Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.12 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ

TIỂU LUẬN
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ

NHÓM 4:
1.

LÊ CHIÊU PHƯỚC

2.

TRƯƠNG THỊ MINH NGUYỆT

3.

TRẦN THỊ BÍCH NGỌC

4.

NGUYỄN THỊ NỤ

5.

BOUNAO PATHOUMNA


HUẾ, 4/2017


MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, đổi mới công tác giáo dục ở nước ta diễn ra rất sôi nổi,
trong đó đổi mới PPDH trên cơ sở định hướng phát triển năng lực được rất nhiều
giáo viên quan tâm. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn.
Vấn đề trường học ở nước ta lâu nay gây khá nhiều bức xúc trong dư luận, đặc biệt là
khi so sánh với những trường học quốc tế. Bởi thế, chúng ta còn nhiều vấn đề cần
khắc phục, nhiều vấn đề cần nghiên cứu sâu rộng khi sử dụng máy tính trong giảng
dạy.
Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những mục tiêu lớn được ngành
giáo dục đào tạo đặt ra trong giai đoạn hiện nay và là mục tiêu chính đã được nghị
quyết TW2, khóa VIII chỉ ra rất rõ và cụ thể: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo
của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh …”
Và ở điều 28 yêu cầ u về nội dung và phương pháp giáo dục phổ thông
khẳng định “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh.”
Đồng thời, chiến lược giáo dục 2009 – 2020 (công bố dự thảo lần thứ 13 chiến
lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020): chất lượng toàn diện của học sinh phổ
thông phải có sự chuyển biến rõ rệt để phát triển năng lực làm người Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập. Học sinh có ý thức và trách nhiệm cao trong học tập, có lối sống
lành mạnh, có bản lĩnh, trung thực, có năng lực làm việc độc lập và hợp tác, có kỹ
năng sống, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, ham thích học tập và học tập có kết

quả cao; có năng lực tự học; hiểu biết và tự hào, yêu quý Tổ quốc.
Mặt khác, Vật lý là một môn học có nhiều ứng dụng quan trọng trong các lĩnh
vực khoa học và đời sống. Những hiện tượng vật lý trong tự nhiên diễn ra vô cùng
phong phú và thú vị. Tuy nhiên, việc dạy học Vật lý hiện nay ở trường phổ thông chỉ

2


dừng ở mức độ dạy những kiến thức khô cứng và tập trung vào việc luyện giải bài
tập. Điều đó phần nào khiến cho học sinh giảm hứng thú với môn học, khiến cho kiến
thức học được ở trường của học sinh trở thành xa lạ với thực tiễn. Hình thức dạy học
giúp gắn liền tri thức được học ở trường với những ứng dụng trong cuộc sống như thế
này rất đáng được nhân rộng. Hình thức này tuy quen thuộc với nhiều nước trên thế
giới nhưng vẫn còn ít nhiều xa lạ với Việt Nam. Vì thế, chúng ta cần nghiên cứu tổ
chức hoạt động học tập sao cho nâng cao tính tự học, sáng tạo ở học sinh đồng thời
góp phần thúc đẩy môn Vật lý gần gủi hơn với cuộc sống thông qua những ứng dụng
cụ thể. Qua đó, cũng giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và hình thành nhân cách. Đặc
biệt là hình thành năng lực tự học và năng lực sáng tạo trong giải quyết vấn đề và
tư duy khoa học.
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (định hướng phát triển
năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ
những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo
dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy
học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng
lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người
năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này
nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng
phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là ”sản phẩm

cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều
khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của HS.
Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực không quy định những nội
dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo
dục, trên cở sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương
pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy
học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng phát
triển năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả

3


thông qua hệ thống các năng lực (Competency). Kết quả học tập mong muốn được mô
tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. HS cần đạt được những kết quả yêu cầu
đã quy định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo
quản lý chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra.
Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là tạo điều
kiện quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng
của HS. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội
dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và tính hệ thống của tri
thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở kết quả đầu ra mà còn phụ
thuộc quá trình thực hiện.

4


NỘI DUNG
1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực

1.1


Khái niệm

1.1.1

Khái niệm năng lực

Trong chương trỉnh dạy học theo định hướng phát triển năng lực, năng lực

được

định nghĩa như sau:


Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy học được
mô tả thông qua các năng lực cần hình thành;



Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau
nhằm hình thành năng lực;



Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn...;



Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ
quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hành động dạy học về

mặt phương pháp;



Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình huống:
ví dụ như đọc một văn bản cụ thể ... Nắm vững và vận dụng được các phép tính
cơ bản;



Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền tảng
chung cho công việc giáo dục và dạy học.

1.1.2. Khái niệm chương trình dạy học phát triển năng lực
Chương trình dạy học phát triển năng lực (chương trình dạy học theo định
hướng phát triển năng lực) là dạy học định hướng kết quả đầu ra.
1.2. Mục tiêu


Nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học;



Thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách;



Chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm
chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và
nghề nghiệp.


1.3. Ưu nhược điểm
1.3.1.

Ưu điểm

5




tạo điều kiện quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định;



Nhấn mạnh năng lực vận dụng của học sinh.

