Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh Cầu Giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.38 KB, 71 trang )

Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
LỜI NÓI ĐẦU

Trong những năm qua, cùng với xu thế toàn cầu hóa hội nhập kinh tế
thế giới, cộng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật đã và
đang tạo ra những sự chuyển biến sâu rộng tới mọi mặt của đời sống Chính
trị-kinh tế-xã hội ở mỗi Quốc gia nói chung và trong bản thân từng doanh
nghiệp, đơn vị SXKD nói riêng những “người” được xem là nắm giữ huyết
mạch kinh tế Đất nước, đồng thời cũng là chủ thể chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất
bởi xu thế này.
Ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), trước hết cần phải
khẳng định đó là niềm vinh dự tự hào của cả Dân tộc, đưa Đất nước lên một
vị trí xứng tầm trong mắt bạn bè Quốc tế. Sau bao nhiêu cố gắng nỗ lực tại
những vòng đàm phán găy go, khốc liệt, có những lúc tưởng chừng tan vỡ.
Vượt lên trên tất cả, Đảng và Chính Phủ đã chèo lái con thuyền Việt Nam
hướng đến cái đích mà nó cần phải tới, đó là hội nhập một cách đầy đủ và
trọn vẹn nhất với Thế giới mà WTO chính là rào cản cuối cùng. Cơ hội ở đây
là rất lớn, song chúng ta chỉ có thể tận dụng tốt cơ hội vượt qua thách thức,
biến cơ hội thành những thành quả thiết thực cho Đất nước nếu mỗi một
người dân, một đơn vị SXKD ý thức rõ trách nhiệm của mình trước vận hội
hết sức to lớn này. Bởi suy cho cùng, WTO không phải là công việc của riêng
bộ máy Nhà nước mà là của toàn bộ nền kinh tế.
Nắm bắt được điều này, các doanh nghiệp trong và ngoài Quốc doanh
của Việt Nam đều đang cố gắng có những bước chuyển mình mạnh mẽ cả
trong tư duy tổ chức lẫn loại hình quản lý doanh nghiệp, để có thể đủ sức
đương đầu với làn sóng đầu tư ồ ạt của các tập đoàn tư bản nước ngoài, đặc
1
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
biệt là trong nhiều lĩnh vực nhạy cảm như: Ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư xây
dựng cơ bản….
Vì vậy, trong thời gian tới muốn đạt được sự phát triển vượt bậc về


kinh tế, ổn định chính trị - xã hội thì một nguồn lực có ý nghĩa quyết định
không thể thiếu được, đó chính là vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Tuy nhiên, có nguồn vốn trung - dài hạn thôi là chưa đủ mà phải biết
sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó thì mới phát huy hết được vai trò tích cực
cũng như chống lại sự lãng phí. Hay nói một cách khác, chỉ khi nào mở rộng
gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn thì nguồn vốn trung
- dài hạn mới phát huy được vai trò tích cực của mình. Và một trong những
đối tượng cần được hướng tới, nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này là
các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD). Với đặc điểm hoạt động
năng động, linh hoạt và có tính tự chủ cao, DNNQD đã nhanh chóng hoà
nhập với nền kinh tế thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần
kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm cho người lao động và là đối tác
cạnh tranh sôi động với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế,
góp phần tích cực vào sự phồn vinh của đất nước. Song thực tế hiện nay, phần
lớn các DNNQD đều thiếu vốn kinh doanh trầm trọng. Chính vì lẽ đó, em đã
mạnh dạn chọn cho mình Đề tài: “Mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với
các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Chi nhánh Cầu Giấy”.
Đây là một Đề tài rộng và tương đối cấp thiết, nhất là trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ trong thời gian vừa qua đã và đang làm
cho thị trường tài chính thế giới diễn biến theo những chiều hướng rất khó
lường. Gián tiếp gây ra những tác động không nhỏ tới hệ thống Ngân hàng
cũng như các Doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở những kiến thức lý luận đã
2
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
học và tích lũy, cộng với sự giúp đỡ nhiệt tình của Giảng viên hướng dẫn:
Ths. Nguyễn Thùy Dương cũng như đơn vị thức tập: Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Chi nhánh Cầu Giấy. Đề tài này đã được hoàn thành
với bố cục gồm có:
Chương 1: Lý luận chung về tín dụng trung - dài hạn đối với DNNQD

