Thanh tra viên

TTVC


: Thanh tra viên chính

TTVCC

: Thanh tra viên cao cấp

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
2.1

2.2

Tên bảng
Số lượng nhân lực và công chức được bổ nhiệm vào
ngạch thanh tra của ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam
Chất lượng (trình độ) nhân lực ngành thanh tra tỉnh
Quảng Nam, năm 2013 và năm 2016

Trang
36


38

Số liệu kết quả thanh tra hành chính của các cơ quan
2.3

thanh tra nhà nước tại tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013

39

– 2016
2.4

2.5
2.6
2.7

Tổng hợp số liệu về tỷ lệ giải quyết khiếu nại giai
đoạn 2013 - 2016
Thống kê số liệu kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
giai đoạn 2013 – 2016
Số liệu công tác phòng, chống tham nhũng
Kết quả đánh giá nhân lực ngành thanh tra tỉnh Quảng
Nam, giai đoạn 2013 - 2016

40

40
41
48



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bác Hồ từng nói “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Công việc thanh tra là
công việc khó khăn vất vả nhưng “Đối với cán bộ, được làm công tác thanh tra là
một vinh dự. Vì sao? Vì công tác thanh tra là một công tác quan trọng, Đảng và
Chính phủ có tin cậy mới giao cho nhiệm vụ ấy. Có thể nói cán bộ thanh tra là tai
mắt của Đảng và Chính phủ, tai mắt có sáng suốt thì người mới sáng suốt”. Do đó,
ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý tới việc sử
dụng, phát huy vai trò công tác thanh tra. Để “giám sát tất cả các công việc và các
nhân viên của UBND và các cơ quan của Chính phủ…”, ngày 23/11/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt – một tổ chức tiền
thân của hệ thống Thanh tra Chính phủ hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của
dưới”, đây là quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất sâu sắc, Người đã chỉ rõ vị
trí và vai trò đặc biệt của thanh tra trong hoạt động của nhà nước và đời sống xã hội.
Người đã ví thanh tra quan trọng như tai mắt của con người - như bộ phận cấu thành
cơ thể con người, là phương tiện cực kỳ trọng yếu giúp cho con người nhận thức và
phát triển trí tuệ. Cùng với vai trò là “tai mắt của trên”, thanh tra còn là “bạn của
dưới”. Điều đó có nghĩa là đối với những người là lãnh đạo quản lý cấp dưới thì
thanh tra chính là người bạn giúp mình nhìn thấy, biết được, phát hiện và chỉ cho
mình thấy được những việc mình làm đúng, làm tốt để tiếp tục phát huy, những việc
làm sai, làm không đầy đủ, làm thiếu trách nhiệm để khắc phục sửa chữa nâng cao
năng lực và trách nhiệm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công
chức làm công tác thanh tra, Bác dạy rằng: Công chức thanh tra phải có năng lực,
kinh nghiệm, uy tín và giàu bản lĩnh. Đồng thời phải cố gắng học tập, trau dồi đạo
đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ, chuyên môn. Để làm gương
cho người ta soi thì công chức thanh tra phải thực sự có tài năng và tấm gương đạo
đức cách mạng trong sáng. Công tác củng cố tổ chức, đáp ứng đủ số lượng cán bộ


1


làm công tác thanh tra là một yêu cầu quan trọng, tuy nhiên điều quan trọng hơn là
phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra. Lựa chọn, bố trí người làm công
tác thanh tra đáp ứng được các yêu cầu về phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm là yêu
cầu tiên quyết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra.
Cùng với quá trình thay đổi cơ cấu tổ chức cũng như tên gọi từ ngày thành lập
đến nay thì công tác xây dựng đội ngũ nhân lực ngành thanh tra đã có những
chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm tư tưởng, được thể hiện trong cơ
chế, chính sách, pháp luật từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo và quản lý đã từng
bước đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước hiện nay.
Về chất lượng, phần lớn đội ngũ nhân lực hiện đang công tác đã được rèn
luyện, thử thách qua quá trình đổi mới, xây dựng đất nước có bản lĩnh chính trị
vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Còn đa phần những cán bộ trẻ
được đào tạo bài bản về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và có một khoảng thời
gian hoạt động thực tiễn nên năng lực của đội ngũ nhân lực từng bước được nâng
cao về mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, cũng như đổi mới của đất nước trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, đội ngũ nhân lực thanh tra còn
những tồn tại, hạn chế: Chất lượng đội ngũ nhân lực thanh tra chưa đồng đều, trình
độ năng lực thực tế chưa tương xứng với văn bằng. Số nhân lực đào tạo mới có đủ
trình độ chuyên môn nhưng lại thiếu kinh nghiệm và ứng xử trong lĩnh vực thanh
tra. Trình độ và năng lực của đội ngũ nhân lực thanh tra chưa ngang tầm với yêu
cầu nhiệm vụ, còn bất cập về nhiều mặt như tri thức và năng lực thực thi nhiệm vụ
cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác còn rất
hạn chế. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận
nhân lực còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thần phục vụ nhân dân

chưa cao, số lượng, cơ cấu đội ngũ nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt
và lâu dài; tình trạng hẫng hụt giữa các thế hệ công chức còn phổ biến; thiếu đội
ngũ nhân lực nòng cốt kế cận có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao; đội ngũ