1.3.1. Nhược điểm


Nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học
thì có thể dẫn đến các lỗ hỏng tri thức cơ bản và tính hệ thống của tri thức;



Chất lượng giáo dục không chỉ phụ thuộc vào kết quả đầu ra mà còn phụ thuộc
quá trình thực hiện.

1.4. Cấu trúc chung của năng lực
Năng lực chuyên môn (Professional competency): Là khả năng thực hiện các

nhiệm vụ chuyên môn cũng như khả năng đánh giá kết quả chuyên môn một cách độc
lập, có phương pháp và chính xác về mặt chuyên môn. Nó được tiếp nhận qua việc học
nội dung - chuyên môn và chủ yếu gắn với khả năng nhận thức tâm lý vận động.
Năng lực phương pháp (Methodical competency): Là khả năng đối với những hành
động có kế hoạch, định hướng mục đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn
đề. Năng lực phương pháp bao gồm năng lực phương pháp chung và phương pháp
chuyên môn. Trung tâm của phương pháp nhận thức là ngững khả năng tiếp nhận,
xử lý, đánh giá, truyền thụ và trình bày tri thức. Nó được tiếp nhận qua việc học
phương pháp luận - giải quyết vấn đề.
Năng lực xã hội (Social competency): Là khả năng đạt được mục đích trong những
tình huống giao tiếp ứng xử xã hội cũng như những nhiệm vụ khác nhau trong sự phối
hợp chặt chẽ với những thành viên khác. Nó được tiếp nhận qua việc học giao tiếp.
Năng lực cá thể (Induvidual competency): Là khả năng xác định, đánh giá được những
cơ hội phát triển cá nhân, những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối
các thái độ và hành vi ứng xử. Nó được tiếp nhận qua việc học cảm xúc - đạo đức và
liên quan đến tư duy và hành động tự chịu trách nhiệm.
1.5. Các lĩnh vực phát triển năng lực
1.5.1. Học nội dung chuyên môn


Các tri thức chuyên môn;



Các kĩ năng chuyên môn;



Ứng dụng, đánh giá chuyên môn.


6


⇒ Phát triển năng lực chuyên môn.
1.5.2. Học phương pháp - chuyên lược


Lập kế hoạch học tập, kế hoạch làm việc;



Các phương pháp nhận thức chung: Thu thập, xử lý, đánh giá, trình bày thông
tin;





Các phương pháp chuyên môn.
Phát triển năng lực phương pháp.

1.5.3. Học giao tiếp - xã hội


Làm việc nhóm;



Tạo điều kiện cho sự hiểu biết về phương diện xã hội;




Học cách ứng xử, trách nhiệm, khả năng giải quyết xung đột.



Phát triển năng lực xã hội.

1.5.4. Học tự trải nghiệm - đánh giá


Tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu;



Xây dựng kế hoạch phát triển cá nhân;



Đánh giá, hình thành các chuẩn mực giá trị, đạo đức và văn hóa, lòng tự trọng,..

⇒ Phát triển năng lực cá nhân.
2. Phát triển năng lực tự học cho học sinh
2.1. Vấn đề tự học trong dạy học ở trường THPT
Trước hết cần xác định rõ khái niệm tự học là gì? Lợi ích của việc tự học? Giải
pháp để phát triển năng lực tự học cho học sinh? ... Đây là những vấn đề mà các nhà
nghiên cứu giáo dục đã dày công nghiên cứu từ lâu. Tuy nhiên, cần nhận thức một điều
rằng: do sự chi phối của điều kiện lịch sử mà việc vận dụng những tri thức cũng như
dạy phương pháp tự học cho học sinh trong từng giai đoạn cần có sự khác nhau. Nhất
là ở xã hội hiện tại, khi mà thông tin tri thức khoa học bùng nổ tràn ngập trên các

phương tiện thông tin đại chúng, người học rất khó định hướng trong việc lựa chọn
tiếp cận tri thức thì vai trò hướng dẫn của người thầy là rất cần thiết.
2.1.1. Khái niệm tự học
Trong các giáo trình, tài liệu, các tác giả đã đưa ra các quan điểm khác nhau về
tự học, sau đây là một số quan điểm cơ bản:

7


- Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự học. Tự
học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động
cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu
với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn
tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của chủ thể.
- Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hoàn thành
các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy”
- Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học
nhất định”.
- Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi
người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến thức cho
bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ của xã hội”
- Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có
khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động
cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có
chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý
muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết
nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
- Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn về khái

niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh
nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình
huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử
nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
- Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào tháng
11 năm 2005 tại Đại học Huế, Giáo sư Trần Phương cho rằng: “Học bao giờ và lúc
nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của
nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình
kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, ta có thể khái niệm tự học như sau: Tự
học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở

8


một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được
mục đích nhất định.
2.1.2. Lợi ích của việc tự học
Theo lý thuyết xây dựng kiến thức (social constructivism), cách giảng dạy theo
mô hình truyền tải kiến thức đã thể hiện nhiều tồn tại, vì tri thức loài người luôn phát
triển nhanh chóng. Theo lý thuyết này, kiến thức phải được xây dựng dựa trên nền
tảng cá nhân và giao tiếp với xã hội (social interaction). Học tập là một quá trình năng
động và mang tính giao tiếp mà tự bản thân người học phải thực hiện cho chính mình.
Ở trường, người học không thể được cung cấp đầy đủ tất cả các kiến thức để có
thể sử dụng cả đời. Ngược lại, họ cần được trang bị những kỹ năng cần thiết để có thể
tự học tập suốt đời. Những kỹ năng này được hình thành và phát triển nếu người học
được tạo các cơ hội để tự hiểu mình, ý thức về thế giới xung quanh và hiểu được quy
luật phát triển của cuộc sống (Trim, 1998 trích dẫn theo Dam, 2000). Những cơ hội
học tập như thế sẽ giúp người học tăng cường năng lực điều chỉnh bản thân mình với
cuộc sống luôn thay đổi và học tập một cách tích cực cũng như thể hiện trách nhiệm xã

hội đối với việc học của mình. Hay nói một cách khác, mục tiêu của giáo dục là đạt
được phát triển năng lực tự học của người học (Ho & Crookall, 1995).
Theo Nunan (2000), nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh có sự khác biệt
lớn giữa kiến thức mà người dạy muốn người học đạt được và kiến thức mà người học
thực sự có nhu cầu tìm hiểu. Trong khi người dạy tập trung giảng dạy một mảng kiến
thức nào đó, người học lại quan tâm đến các vấn đề khác. Sự khác biệt như vậy có thể
ảnh hưởng đến kết quả học tập. Việc học tập sẽ đạt hiệu quả cao nhất khi người học
được cung cấp cơ hội để hình thành và phát triển khả năng tự học.
2.1.3. Các hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
* Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có
sách và sự hướng dẫn của giáo viên
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá trình
nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây thể hiện
đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên nền tảng một niềm
khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa

9


rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không thầy, không sách mà chỉ cọ sát
với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
* Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của giáo viên:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để chiếm lĩnh các kiến thức trong sách
qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người phải
đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có giáo viên ở xa hướng dẫn:
Mặc dù giáo viên ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa

thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng phản
ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
* Hình thức 3: Tự học có sách, có giáo viên giáp mặt một số tiết trong ngày, sau
đó người học về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên.
Trong quá trình học tập trên lớp, thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc tác
thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ thể của
quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập.
Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại
lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng
dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn
thành những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo hình thức này liên
quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định hướng về nội dung,
phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này
quá trình tự học của học sinh có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác
động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của
giáo viên và quá trình tự học của học sinh.
2.1.4. Vai trò của tự học trong quá trình dạy học
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở THPT nói riêng, giáo viên luôn giữ
một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển,
hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù

10


giáo viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng
học sinh không chịu đầu tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có
niềm khao khát với tri thức, không có sự say mê học tập, không có kế hoạch và
phương pháp học tập hợp lý, không tự giác tích cực trong học tập... thì việc học tập

không đạt kết quả cao được.
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất
quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Khi bàn về vai trò của tự học nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: “Tự
học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điều kiện
kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền thống quý báu của
người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao
khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục
thành quá trình tự giáo dục. Quy mô của giáo dục được mở rộng khi có phong trào
toàn dân tự học”
Học ở THPT, đòi hỏi học sinh phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và khó, cho
nên ngoài thời gian học trên lớp học sinh phải tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp
để mở rộng và đào sâu tri thức. Đặc biệt, học sinh khối lớp 12 chuẩn bị kho kiến thức
lớn để đạt kết quả cao trong các kỳ thi Cao Đẳng, Đại học. Cụ thể:
Thứ nhất, tự học giúp học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề nghiệp
trong tương lai. Chính trong quá trình tự học học sinh đã từng bước biến vốn kinh
nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt động tự học đã tạo
điều kiện cho học sinh hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững
chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.
Thứ hai, tự học không những giúp học sinh không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được hứng thú
thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm
vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng
của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp học sinh
mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp học sinh hình thành được những phẩm chất trí
tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa học,

11



rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng say
mê nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường THPT, nếu bồi dưỡng được ý chí và
năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở học sinh tiềm năng to lớn vốn có của
họ, tạo nên động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở
ngại bên ngoài. Khả năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất
lượng đào tạo.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên và tập thể
học sinh trong nhà trường. Các lực lượng này có tác dụng lớn trong việc động viên
khuyến khích hướng dẫn học sinh tự học một cách đúng hướng và hiệu quả.
2.1.5. Ý nghĩa của tự học
Ở bất kỳ bậc học hay cấp học nào hoạt động tự học cũng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với kết quả học tập, tuy nhiên đối với học sinh ở các trường THPT có nét đặc
thù so với các trường Đại học, thể hiện hoạt động nhận thức của học sinh ở mức thấp
hơn nhưng vẫn mang tính chất độc lập, tự lực, tự giác, sáng tạo trong việc tiếp thu tri
thức cũng như việc vận dụng tri thức vào các tình huống cụ thể. Vì vậy, khi giáo viên
dạy trên lớp, ngoài việc dạy kiến thức cho học sinh thì giáo viên cần dạy phương pháp
tự học cho học sinh . Do đó, có thể nói hoạt động tự học là một khâu của quá trình giáo
dục, là một quá trình gia công, chế biến và tự điều khiển theo đúng mục tiêu giáo dục
qui định.
Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học, người học mới có thể nắm vững tri
thức, thông hiểu tri thức, bổ sung và hoàn thiện tri thức cũng như hình thành những kỹ
năng, kỹ xảo tương ứng. Điều này đã được K.Đ.Usinxki nói: chỉ có công tác tự học
của học sinh mới tạo điều kiện cho việc thông hiểu tri thức. Và như vậy hoạt động tự
học sẽ quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Hoạt động tự học của học sinh, sinh viên không chỉ nâng cao năng lực
nhận thức, rèn luyện thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức của bản thân vào
cuộc sống mà còn giáo dục tình cảm và những phẩm chất đạo đức của bản thân. Vì