của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay trung - dài hạn đối với các DNNQD,
tại Ngân Hàng No&PTNT Chi nhánh Cầu Giấy, Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay tín dụng
trung - dài hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy.
Rất mong nhận được sự chia sẽ và góp ý của Quý Thầy cô, ban giám
đốc ngân hàng và bất cứ ai quan tâm đến vấn đề này để đề tài này được hoàn
thiện hơn.
3
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG TRUNG - DÀI
HẠN ĐỐI VỚI DNNQD CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.Tổng quan về doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(DNNQD)
1.1.1 Khái niệm
Luật doanh nghiệp Việt Nam quy định: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh
tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh - tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng sản phẩm dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Với đặc trưng như vậy, DNNQD là một bộ phận không thể thiếu của
nền kinh tế, lấy sở hữu tư nhân làm nền tảng, được tồn tại lâu dài, được bình
đẳng trước pháp luật và có tính sinh lợi hợp pháp, chủ động trong mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật.
DNNQD bao gồm những đơn vị kinh tế có hình thức sở hữu phi Nhà
nước về tư liệu sản xuất. Những đơn vị kinh tế này được hình thành dựa trên
cơ sở các chủ đầu tư bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức, hoạt động nhằm mục
đích chủ yếu là lợi nhuận và chịu sự chi phối của chủ đầu tư. Các loại hình

khu vực kinh tế này được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng: Doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài …hoạt động độc lập và tự
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở lãi hưởng
lỗ chịu. Các DNNQD được pháp luật quy định rất chặt chẽ đối với mọi hoạt
động vì đây là khu vực kinh tế phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề xã hội.
4
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
1.1.2 Các loại hình DNNQD trong nên kinh tế
Căn cứ phân chia các loại hình DNNQD trong nền kinh tế:
Thứ nhất, nếu căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất
kinh doanh thì DNNQD được phân thành 2 loại là:
+ Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty TNHH,
công ty cổ phần, hợp tác xã,...)
+ Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hỗn hợp (là các doanh nghiệp trong
đó chỉ có một người nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn, còn những người góp
vốn thì chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn góp của mình mà thôi).
Thứ hai, nếu căn cứ vào tính chất sở hữu vốn thì DNNQD được phân
thành 2 loại là
+ Doanh nghiệp sở hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH
một thành viên)
+ Doanh nghiệp sở hữu nhiều chủ (công ty TNHH 2 thành viên trở lên,
công ty cổ phần, hợp tác xã,...).
Tuy nhiên, xét một cách tổng quan nhất thì DNNQD bao gồm các loại
hình như sau: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân
và hợp tác xã. Trong đó:
+ Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH: Là doanh nghiệp do không quá 50 thành viên góp

vốn thành lập, mỗi thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp đã cam kết.
5
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
+ Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp có vốn điều lệ được hình thành từ
nhiều phần vốn góp bằng nhau gọi là cổ phần, và người sở hữu cổ phần được
gọi là cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ về
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
+ Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có
nhu cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ, cải thiện đời sống, góp phần phát triển nền kinh tế.
1.1.3 Đặc điểm của DNNQD
Từ khi luật doanh nghiệp ra đời, các DNNQD đã phát triển rất nhanh,
đặc biệt là ở các đô thị, các thành phố lớn. Các DNNQD hoạt động chủ yếu vì
mục tiêu lợi nhuận, được tự chủ trong việc quyết định phương hướng kinh
doanh của mình, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đặc biệt là không
chịu sự chi phối, chỉ đạo hay sự bảo hộ trực tiếp của nhà nước như các doanh
nghiệp quốc doanh. Trong quá trình hình thành và phát triển, các DNNQD có
những đặc điểm sau đây:
+ Đặc điểm thứ nhất là, số lượng lớn và ngày càng tăng rất nhanh. Hiện
nay, các DNNQD chiếm trên 95% tổng số các doanh nghiệp, trong khi các
doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng chững lại và giảm dần theo chủ
trương cổ phần hoá của nhà nước, thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang
dần lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến tháng 5/2005 cả nước
đã có 25.479 DNNQD, bình quân mỗi năm tăng gấp 1,3 lần. Như vậy là trung
bình mỗi năm có trên 7.600 DNNQD được thành lập, đây là một con số khá
lớn.
6

Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
+ Đặc điểm thứ hai là, quy mô vốn và lao động nhỏ. DNNQD chủ yếu
có quy mô vừa và nhỏ, có tới 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ tập trung ở khu
vực kinh tế này. Các DNNQD chưa có thâm niên tồn tại lâu dài, do chỉ mới
được chính thức công nhận từ sau thời kỳ đổi mới (năm 1986), nên chưa có
điều kiện tích luỹ vốn. Hơn nữa lại dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, vốn tự có chỉ đáp ứng được 30 – 40% nhu cầu vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của DNNQD, trong khi việc huy động vốn từ nguồn đi vay
còn hạn chế nên nguồn vốn mang tính chất nhỏ hẹp. Với quy mô vốn như vậy
kéo theo quy mô lao động cũng hầu hết là nhỏ và trung bình, số doanh nghiệp
có quy mô lao động lớn là rất ít (chỉ tập trung trong các ngành CN chế biến).
Vấn đề thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tất yếu kéo theo trình độ
công nghệ lạc hậu, năng suất thấp.
+ Đặc điểm thứ ba là, trình độ công nghệ sản xuất tương đối lạc hậu,
thiếu thốn. Với quy mô vốn hạn chế cùng việc thiếu thông tin, hiểu biết về
công nghệ tiên tiến nên trình độ công nghệ của các DNNQD nhìn chung là
không đồng bộ. Hầu hết các thiết bị đều cũ kỹ, lạc hậu, phần lớn là máy cũ tân
trang lại. Theo số liệu thống kê năm 2007 thì chỉ có 28% doanh nghiệp sử
dụng công nghệ tương đối hiện đại, 33,5% doanh nghiệp sử dụng công nghệ
cổ truyền, còn lại 38,5% doanh nghiệp kết hợp cả công nghệ cổ truyền và hiện
đại. Một thực tế bất cập nữa, đó là khi doanh nghiệp nhập máy móc tiên tiến
hiện đại thì phải thuê cả chuyên gia nước ngoài để vận hành do trình độ lao
động ở nước ta còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu về việc sử dụng công
nghệ mới. Điều này sẽ làm tăng chi phí đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp sẽ khiến cho các chủ doanh nghiệp dè dặt trong việc trang bị công
nghệ mới. Trong khi đó, trình độ công nghệ lại là yếu tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, tác
động đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
7
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN

Như vậy có thể thấy, đặc điểm chung của các DNNQD ở nước ta hiện
nay là thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh một cách trầm trọng. Vốn
tự có chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó, giải pháp tối ưu là sử dụng các nguồn vốn vay (đặc biệt là các
nguồn vốn trung – dài hạn). DNNQD phát triển sẽ là thị trường cho vay lớn
và tiềm năng cho các ngân hàng thương mại.
1.1.4 Vai trò của DNNQD
Trong những năm qua, các DNNQD đã có những bước chuyển mình
tích cực cả về mặt lượng lẫn mặt chất, đạt được nhiều những thành tựu rất đỗi
khả quan, góp phần to lớn trong sự nghiệp đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện
đại hóa nước nhà. Có thể khẳng định, DNNQD ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế, được cụ thể qua các mặt sau:
1.1.4.1 Góp phần tăng thu nhập quốc dân
Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang ngày càng đóng góp nhiều
hơn vào tổng thu nhập quốc dân, tỷ trọng đóng góp vào GDP của các
DNNQD chiếm nhiều hơn hẳn so với khối kinh tế Nhà nước và khối kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2006, vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân là
132.000 tỷ đồng, gấp 2 lần vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 34% trên tổng vốn
đầu tư toàn xã hội. Hàng năm, các doanh nghiệp này tiếp nhận 90% số lao
động mới, tạo ra gần 50% GDP cả nước. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, trong tháng 10 đầu năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp cả nước
ước đạt 49.976 tỷ đồng tăng 3,9% so với tháng 9 và tăng 16,7% so với mười
tháng đầu năm 2006. Trong đó, khu vực ngoài quốc doanh tăng cao nhất với
19%. Như vậy, tính chung mười tháng đầu năm 2007, giá trị sản xuất công
nghiệp của cả nước ước đạt 467.935 tỷ đồng, tăng 17% so với 10 tháng đầu
8
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
năm 2006. Đóng góp vào con số này có khu vực ngoài quốc doanh tăng
20,8% và tỷ trọng so với toàn ngành tiếp tục tăng (chiếm 36,5%).
Trung bình mỗi năm, khối DNNQD đóng góp tới 46,03% GDP. Trong