2


nhân lực thường xuyên có sự thay đổi đặc biệt là thanh tra ở cấp huyện.
Chính bởi những lý do đó, mà nhu cầu xây dựng, chỉnh đốn và nâng cao chất
lượng và trình độ của đội ngũ nhân lực ngành thanh tra trong thời đại mới là cần
thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng đội ngũ,
nhân lực ngành thanh tra vững mạnh, chuyên nghiệp và đó cũng là lý do tôi chọn đề
tài “Chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”
làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề chính sách phát triển nhân lực nói chung và chính sách phát triển
nhân lực ngành thanh tra nói riêng là một trong những nội dung có ý nghĩa chiến
lược trong công cuộc xây dựng XHCN ở Việt Nam. Đây là những vấn đề thực tiễn
lớn đòi hỏi phải giải quyết một cách khoa học, đúng đắn và thận trọng. Trong quá
trình nghiên cứu, viết luận văn, Tác giả có tham khảo một số luận văn, sách và công
trình nghiên cứu của một số tác giả có nội dung liên quan đến hoạt động, mô hình tổ
chức và lịch sử phát triển ngành thanh tra, cụ thể:
- Đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm về lịch sử và truyền thống ngành thanh tra
Việt Nam (năm 2005) của Viện Khoa học thanh tra thuộc TTCP do TS. Vũ Phạm
Quyết Thắng làm chủ nhiệm. Đề tài đã nêu một số vấn đề lý luận chung về lịch sử
và truyền thống, những định hướng và quá trình phát triển mang tính truyền thống
của ngành thanh tra Việt Nam; qua đó đã đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng
ngành thanh tra trong giai đoạn mới.
- Lịch sử thanh tra Việt Nam (1945 - 2005): Trần Đức Cường, Nguyễn Văn
Nhật, Võ Kim Cương – NXB. Chính trị Quốc gia, 2005. Sách giới thiệu quá trình ra

đời, phát triển về tổ chức và những hoạt động, đóng góp chủ yếu của ngành thanh
tra qua các giai đoạn từ 1945 đến 2005.
- Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại hành chính: Đào tạo đại học
Hành chính: Lê Thị Hương (ch.b), Nguyễn Thị Anh Thư, Phan Thị Thanh Thuỷ –
NXB. Khoa học và Kỹ thuật, 2011. Sách trình bày hệ thống các quy định pháp luật
Việt Nam về thanh tra, hệ thống thanh tra, hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu

3


nại hành chính, đồng thời kết hợp với việc khảo sát, tổng kết thực tiễn hoạt động
thanh tra và giải quyết khiếu nại hành chính.
- Một số văn bản pháp luật về công tác thanh tra do Lê Đạo chịu trách nhiệm
xuất bảng theo giấy phép xuất bảng số 42/GP-STTTT do Sở Thông tin truyền thông
tỉnh Quảng Nam cấp ngày 25/5/2009. Sách gồm các văn bản pháp luật về thanh tra;
khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng; công tác tổ chức cán bộ; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan thanh tra; tài chính, trang
phục cho nhân lực ngành thanh tra.
- Nghiệp vụ công tác thanh tra: Chương trình cơ bản: Trần Đức Lượng,
Nguyễn Văn Liêm, Ngô Đăng Quynh...; Trần Hậu Khiêm (ch.b). NXB. Giao thông
Vận tải, 2007. Sách trình bày những vấn đề chung về thanh tra và khiếu nại, tố cáo
cùng một số kiến thức bổ trợ như vận dụng tâm lí học vào hoạt động thanh tra và
các vấn đề cơ bản về điều tra hình sự.
- Luận Văn Thạc sỹ Quản lý công “Chất lượng Thanh tra viên ở tỉnh Quảng
Nam” của Đặng Thị Xuân Lệnh đã nêu những vấn đề lý luận chung và phân tích
thực trạng chất lượng Thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam; từ đó đề ra các mục tiêu,
quan điểm, đồng thời đưa ra các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng Thanh tra
viên ở tỉnh Quảng Nam như nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn thể trong tỉnh Quảng Nam đối với công tác thanh tra và
việc nâng cao chất lượng thanh tra viên; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện

các quy chế, quy định về tiêu chuẩn thanh tra viên, các ngạch thanh tra viên; quy tắc
về ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ thanh tra, quy trình công tác; thực hiện
tốt các nội dung của công tác quản lý nhà nước về cán bộ công chức đối với thanh
tra viên.
Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công “Hoàn thiện công tác đánh giá
công chức” của Đỗ Thu Hương năm 2011 đã hệ thống hóa những vấn đề chung về
đánh giá công chức và phân tích thực trạng đánh giá công chức hành chính trong cơ
quan nhà nước, từ đó đề xuất 5 giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đánh giá công
chức hành chính (hoàn thiện thể chế về đánh giá công chức; xây dựng đội ngũ công

4


chức làm nhiệm vụ đánh giá; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu; xây dựng
công cụ đánh giá; xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá).
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu khác đề cập vấn đề thanh tra, công
chức, công vụ như: “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức” do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên (năm
2005), NXB. Chính trị quốc gia; “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra
trong các đơn vị sự nghiệp công”, Luận văn thạc sĩ luật của ThS. Nguyễn Thanh
Hải;… Những công trình khoa học trên là nguồn tư liệu tham khảo giúp tác giả hình
thành nền tảng lý luận và thực tiễn để tiếp tục nghiên cứu đề tài, luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về chính sách phát triển nhân lực, thực trạng
chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, luận
văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Hệ thống hóa, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách phát triển
nhân lực ngành thanh tra như: khái niệm, đặc điểm và vai trò của nhân lực ngành
thanh tra; mục tiêu, chủ thể, giải pháp và công cụ, những yếu tố xã hội tác động đến
chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra
tại tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất quan điểm, mục tiêu, định hướng và các giải pháp hoàn thiện chính
sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là Chính sách phát triển nhân lực ngành
thanh tra ở tỉnh Quảng Nam.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Về thời gian: Khảo sát thực trạng chính sách phát triển nhân lực ngành
Thanh tra giai đoạn 2013 - 2016 tại tỉnh Quảng Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn lấy phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước về công tác cán bộ, về Nhà nước và pháp luật về thanh tra làm
phương pháp luận nghiên cứu.
Luận văn còn vận dụng phương pháp luận khoa học chính sách công về đánh
giá chính sách phát triển nhân lực, phân tích đánh giá chính sách phát triển nhân lực
ngành thanh tra, đánh giá tác động và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát
triển nhân lực ngành thanh tra.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin; Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết về
chính sách công. Đánh giá chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính
sách phát triển nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách phát triển nhân lực
đã ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đặt nền móng bước đầu cho việc đánh giá chính sách phát triển nhân
lực của cơ quan Thanh tra tỉnh Quảng Nam giúp cho quá trình hoạch định và thực
thi chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra được nhìn nhận một cách khách
quan, nhằm đưa ra các biện pháp chính sách hiệu quả trong công cuộc phát triển
nhân lực ngành thanh tra trong giai đoạn hội nhập quốc tế.

6


Luận văn cung cấp những tư liệu, kết quả khảo sát thực tế về việc thực thi
chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam, qua đó góp phần
làm phong phú thêm hệ thống lý luận khoa học chính sách công.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục các
bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có cơ cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách phát triển nhân lực ngành
thanh tra.
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh
Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu, định hướng và các giải pháp hoàn thiện

chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra tại tỉnh Quảng Nam.

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
NGÀNH THANH TRA
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của nhân lực ngành thanh tra
1.1.1. Khái niệm nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con
người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể
con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá
trình lao động – con người có sức lao động [9,tr.12].
Nhân lực được hiểu là toàn bộ các khả năng về thể lực và trí lực của con người
được vận dụng ra trong quá trình lao động sản xuất. Nó cũng được xem là sức lao
động của con người – một nguồn lực quý giá nhất trong các yếu tố của hoạt động
của các cơ quan, đơn vị. Nhân lực của cơ quan, đơn vị bao gồm tất cả những người
lao động làm việc trong cơ quan, đơn vị.
1.1.2. Khái niệm ngành thanh tra
Ở Việt Nam, từ khi Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra
đặc biệt, đánh dấu sự ra đời của ngành thanh tra. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái
niệm ngành thanh tra Việt Nam, có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau, thậm chí là
trái ngược nhau. Có quan điểm cho rằng, thanh tra là một ngành với đầy đủ những
đặc trưng cơ bản của nó với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tôn chỉ, mục đích rõ
ràng và ngành thanh tra có tính độc lập tương đối trong hoạt động của mình; nhưng
có quan điểm cho rằng thanh tra không phải là một ngành, mà thanh tra chỉ là một
hoạt động phục vụ công tác quản lý nhà nước và công tác thanh tra gắn liền với
công tác quản lý nhà nước, vì vậy thanh tra không có tính độc lập tương đối và
không được coi là một ngành.