trên cơ sở những tri thức họ tiếp thu được nó có ý nghĩa sâu sắc đến việc giáo dục tư
tưởng đạo đức, lối sống, niềm tin, rèn luyện phong cách làm việc cá nhân cũng như
những phẩm chất ý chí cần thiết cho việc tổ chức lao động học tập của mỗi học sinh;
Bên cạnh đó còn rèn luyện cho họ cách suy nghĩ, tính tự giác, độc lập… trong học tập

12


cũng như rèn luyện thói quen trong hoạt động khác. Nói cách khác, hoạt động tự học
hướng vào việc rèn luyện phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mặt khác, hoạt động
tự học không những là yêu cầu cấp bách, thiết yếu của học sinh, sinh viên đang ngồi
trên ghế nhà trường để họ tiếp nhận tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân
mà còn có ý nghĩa lâu dài trong suốt cuộc đời mỗi con người, đó là thói quen học tập
suốt đời, bởi sau khi ra trường vẫn phải tiếp tục: Học, học nữa, học mãi. Và người học
sinh, sinh viên cần phải học khi còn là học sinh, nhưng cần phải học tập hơn nữa khi
đã rời ghế nhà trường và sự học tập ở giai đoạn thứ hai này còn quan trọng hơn gấp
bội lần sự học tập thứ nhất và hiệu quả của nó, ảnh hưởng của nó đến cá nhân con
người và đến xã hội.
Như vậy muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong trường THPT nói
chung, môn Vật lý nói riêng, chúng ta cần phải quan tâm đúng mức đến việc bồi
dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ của người giáo viên đồng thời phải đặc
biệt chú ý đến vị trí trung tâm của học sinh trong hoạt động tập thể để làm sao khai
thác triệt để những tiềm năng vốn có trong người học, phát huy tính tự giác, tích cực
sáng tạo, chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức nhằm đào tạo nhân tài cho đất
nước, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp giáo dục của Đất nước.
2.2 . Mô hình dạy – tự học
2.2.1.Chu trình dạy - tự học của Nguyễn Kỳ
Chu trình dạy - tự học bao gồm chu trình tự học của trò dưới tác động của chu trình
dạy của thầy nhằm biến tri thức kho tàng văn hoá khoa học của nhân loại thành học vấn
riêng của bản thân người học.

a. Chu trình tự học của trò
Chu trình tự học của trò là một chu trình ba thời: Tự nghiên cứu; Tự thể hiện; Tự
kiểm tra, tự điều chỉnh.
+ Thời một (1): tự nghiên cứu
Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định hướng
giải quyết vấn đề, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (chỉ mới đối với người
học) và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính chất cá nhân.
+ Thời hai (2): tự thể hiện

13


Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, bảo vệ kiến thức hay sản
phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự hợp tác, trao đổi, đối thoại, giao
tiếp với các bạn và thầy, tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội của cộng đồng lớp học.
+ Thời ba (3): tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi với các bạn và thầy, sau khi
thầy kết luận, người học tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa
sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học (tri thức).

(1)
Tự nghiên cứu

(3)
Tự kiểm tra
Tự điều chỉnh

TỰ HỌC
(2)
Tự thể hiện


Hình 1.1. Chu trình tự học
Chu trình tự nghiên cứu → tự thể hiện → tự kiểm tra, tự điều chỉnh, thực chất
cũng là con đường “phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết, và giải quyết vấn đề” của
nghiên cứu khoa học, dẫn dắt người học đến tri thức khoa học, đến chân lý mới và chỉ
có thể diễn ra dưới tác động hợp lí của chu trình dạy của thầy.
b. Chu trình dạy của thầy
Chu trình dạy của thầy nhằm tác động hợp lý, phù hợp và cộng hưởng với chu
trình tự học của trò, cũng là chu trình ba thời tương ứng với chu trình tự học ba thời của
trò: Hướng dẫn; Tổ chức; Trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra.
Trò - chủ thể