khi đó, doanh nghiệp Nhà nước có đóng góp trung bình 39% GDP hàng năm
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có đóng góp trung bình 14,5%
GDP hàng năm. Hơn thế nữa, khối DNNQD đang có xu hướng ngày càng
phát triển nhanh, hơn hẳn các loại hình doanh nghiệp khác.
1.1.4.2 Góp phần làm tăng thu ngân sách Nhà nước
DNNQD là những tổ chức kinh tế hình thành dựa trên hình thức tư hữu
về tư liệu sản xuất, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, dây chuyên công nghệ đơn giản,
giảm thiểu tối đa chi phí nhưng vẫn đảm bảo sản xuất. Mặt khác, các
DNNQD có đặc điểm nổi bật là khá năng động, linh hoạt, có khả năng chuyển
đổi phương hướng kinh doanh khá nhanh, nắm bắt nhanh nhu cầu thị hiếu của
thị trường nên hoạt động kinh doanh khá hiệu quả. Doanh thu của các
DNNQD cao dẫn đến làm tăng thu ngân sách nhà nước nhờ vào việc đóng
thuế thu nhập doanh nghiệp, theo thống kê của 3 năm gần đây là vào khoảng
40%-45% mỗi năm. Điều này đã góp phần đáng kể, tạo điều kiện để nhà nước
làm tròn nghĩa vụ là cơ quan tạo hành lang pháp lý, quản lý hành chính, thanh
tra, kiểm tra, giám sát và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh
nghiệp cùng hoạt động.
1.1.4.3 Tác động mạnh mẽ đến dịch chuyển cơ cấu trong nền kinh tế
quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Theo cơ cấu ngành: Trước đây, DNNQD hoạt động chủ yếu trong các
ngành công nghiệp, còn các ngành khác như du lịch, dịch vụ... còn rất ít. Đến
nay, DNNQD đã có mặt ở hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh, đặc biệt
9
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
trong lĩnh vực công thương nghiệp và dịch vụ. Hiện nay, DNNQD hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ là 56,9%, trong đó thương nghiệp, khách sạn và nhà
hàng chiếm 43,9%. Tiếp đến là lĩnh vực công nghiệp xây dựng chiếm 37,7%.
Trong lĩnh vực thương mại, kinh tế ngoài quốc doanh chiếm khoảng 84,3%
tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ (năm 2006). Xu hướng tỷ trọng DNNQD sẽ

ngày càng tăng nhanh vì đây là khu vực kinh tế mà Nhà nước đang khuyến
khích đầu tư và phát triển.
Theo cơ cấu thành phần kinh tế: Trước đây, phần lớn các doanh nghiệp
hoạt động dưới hình thức là doanh nghiệp nhà nước.Tuy nhiên, theo xu hướng
phát triển của nền kinh tế thì các doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng thu
hẹp lại. Hiện nay chỉ còn khoảng 4000 doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
trong một số ngành và lĩnh vực trọng yếu. Trong khi đó DNNQD lại tăng
nhanh cả về chất lượng và số lượng, trong đó tăng nhanh nhất là loại hình
công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài cũng tăng lên khá nhanh nhưng vẫn có tỷ trọng thấp nhất
trong tổng số các doanh nghiệp. Như vậy, hiện nay ở nước ta về cơ cấu kinh
tế, có 3 khu vực kinh tế chính là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực
kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là khu vực
kinh tế nhà nước và chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng số các doanh nghiệp
hiện nay là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
DNNQD phát triển nhanh trong tất cả các ngành và khắp các địa
phương, đặc biệt là ở các đô thị và thành phố lớn, tạo ra cơ hội phân công lại
lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản và sản xuất kinh doanh
nhỏ của hộ gia đình là khu vực có năng suất thấp, thu nhập không cao, chiếm
số đông, thiếu việc làm sang khu vực doanh nghiệp, nhất là công nghiệp và
dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khá hơn.
10
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
Theo xu hướng phát triển kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp trong đó
có các DNNQD đang chuyển dần ra khỏi thành phố, thị xã đến nơi gần vùng
nguyên liệu, mặt bằng rộng rãi, có giá đất thấp, giá nhân công rẻ...tạo ra nhiều
cơ hội phân công lại lao động giữa các ngành, các vùng lãnh thổ, góp phần
đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.4.4 Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện dời sống của