Dù có những quan điểm khác nhau về tính độc lập của công tác thanh tra, có
những quan điểm khác nhau về hoạt động thanh tra, nhưng thực tiễn chỉ ra rằng, dù
hoạt động thanh tra có những lúc thăng - trầm cùng sự thăng - trầm của cách mạng

8


Việt Nam, nhưng thanh tra luôn được tổ chức chặt chẽ, theo cấp hành chính (chiều
dọc), theo ngành, lĩnh vực (chiều ngang) và thanh tra được tổ chức thành hệ thống
các cơ quan từ trung ương đến địa phương, hoạt động theo quy định của pháp luật,
có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Thanh tra nhà nước có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ, có biên chế xác định với đội ngũ cán bộ, công chức được sắp xếp theo
ngạch bậc. Do đó, có thể thấy rằng thanh tra được tổ chức có tính hệ thống, giữa các
cơ quan thanh tra có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại lẫn nhau và được sắp xếp
theo thứ tự quy củ trong quá trình tổ chức hoạt động.
Từ những cơ sở trên, rõ ràng dù muốn dù không, chúng ta không thể phủ nhận
được sự hiện hữu của hệ thống các tổ chức thanh tra và hoạt động của nó và trong tổng
thể các thiết chế của bộ máy nhà nước, thanh tra được xác định là một thiết chế riêng
và thanh tra thực sự là một ngành với đầy đủ các đặc trưng của nó với mục đích, tôn
chỉ; nguyên tắc tổ chức, hoạt động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.
1.1.3. Khái niệm nhân lực ngành thanh tra
Để hiểu nghĩa chung nhất về khái niệm nhân lực ngành thanh tra, trước tiên
cần hiểu rõ khái niệm “thanh tra”. Theo Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010 quy định
“Thanh tra nhà nước” là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân [30,
tr.2]. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Trong thanh tra nhà nước có “Thanh tra hành chính” là hoạt động thanh tra của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và “Thanh tra

chuyên ngành” là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật
chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành,
lĩnh vực đó [30, tr.2]
Nhân lực Thanh tra xác định rõ vị trí, chức danh các ngạch công chức. Luật
Thanh tra năm 2010, tại Điều 33 quy định ngạch Thanh tra viên có các ngạch như

9


sau: Thanh tra viên, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên cao cấp.
Theo Điều 32, Luật Thanh tra 2010 quy định tiêu chuẩn chung của Thanh tra
viên: Thanh tra viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan thanh tra nhà
nước, thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra
nhà nước. Thanh tra viên được giao chủ trì thanh tra các vụ việc có quy mô và tính
chất phức tạp trung bình; khi tiến hành thanh tra phải tuân thủ pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về nhiệm vụ
được giao. Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực,
công minh, khách quan; tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà nước và am
hiểu pháp luật; đối với Thanh tra viên chuyên ngành còn phải có kiến thức chuyên
môn về chuyên ngành đó; có văn bằng hoặc chứng chỉ về nghiệp vụ thanh tra; có ít
nhất 02 năm làm công tác thanh tra (không kể thời gian tập sự), trừ trường hợp là
công chức, công chức, viên chức, sĩ quan Quân đội nhân dân, sĩ quan Công an
nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác từ 05 năm trở lên chuyển sang
cơ quan thanh tra nhà nước [30, tr.20].
Thanh tra viên chính là công chức chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan thanh
tra nhà nước, thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ quan
thanh tra nhà nước. Thanh tra viên chính được giao chủ trì hoặc tham gia thanh tra
các vụ việc có quy mô rộng, tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực; khi

tiến hành thanh tra phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Thủ
trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về nhiệm vụ được giao.
Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ được giao, thanh tra viên chính phải có
kiến thức hiểu biết và nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước và quản lý kinh tế, văn hóa,
xã hội, đề xuất và tổ chức thực hiện có hiệu quả các cuộc thanh tra được giao; nắm
vững nguyên tắc, chế độ, chính sách, quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế,
văn hóa, xã hội; am hiểu sâu tình hình kinh tế - xã hội; có kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ chuyên ngành theo lĩnh vực được phân công; có khả năng đảm nhận trách