Thầy - tác nhân

14


- Tự nghiên cứu

- Hướng dẫn

- Tự thể hiện

- Tổ chức

- Tự kiểm tra, tự
- Trọng tài, cố vấn, kết

điều chỉnh


luận, kiểm tra
+ Thời một (1): hướng dẫn
Thầy hướng dẫn cho từng cá nhân học sinh về các tình huống học, về các vấn
đề cần giải quyết, về các nhiệm vụ phải thực hiện trong tập thể học sinh.
Học sinh tự nghiên cứu, tìm tòi cách xử lý các tình huống, cách giải quyết vấn đề
để tự mình tìm ra kiến thức, chân lý bằng hành động của chính mình, tạo ra sản phẩm
ban đầu.
+ Thời hai (2): tổ chức
Thầy tổ chức cho trò tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn: tổ chức các cuộc
tranh luận, hội thảo, trao đổi trò - trò; trò - thầy, sinh hoạt nhóm, đội công tác trong
lớp, các hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường nhằm tăng cường mối quan hệ
giao tiếp trò - trò, trò - thầy và sự hợp tác của nhau tìm ra kiến thức, chân lý.
Thầy là người đạo diễn và dẫn chương trình.
+ Thời ba (3): trọng tài, cố vấn, kết luận, kiểm tra
Thầy là trọng tài, cố vấn kết luận về các cuộc tranh luận đối thoại, trò-trò, tròthầy để khẳng định về mặt khoa học kiến thức do người học tự mình tìm ra.
Cuối cùng, thầy là người kiểm tra đánh giá kết quả tự học của trò trên cơ sở trò tự

HƯỚNG DẪN

đánh giá, tự điều chỉnh…

(1)
Tự nghiên cứu

Tự kiểm tra
Tự điều chỉnh

TỔ CHỨC

TỰ HỌC


(2)

Tự thể hiện
(3)
TRỌNG TÀI,
CỐ VẤN

15


Hình 1.2. Chu trình dạy của Thầy
Chu trình dạy trên đây thể hiện sự kết hợp hữu cơ giữa chu trình dạy của thầy với
chu trình tự học của trò qua từng thời, để cho người học tự mình chiếm lĩnh tri thức. Cho
nên ta phải đề cập tiếp đến thành tố thứ ba là tri thức để có một chu trình dạy - tự học
toàn vẹn
c. Tri thức: qua ba thời
+ Thời một (1)
Thầy hướng dẫn cho trò tự nghiên cứu, quan hệ trực tiếp với tri thức theo chiều
mũi tên ở tam giác sư phạm và tự tìm ra được một tri thức hay sản phẩm ban đầu mang
tính chất cá nhân, tức là có thể đúng hay sai, khách quan hay chủ quan, khoa học hay
thiếu khoa học.

Tri thức
Cá nhân

Thầy

Trò


Hướng dẫn

Tự nghiên cứu
Hình 1.3. Tri thức qua thời 1

+ Thời hai (2)
Sản phẩm ban đầu của học sinh thông qua sự trao đổi, thảo luận, hợp tác với các
bạn trong cộng đồng lớp học trở thành khách quan hơn; tri thức có tính chất cá nhân

Tri thức

ở thời (1) giờ đây đã mang tính chất xã hội ( xã hội lớp học).

Xã hội

Lớp
Thầy
Tổ chức

16

Trò
Tự thể hiện


Hình 1.4. Tri thức qua thời 2
+ Thời ba (3)
Với kết luận cuối cùng của thầy, người học tự kiểm tra điều chỉnh sản phẩm ban đầu
của mình, tri thức người học tự tìm ra giờ đây mới thật sự khách quan khoa học theo đúng
nghĩa của tri thức.


Tri thức
Khoa học

Thầy

Trò

Trọng tài, cố vấn

Tự kiểm tra

Kết luận, kiểm tra

Tự điều chỉnh

Hình 1.5. Tri thức qua thời 3

Tri thức (cá
nhân)

d. Chu trình dạy - tự học

HƯỚNG
Tập hợp ba sơ đồ bộ phận
ở trên: sơ đồ chu trình tự học, sơ đồ chu trình dạy và sơ
DẪN

(1)


đồ tri thức qua ba thời, ta có thể sơ đồ hoá chu trình dạy - tự học như sau:

Tự nghiên
cứu
Tự kiểm
tra
Tri thức
(khoa học)

Tự điều
TRỌNG TÀI,
chỉnh
CỐ VẤN
(3)

TỰ
HỌC

17

TỔ CHỨC
(2)

Tự thể
hiện
Tri thức (xã
hội)


Hình 1.6. Chu trình dạy – tự học

- Đường tròn bên trong tượng trưng cho nội lực - năng lực tự học.
- Đường tròn giữa tượng trưng cho ngoại lực - tác động dạy của thầy.
- Đường tròn ngoài cùng tượng trưng cho tri thức người học cần chiếm lĩnh.
- Các mũi tên đều xuất phát từ cực “thầy”: thầy là người khởi xướng, người dẫn
chương trình tự học của trò:
+ (1): Thầy hướng dẫn cho trò tự nghiên cứu để tìm ra một tri thức có tính chất cá
nhân.
+ (2): Thầy tổ chức cho trò tự thể hiện, hợp tác với nhau để làm cho sản phẩm
ban đầu của người học được khách quan hơn, tri thức có tính chất xã hội.
+(3): Thầy là trọng tài cố vấn, kết luận về cuộc đối thoại và hoạt động của trò, làm
cơ sở cho trò tự kiểm tra, tự điều chỉnh sản phẩm ban đầu của mình, tri thức người học
tự tìm ra giờ đây mới có tính chất khoa học.
2.2.2. So sánh vai trò của GV trong mô hình dạy - tự học với mô hình dạy học
truyền thống
Bảng 1.1.So sánh vai trò của thầy trong mô hình dạy-tự học với mô hình dạy học
truyền thống
Mô hình dạy học lấy việc dạy (thầy) làm

Mô hình dạy - tự học lấy việc học

trung tâm

(trò) làm trung tâm.