10


nhiệm là trưởng đoàn, phó trưởng đoàn thanh tra; tổ chức điều hành hướng dẫn thanh
tra viên, cộng tác viên thanh tra thực hiện nhiệm vụ thanh tra được giao; có năng lực
phân tích, đánh giá những vấn đề thuộc phạm vi quản lý của ngành, lĩnh vực, địa
phương; có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên môn thuộc ngành,
lĩnh vực đang công tác; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch
thanh tra viên chính; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà
nước ngạch chuyên viên chính; có văn bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ trình độ B trở
lên thuộc 01 trong 05 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức. Đối với công
chức công tác tại các địa phương ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
hải đảo có sử dụng tiếng dân tộc thiểu số phục vụ trực tiếp cho công tác thì được thay
thế chứng chỉ ngoại ngữ bằng chứng chỉ tiếng dân tộc thiểu số do cơ quan có thẩm
quyền cấp hoặc thủ trưởng cơ quan thanh tra nơi công chức đó công tác xác nhận; có
thời gian công tác ở ngạch thanh tra viên và tương đương tối thiểu là 09 năm, trừ
trường hợp là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sử dụng
thành thạo tin học văn phòng hoặc có chứng chỉ tin học văn phòng; sỹ quan Công an
nhân dân công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị khác và đang giữ ngạch công chức, viên
chức, cấp hàm tương đương ngạch thanh tra viên chính chuyển sang cơ quan thanh

tra nhà nước.
Thanh tra viên cao cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan
Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Thanh tra tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, thực hiện quyết định thanh tra và các nhiệm vụ khác của cơ
quan thanh tra nhà nước. Thanh tra viên cao cấp được giao trực tiếp chủ trì thanh
tra các vụ việc có quy mô lớn, tình tiết rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh
vực; khi tiến hành thanh tra phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp
luật và Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp về nhiệm vụ được giao [30, tr.23].
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thanh tra được giao, Thanh tra viên cao
cấp còn phải nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng
thời kỳ, từng ngành, từng lĩnh vực; Am hiểu sâu tình hình kinh tế - xã hội trong

11


nước và trên thế giới; nắm vững các nguyên tắc, chế độ, chính sách, quy định của
Nhà nước trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; có kiến thức
sâu, rộng về chuyên môn nhiều ngành, lĩnh vực; có khả năng đảm nhận trách nhiệm
trưởng đoàn, phó trưởng đoàn thanh tra các vụ việc có quy mô lớn, tình tiết rất phức
tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực; có khả năng tổ chức, điều hành thanh tra
viên chính thực hiện nhiệm vụ thanh tra được giao; chủ trì việc tổng kết, nghiên cứu
lý luận về công tác thanh tra; tham gia xây dựng các văn bản pháp luật về thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tham gia xây dựng
chương trình, biên soạn tài liệu chuyên môn nghiệp vụ để đào tạo, bồi dưỡng cho
thanh tra viên, thanh tra viên chính, cán bộ quản lý của các tổ chức thanh tra; có
năng lực phân tích, khái quát, tổng hợp những vấn đề thuộc phạm vi quản lý của
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với chuyên
môn thuộc ngành, lĩnh vực đang công tác; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ ngạch thanh tra viên cao cấp; có văn bằng hoặc chứng chỉ bồi dưỡng

nghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp; có trình độ cao cấp lý luận
chính trị; có văn bằng hoặc chứng chỉ ngoại ngữ trình độ C trở lên thuộc 01 trong
05 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức; Sử dụng thành thạo tin học văn
phòng hoặc có chứng chỉ tin học văn phòng; Có thời gian công tác ở ngạch thanh
tra viên chính và tương đương tối thiểu là 06 năm, trừ trường hợp là cán bộ, công
chức, viên chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sỹ quan Công an nhân dân công tác ở
cơ quan, tổ chức, đơn vị khác và đang giữ ngạch công chức, viên chức, cấp hàm
tương đương ngạch thanh tra viên cao cấp chuyển sang cơ quan thanh tra nhà nước.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 9, Điều 12, Điều 15, Điều 18 Nghị định số
86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và thi hành một số
điều của Luật Thanh tra năm 2010 thì ngoài các ngạch Thanh tra viên theo quy định
tại Điều 33 Luật Thanh tra 2010 nêu trên, cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ, Thanh
tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện còn phải có các công chức khác. Đó là
những chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp hay những ngạch khác
được điều chuyển từ các cơ quan, đơn vị khác qua ngành thanh tra hay mới được

12


tuyển dụng vào công chức ngành thanh tra mà chưa được bổ nhiệm vào các ngạch
Thanh tra viên.
Như vậy, nhân lực ngành thanh tra là những công chức ở các ngạch nói trên
làm việc trong cơ quan thanh tra nhà nước theo chức danh, công việc phù hợp với
những tiêu chuẩn cụ thể mà pháp luật quy định.
* Đặc điểm của nhân lực ngành thanh tra
Xuất phát từ khái niệm về nhân lực ngành thanh tra, chúng ta có thể nhận thấy
so với công chức nói chung, nhân lực ngành thanh tra có những điểm riêng nhất
định như nhân lực ngành thanh tra, mà cụ thể là thanh tra viên chỉ có trong các cơ
quan thanh tra nhà nước, có những quyền hạn nhất định và phải đáp ứng một số tiêu
chuẩn theo quy định của pháp luật.

Thứ nhất, thanh tra viên là công chức, sỹ quan Quân đội nhân dân, sỹ quan
Công an nhân dân có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật mới được
bổ nhiệm thanh tra viên.
Thứ hai, thanh tra viên chỉ có trong các cơ quan thanh tra nhà nước các cấp
(các cơ quan tổ chức khác không có thanh tra viên); làm nhiệm vụ thanh tra và các
nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra do thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước phân
công (tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng…)
Thứ ba, thanh tra viên được pháp luật trao cho một số thẩm quyền nhất định
khi tham gia đoàn thanh tra, tổ công tác hay thanh tra độc lập (thanh tra chuyên
ngành).
Thứ tư, thanh tra viên là người phải gương mẫu, khách quan, công tâm, trung
thực.
Đặc điểm này xuất phát từ mục đích thanh tra nhằm xem xét, đánh giá việc
thực hiện các quy định của pháp luật trong công tác quản lý, kịp thời phát hiện,
chấn chỉnh những sai lệch trong quản lý và xuất phát từ chính bản thân thanh tra
viên được pháp luật trao cho những quyền hạn nhất định như đã nêu ở phần trên.
Khi xem xét, đánh giá người khác và nhất là hướng dẫn cho họ thực hiện chính
sách, pháp luật, các quy định của tổ chức mà bản thân người thanh tra lại là người

13


vi phạm hoặc có vấn đề về tư cách đạo đức thì tính thuyết phục không cao, công tác
quản lý không thể đạt được hiệu lực, hiệu quả.
Thứ năm, thanh tra viên vừa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về cán bộ,
công chức vừa được điều chỉnh bởi pháp luật về thanh tra; được hưởng chế độ phụ
cấp trách nhiệm theo nghề, phụ cấp thâm niên, chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ,
công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh và có trang phục riêng.
Ngoài lực lượng thanh tra viên có các đặc điểm trên, nhân lực ngành thanh tra

còn có những công chức ở ngạch chuyên viên, khi tham gia các đoàn thanh tra hay
được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thì lực lượng này cũng được
pháp luật trao cho một số thẩm quyền nhất định, tùy theo vị trí trong đoàn thanh tra.
* Vai trò của nhân lực ngành thanh tra
Nhân lực ngành thanh tra là lực lượng quan trọng, chủ yếu thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra, đó là thực hiện và giúp các cơ quan quản
lý nhà nước cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Vai trò của nhân lực
ngành thanh tra được thể hiện cụ thể như:
- Trong công tác thanh tra, khi tham gia đoàn thanh tra, trưởng đoàn, thành
viên đoàn (có thể là thanh tra viên hay chuyên viên), công chức được giao thực hiện
nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành có nhiệm vụ là xem xét việc làm của các cơ quan,
tổ chức cá nhân có đúng chính sách, pháp luật hay không. Nếu họ làm sai hoặc làm
chậm thì giúp họ sửa chữa và làm cho đúng với mục đích của thanh tra là phát huy
nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý những vi phạm, bảo đảm để các cơ quan, tổ
chức và cá nhân hiểu đúng, tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và
nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước góp phần tăng cường pháp chế.
- Trong công tác tiếp công dân: Để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước cần phải làm tốt một lĩnh vực công tác quan trọng có liên quan
đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đó là công tác tiếp dân.

14


Trong tiếp công dân, đội ngũ thanh tra viên hoặc chuyên viên là người trực
tiếp lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải
thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh theo đúng quy định của pháp luật. Họ được ví như là chiếc cầu nối giữa Đảng,
nhà nước với nhân dân; thông qua công tác tiếp công dân, giúp cho cơ quan hành