1.Thầy truyền đạt kiến thức cho trò tiếp 1.Thầy hướng dẫn cho trò tự nghiên
thu.

cứu tìm ra kiến thức.

2.Thầy độc thoại hay phát vấn.


2.Thầy tổ chức cho trò tự thể hiện,
hợp tác với bạn bè, đối thoại trò -

18


trò, trò - thầy.
3.Thầy giảng giải cho trò ghi nhớ, học 3. Thầy hướng dẫn cho trò cách tự
học, cách giải quyết vấn đề, cách xử

thuộc lòng.

lý tình huống, cách sống và trưởng
thành.
4. Thầy kiểm tra đánh giá trên cơ sở

4.Thầy độc quyền kiểm tra đánh giá.

tự kiểm tra, tự điều chỉnh của trò.
5.Thầy là thầy dạy, lo việc dạy: “dạy

5. Thầy là thầy học, chuyên gia về
học, hướng dẫn , tổ chức cho trò biết

chữ, dạy người, dạy nghề”.

“tự học chữ, tự học nghề, tự học nên
người”.
Từ bảng so sánh trên cho thấy vai trò người thầy trong mô hình dạy - tự học không

thể bị mờ nhạt mà trái lại còn rõ nét hơn, người thầy vẫn là “linh hồn” của giờ học sinh
động và sáng tạo. Bởi vì, để có thể làm người hướng dẫn, cung cấp thông tin, trọng tài, cố
vấn… người thầy phải hiểu biết sâu sắc những kiến thức cơ bản của môn học mình đảm
nhiệm, đồng thời phải tự bổ sung vốn kiến thức của mình thường xuyên và có định
hướng rõ ràng qua tài liệu, sách báo…Người thầy phải nắm vững bản chất và các quy
luật của quá trình dạy học để có thể tìm ra hoặc ứng dụng những phương pháp dạy học
phù hợp với đối tượng của mình nhất.
2.2.3.Một số khó khăn và lợi thế của mô hình dạy - tự học
a. Một số khó khăn của mô hình dạy - tự học
- Mô hình này có giảm thời gian thầy giảng giải, truyền đạt ở trên lớp song đòi
hỏi phải đảm bảo thời gian và điều kiện cho người tự học, tự nghiên cứu và đối thoại
với các bạn và thầy. Mô hình này cũng đòi hỏi một số điều kiện nào đó như là tài liệu tự
học, tổ chức lại không gian lớp học, đổi mới quản lí giáo dục theo hướng lấy người học
làm trung tâm của hệ giáo dục…
- Mô hình dạy - tự học vấp phải tập quán, thói quen cổ hữu lâu đời của nhà trường
dạy học thụ động, truyền thụ một chiều, lấy việc dạy (thầy) làm trung tâm.
b. Một số lợi thế của mô hình dạy - tự học
- Đó là mô hình dạy học “vì người học và bằng năng lực tự học của người học”
của một nhà trường “vì người học, cho người học và của người học”, lấy người học

19


(việc học) làm gốc, làm trung tâm; Người học tự học, tự nghiên cứu, hợp tác với các bạn
dưới sự hướng dẫn của thầy để tự mình chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của chính
mình, do đó có hứng thú và động cơ học, phát triển được tính tự chủ, chủ động và sáng
tạo, phát triển được các mối quan hệ giao tiếp phong phú trong cộng đồng xã hội lớp
học, và dần dần hình thành được nhân cách con người lao động tự chủ, năng động và
sáng tạo.
- Mô hình dạy - tự học có khả năng đạt mục tiêu giáo dục thời kỳ đổi mới với chất

lượng, hiệu quả và quy mô lớn nhất: chất lượng giáo dục đạt trình độ cao nhất khi quá
trình dạy học kết hợp hữu cơ với quá trình tự học làm cho tự học và dạy học cộng hưởng
với nhau. Quy mô phát triển giáo dục lớn nhất khi có phong trào toàn dân tự học, tự đào
tạo thường xuyên và rộng khắp.
2.3. Phát triển năng lực tự học môn Vật lý cho học sinh THPT.
2.3.1. Khái niệm năng lực tự học
Năng lực tự học có thể khái niệm như sau:
- Năng lực tự học là thuộc tính riêng lẻ của mỗi cá nhân người học, nhờ được
thuộc tính này mà con người hoàn thành tốt đẹp một hoạt động nào đó, mặc dù bỏ ra ít
sức lao động mà vẫn đạt hiệu quả cao.
- Năng lực tự học là khả năng mỗi cá nhân tự hoàn thiện thông qua rèn luyện,
trang bị, bổ sung kiến thức cho mình thông qua bằng nhiều hình thức, phương tiện.
- Năng lực tự học môn Vật lý của học sinh thể hiện ở chỗ bản thân mỗi học sinh
biết tự quan sát phân tích, biết dự đoán, kiểm chứng,...trên cơ sở đó rút ra kết luận,
hình thành định luật vật lý. Đồng thời, tự hoàn thiện kiến thức học tại lớp, vận dụng để
giải thích được hiện tượng vật lý trong thực tế, cũng như giải các bài tập theo yêu cầu
của chương trình, bên cạnh đó còn biết đề xuất những vấn đề vương mắc trong học
tập, cũng như một số hiện tượng vật lý thường gặp trong thực tế.
- Năng lực tự học của học sinh còn thể hiện ở chỗ tự kiểm tra những kiến thức,
kỹ năng của mình. Thông qua đó các em tự bổ sung những kiến thức còn thiếu.
2.3.2. Phát triển năng lực tự học cho học sinh
a. Phát triển năng lực tự học cho học sinh chính là phát huy tối đa nội
lực của học sinh
- Để thực hiện được chiến lược giáo dục 2009 – 2020 (công bố dự thảo lần thứ
13 chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020) thì học sinh phải trải qua quá

20


trình học tập lâu dài bằng nhiều hình thức như học ở trường lớp, học ở nhà, học ở bạn

bè, học ở mọi người,...
- Ở bậc THPT, các kiến thức vật lý học sinh được học chủ yếu ở giờ trên lớp,
qua việc học tập học sinh tích luỹ dần kiến thức cũng như kỹ năng cơ bản, biến kiến
thức đã học thành của riêng cho mình để vận dụng và giải quyết một số vấn đề có liên
quan trong quá trình khám phá ra kiến thức mới, hoặc giải quyết những vấn đề nâng
cao.
- Trong thực tế, việc học của học sinh hiện nay chủ yếu là do ngoại lực tác động
vào đó là: Của gia đình, của thầy cô, của bạn bè,...Do đó, học sinh có tư tưởng trông
chờ ỷ lại, học sinh không tự mình làm hoặc không muốn làm chỉ nhờ vào sự truyền thụ
của giáo viên “thầy làm sẵn”. Điều đó thường gặp trong thực tế nếu giao bài tập hơi
khác so với bài thầy đã làm, học sinh thường lúng túng không tự mình tìm ra hướng
giải, hoặc cách giải, hoặc học sinh tự mình không thể tiến hành.
Từ những vấn đề trên cho chúng ta thấy phát huy tối đa nội lực của học sinh là
khâu then chốt để quyết định chất lượng giáo dục. Do đó, phát huy tối đa nội lực của
học sinh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức
mới.
b. Phát triển năng lực tự học cho học sinh sẽ giúp cho học sinh tự học, tự
rèn luyện, tự nâng cao kiến thức
- Sau quá trình học tập, học sinh tiếp thu kiến thức trên lớp các em phải tự hiểu
sâu và vận dụng được kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề có liên quan. Muốn
vậy, đòi hỏi học sinh phải biết tự cân đối thời gian học tập ở trường và thời gian học
tập ở nhà bằng nhiều hình thức. Trên cơ sở đó các em tự rèn luyện, tự trang bị, tự bổ
sung kiến thức, kỹ năng cơ bản cần thiết. Tự đào sâu và mở rộng kiến thức, tự hệ
thống tổng hợp hoá kiến thức giúp các em hiểu rõ, hiểu sâu, nắm chắc kiến thức đã
học. Thông qua đó hình thành cho học sinh những thói quen tự rèn luyện, say mê học
tập và ý thức được việc học tập là một nhu cầu cần thiết. Từ đó, các em tự hình
thành cho mình động cơ và thái độ học tập đúng đắn để nâng cao kiến thức.
Tuy nhiên, phát triển năng lực tự học của học sinh không có nghĩa là giáo viên
khoán trắng cho học sinh để học sinh tự tìm hiểu SGK, tự vận dụng kiến thức để giải
quyết các vấn đề có liên quan. Giáo viên phải là người chủ đạo cố vấn; thiết kế, xây


21


dựng kế hoạch, tổ chức hoạt động một cách phù hợp để giúp học sinh khám phá, lĩnh
hội kiến thức theo một con đường và thời gian ngắn nhất, hiệu quả nhất.
2.3.3 Những điều kiện và kỹ năng mà học sinh THPT cần có để phát triển
năng lực tự học môn Vật lý
a. Những điều kiện cần thiết:
+ Độc lập suy nghĩ, tự giải quyết vấn đề
Trong các hiện tượng trong tự nhiên có những hiện tượng vật lý. Từ những hiện
tượng đó học sinh có thể đề xuất vấn đề cần giải quyết, nhu cầu giải quyết dựa
vào những kiến thức và suy nghĩ của mình. Bằng những kiến thức đã học học sinh có
thể đề ra phương án và tiến hành thí nghiệm. Nếu làm được điều này thì học sinh sẽ
nhớ lâu, nhớ rất rõ bởi “tôi làm thì tôi hiểu”
+ Có động cơ, thái độ học tập đúng đắn
- Xác định được động cơ – thái độ học tập đúng đắn “trở thành công dân có ích
cho đất nước ”
- Học để “ngày mai lập nghiệp”
- Học để đạt được 4 trụ cột của việc giáo dục: “học để biết, hiểu, làm và học để
biết cách ứng xử với mọi người”.
+ Ham hiểu biết, có tinh thần học hỏi, có thói quen đọc sách, say mê tìm
tòi, phát hiện những điều mới lạ
+ Có ý chí vượt khó, cần cù, kiên trì
+ Có kỹ năng đọc và hiểu tốt
+ Có đầy đủ các điều kiện và phương tiện học tập
Tất cả các điều kiện trên không phải bất kỳ học sinh nào cũng tự có mà phải qua
một quá trình rèn luyện. Muốn vậy trong suốt quá trình giảng dạy giáo viên cần có
phương pháp giáo dục thích hợp để giúp học sinh hình thành được các điều kiện trên.
Điều đó là rất cần thiết đối với người học.