chính nhà nước nắm được những tâm tư, nguyện vọng, những thông tin phản hồi,
các kiến nghị, góp ý của nhân dân từ thực tiễn trong việc thực hiện chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, từ đó kịp thời chấn chỉnh, bổ sung hoặc
hủy bỏ các nội dung không phù hợp.
Thông qua tiếp công dân, việc giải quyết hoạt động khiếu nại, tố cáo của công
dân liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính được tiến hành nhanh
chóng, rõ ràng hơn khi có sự tiếp xúc trực tiếp, tìm hiểu thông tin hai chiều giữa
người dân và cán bộ tiếp dân, từ đó, sẽ hạn chế việc khiếu nại, tố cáo tràn lan, vượt
cấp, kéo dài cũng như nhiều bất cập khác trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: thanh tra viên hay chuyên viên
là lực lượng nòng cốt, chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; trực tiếp tham mưu thụ lý đơn (nếu đơn
thuộc thẩm quyền giải quyết), tổ chức xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, báo
cáo kết quả xác minh, xây dựng dự thảo kết luận nội dung tố cáo và quyết định
giải quyết khiếu nại khi được giao.
- Trong công tác phòng, chống tham nhũng: Thông qua những nhiệm vụ và
quyền hạn do pháp luật quy định, các cơ quan thanh tra nhà nước nói chung, lực
lượng thanh tra viên và chuyên viên nói riêng là công cụ quan trọng và hữu hiệu
trong hoạt động phòng, chống tham nhũng. Bởi vì họ là người trực tiếp thụ lý hồ sơ
vụ việc; bằng năng lực, kỹ năng kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ thanh tra, họ
có vai trò rất lớn trong khâu phát hiện các hành vi tham nhũng, đánh giá việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh
tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); các biện pháp xử lý theo thẩm quyền

15


đã được áp dụng; tham mưu kết luận về nội dung thanh tra, kiến nghị các biện pháp
xử lý đối với các hành vi tham nhũng (nếu có) của đối tượng thanh tra.

Do tính chất hoạt động của mình, thông qua hoạt động thanh tra nói chung và
xác minh nói riêng mà họ có điều kiện phát hiện sớm các biểu hiện tham nhũng, kịp
thời kiến nghị các biện pháp ngăn chặn tham nhũng. Thông qua việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình, họ còn thể hiện vai trò phát hiện những sơ hở, khiếm
khuyết trong cơ chế, chính sách làm phát sinh tham nhũng.
Sau khi kết luận thanh tra, xử lý tố cáo về tham nhũng được ban hành thì họ là
người có trách nhiệm chính trong kiểm tra, đôn đốc thực hiện. Đây là nhiệm vụ rất
quan trọng của thanh tra viên hay chuyên viên, nếu công tác này được làm tốt thì
tính hiệu lực, hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ngày càng
được nâng cao.
- Trong công tác quản lý nhà nước về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng: Nhân lực ngành thanh tra có vai trò quan
trọng trong việc tham gia xây dựng văn bản pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và
chống tham nhũng trình cấp có thẩm quyền ban hành; xây dựng định hướng, chương
trình thanh tra; hướng dẫn, tuyên truyền, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về
thanh tra, khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực
hiện các kết luận, kiến nghị; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
Thực tiễn công tác thanh tra thời gian qua cho thấy, địa phương nào, ngành
nào quan tâm, chú trọng đến công tác thanh tra và chất lượng nhân lực ngành thanh
tra thì địa phương đó, ngành đó thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước; ngược lại
nơi nào không chú trọng đúng mức đến công tác thanh tra và chất lượng nhân lực
ngành thanh tra thì nơi đó dễ xảy ra sai phạm, phát sinh khiếu nại, tố cáo phức tạp.
1.2. Khái niệm, mục tiêu, chủ thể, giải pháp và công cụ của chính sách
phát triển nhân lực ngành thanh tra
1.2.1. Khái niệm chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra
Trước khi làm rõ khái niệm chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra, đề
tài cần làm rõ khái niệm chính sách công.
16



Khái niệm chính sách công là một đối tượng nghiên cứu của khoa học chính
sách công. Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách
công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Dưới đây,
Tác giả muốn dẫn chứng một số định nghĩa chính sách công khá tiêu biểu của các
học giả nước ngoài và trong nước để cùng tham khảo trước khi đi đến một định
nghĩa thích hợp.
William Jenkin cho rằng: "Chính sách công là một tập hợp các quyết định có
liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với
việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó" [47,
tr.75]. Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:
- Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một tập
hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài.
- Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành. Nói
cách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công.
- Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của
Nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa chọn.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "chính sách công là toàn bộ các hoạt động
của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công
dân" [45, tr.65]. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính
sách công là Nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời
sống của người dân với tư cách là một cộng đồng.
Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công như đã nêu
trên, song điều đó không có nghĩa là chính sách công mang những bản chất khác
nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn
mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng
này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa
những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công.
Trên cơ sở nghiên cứu về chính sách công, tác giả thấy có những đặc trưng cơ
bản nhất như sau:


17


Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước. Nếu chủ thể ban
hành các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị – xã
hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động trong
phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể ban hành chính sách
công chỉ có thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây là các cơ quan
trong bộ máy nhà nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công, vừa là chủ thể ban
hành "chính sách tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách tư" do các cơ quan nhà
nước ban hành là những chính sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc về nội
bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan.
Chính sách công do Nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách công là chính
sách của Nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có thẩm quyền trong bộ
máy nhà nước, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp…
Tại Hội thảo Những vấn đề cấp bách của khoa học chính sách công ở nước ta
hiện nay tổ chức tại Học viện Khoa học xã hội tại Hà Nội ngày 17/12/2016 kết luận:
Chính sách công là của Nhà nước, Đảng có vai trò định hướng về quan điểm, tư
tưởng, chính trị trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách.
Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động, có nghĩa là chúng
bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không chỉ thể hiện dự định
của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao gồm những hành
vi thực hiện các dự định nói trên.
Chính sách công trước hết thể hiện dự định của các nhà hoạch định chính sách
nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là
những dự định, dù được ghi thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách.
Chính sách công còn phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và
đưa lại những kết quả thực tế.
Nhiều người thường hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ

trương của Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc
thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương đó
chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.

18


Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời
sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công là một quá
trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại công cụ
quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của Nhà nước là những chương trình hành
động tổng quát bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc điểm của
chính sách công là chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc
một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống xã hội. Chính sách
công chỉ xuất hiện trước khi đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một
vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu
cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời sống kinh tế – xã hội đòi hỏi Nhà nước
sử dụng quyền lực công để giải quyết. Có thể nói, vấn đề chính sách là hạt nhân
xuyên suốt toàn bộ quy tŕnh chính sách (bao gồm các giai đoạn hoạch định, thực thi
và đánh giá chính sách). Việc giải quyết những vấn đề nói trên nhằm vào những
mục tiêu mà Nhà nước mong muốn đạt được.
Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Trước
hết, chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định
hành chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước. Khái niệm quyết định ở đây có nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi như
một sự lựa chọn hành động của Nhà nước. Các quyết định này có thể bao gồm cả
luật, các quyết định dưới luật, thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lãnh đạo thể
hiện trong lời nói và hành động của họ. Song, chính sách không đồng nghĩa với một
đạo luật riêng biệt hay một văn bản nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt
các quyết định cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hay

nhiều cấp khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời
gian dài. Một chính sách có thể được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tạo
căn cứ pháp luật cho việc thực thi, song nó còn bao gồm những phương án hành
động không mang tính bắt buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chính sách công là là một trong những
công cụ quan trọng của quản lý nhà nước, thông qua việc ban hành và thực thi chính

19


sách, những mục tiêu của nhà nước được thực hiện hóa.
Cũng từ quan niệm về khái niệm chính sách công, khái niệm nhân lực ngành
thanh tra, chúng ta có thể quan niệm khái niệm chính sách phát triển nhân lực ngành
thanh tra như sau: Chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra là tập hợp các
quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu và giải pháp cụ
thể, các công cụ thực hiện giải quyết vấn đề phát triển nhân lực ngành thanh tra.
Bao gồm các quyết định chính sách về tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng nhân lực; đào
tạo, bồi dưỡng; đánh giá, khen thưởng và kỷ luật; chính sách tiền lương, phụ cấp
theo lương; … tất cả các chính sách này có tác động trực tiếp tới việc sử dụng, quản
lý và phát huy tối đa năng lực của đội ngũ nhân lực ngành thanh tra.
1.2.2. Mục tiêu của chính sách phát triển nhân lực ngành thanh tra
Nhằm nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ công chức làm công tác thanh
tra theo điều 2, Chương 1 Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ về đào tạo bồi
dưỡng công chức và căn cứ Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 –
2020; ngày 21/10/2011, Tổng Thanh tra Chỉnh phủ ban hành Quyết định số
2857/QĐ-TTCP về phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực ngành Thanh tra thời
kỳ 2011 – 2020 với mục tiêu như sau:
1.2.2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng được đội ngũ công chức ngành Thanh tra có bản lĩnh chính trị

vững vàng; trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ cao; có đạo đức nghề nghiệp,
phẩm chất và năng lực tốt; có cơ cấu phù hợp với mục tiêu và phương hướng phát
triển của ngành Thanh tra, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Chú
trọng xây dựng công chức lãnh đạo, quản lý các đơn vị và công chức thanh tra có
trình độ chuyên môn cao, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các
thế hệ.
1.2.2.2. Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2015: Tổng số lao động toàn ngành đạt trên 24.000 người, trong đó
60% có trình độ đại học, trên 17% có trình độ trên đại học; 70% được bổ nhiệm vào

20


×