b. Những kỹ năng:
+ Kỹ năng tư duy
Tư duy là quá trình nhận thức nhằm phản ánh những thuộc tính bản chất, những
liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện tượng khách
quan mà trước đó ta chưa biết .

22


Kỹ năng tư duy bao gồm những kỹ năng quan sát, phân tích, tổng hợp, cụ thể
hoá, khái quát hoá, suy luận, quy nạp, …
- Kỹ năng quan sát
Trong tự nhiên chúng ta thường bắt gặp hiện tượng vật lý. Ví dụ quan sát về
hiện tượng: Hiện tượng về sấm sét, hiện tượng cầu vòng trước và sau cơn mưa hoặc
bên cạnh thác nước, thí nghiệm về sự lưu ảnh của mắt.Thông qua đó học sinh tự đặt ra
câu hỏi: Tại sao lại xảy ra các hiện tượng đó? Từ quan sát học sinh có nhu cầu tìm hiểu
và giải thích các hiện tượng trong thực tế. Với môn Vật lý, kỹ năng quan sát là hết sức
quan trọng khi tiến hành làm thí ngiệm vật lí. Nhờ kỹ năng quan sát học sinh phát hiện
được các quá trình vật lý xảy ra trong thí nghiệm để từ đó nhận xét hoặc rút ra kết
luận.
- Kỹ năng phân tích, tổng hợp
Trong một hiện tượng vật lý có thể có một hay nhiều hiện tượng xảy ra do đó
học sinh phải có kỹ năng phân tích, tách từng quá trình để tìm hiểu và tổng hợp, trên
cơ sở đó rút ra kết luận tương ứng với từng quá trình ấy.
- Kỹ năng phán đoán, dự đoán, suy đoán
Với môn Vật lý kỹ năng dự đoán, phán đoán là một trong những kỹ năng cần
thiết trong học tập của học sinh, nhất là khi tiến hành thí nghiệm vật lý. Từ các hiện
tượng vật lý trước đó học có thể suy đoán được các hiện tượng vật lý tiếp theo diễn ra
như thế nào? Hoặc dự đoán trước kết quả, từ đó có thể dùng thí nghiệm để kiểm chứng
lại điều dự đoán, rút ra được câu kết luận đúng hoặc sai điều dự đoán. Qua đó kích

thích được sự hứng thú lòng say mê nghiên cứu khoa học của học sinh.
- Kỹ năng suy luận, khái quát hoá
Từ kiến thức đã học hoặc thí nghiệm vật lý, học sinh có thể suy nghĩ và rút ra
những kết luận mới (đối với học sinh). Hoặc từ những kết luận qua từng thí nghiệm
học sinh rút ra thành một kết luận hoặc một nội dung định luật nào đó.
+ Kỹ năng tiến hành thí nghiệm
Trong thực tế, học sinh rất ít tự mình làm thí nghiệm mà thường thầy làm trò
quan sát hoặc trò làm dưới sự hướng dẫn của thầy vì nhiều lí do: Do thời gian khống
chế của giờ học, dụng cụ thí nghiệm ít hoặc không có. Do đó, học sinh làm thí nghiệm
thường vụng về, thao tác không nhanh nhẹn, một số học sinh ngại làm thí nghiệm vì sợ
không thành công, sợ nguy hiểm,...Vì vậy, trong quá trình giảng dạy môn Vật lý giáo

23


viên phải thường xuyên rèn luyện cho học sinh các kỹ năng thí nghiệm cơ bản. Bên
cạnh đó, giáo viên cần khích lệ cũng như kích thích sự tìm tòi, hứng thú học tập để
học sinh tự mình làm được thí nghiệm ngoài giờ học. Qua kết quả thí nghiệm đó, học
sinh hiểu sâu nội dung bài học hơn, hoặc tự chiếm lĩnh kiến thức nào đó trong cuộc
sống.

24


KẾT LUẬN
Trong xã hội phát triển hiện nay, vai trò của giáo dục ngày càng quan trọng, là
động lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Mục tiêu giáo dục phải đào tạo
được thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực và có khả năng thích ứng
với đời sống xã hội. Muốn vậy thế hệ trẻ phải có năng lực đặc biệt đó là khả năng tự
học, tự nâng cao và tự hoàn thiện. Trong mô hình này thì người thầy phải gợi mở cho

người học khám phá tri thức, hướng dẫn cho người học tự mình xây dựng những cái
cần hiểu biết. Đối với giáo viên, để mô hình này có thể phát huy hiệu quả cao thì phải
biết vận dụng tối đa các phương tiện dạy để phục vụ cho việc giảng dạy.

25


×