người lao động
Trong những năm gần đây, số doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết
được nhiều việc làm với thu nhập cao hơn cho người lao động. Tuy có mức
thu nhập bình quân thấp, nhưng DNNQD lại là khu vực đang thu hút nhiều
lao động mới và có tốc độ tăng thu nhập nhanh nhất so với các loại hình
doanh nghiệp khác. Theo thống kê, trong năm 2005, tổng số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp đang hoạt động đạt gần 5,22 triệu người. Trong
đó, lao động trong doanh nghiệp Nhà nước có 2,26 triệu người, giảm so với
năm 2004 (từ 48,5% xuống còn 43,3%). Số lao động làm việc trong các
DNNQD đạt khoảng 2,1 triệu người, chiếm khoảng 40% tổng số lao động,
cao hơn tỷ trọng 36,7% (tức tăng 20%) so với năm 2004. Số lao động làm
việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 86 vạn
người, chiếm 16,6%, cao hơn tỷ trọng 14,8% của năm 2004.
DNNQD ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong việc thu hút lao động
và giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho một bộ phận lớn dân cư, tạo ra
nguôn thu cho ngân sách nhà nước và đóng góp cho tăng trưởng GDP. Thu
nhập tăng nhanh của khối DNNQD góp phần cải thiện và nâng cao mức sống
chung của toàn xã hội, tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ
nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
1.1.4.5 Góp phần giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội
11
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
Với sự năng động và nhạy bén của mình, sản phẩm hàng hoá dịch vụ
do khối DNNQD tạo ra ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại mặt
hàng; chất lượng hàng hoá, dịch vụ được nâng lên; do đó cơ bản đã giải quyết
nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ ngày càng cao của toàn xã hội; góp phần
nâng cao mức sống vật chất của dân cư và tăng nhanh lượng hàng hoá xuất
khẩu. Nhiều loại hàng hoá trước đây thường phải nhập khẩu cho tiêu dùng thì
nay đã được các doanh nghiệp(đặc biệt là các DNNQD) sản xuất thay thế,
được người tiêu dùng tín nhiệm với rất nhiều sản phẩm có uy tín, thương hiệu

mạnh cả trên thị trường trong và ngoài nước.
DNNQD đã tạo ra nguồn thu khá lớn và tăng nhanh trong những năm
qua là điều kiện để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các hoạt động xã
hội cộng đồng như y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo,…Đặc biệt, sự phát
triển đa dạng của các DNNQD tạo điều kiện để khôi phục các làng nghề
truyền thống ở nông thôn, góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống cho
cư dân ở nông thôn.
Ngoài ra, sự phát triển của nền kinh tế và của khoa học công nghệ sẽ
thúc đẩy các DNNQD không ngừng đổi mới trang thiết bị, cải tiến dây chuyền
công nghệ, nâng cao cạnh tranh, là động lực để phát triển.
Vốn đầu tư của các DNNQD đang trở thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu
đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương bởi đầu tư của khu vực
DNNQD xuất hiện khắp nơi, ngay cả những vùng kinh tế còn khó khăn, điều
đó đã tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế toàn diện, đồng đều.
Cuối cùng, một vai trò đặc biệt của DNNQD đối với riêng lĩnh vực tài
chính - ngân hàng, đó là trở thành một trong những thị trường vốn tín dụng
rộng lớn đầy tiềm năng. Với sự phát triển không ngừng của các DNNQD thì
12
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
nhu cầu về vốn cũng ngày càng tăng cao, tạo môi trường tiềm năng cho các
ngân hàng đa dạng hoá các nghiệp vụ tín dụng.
1.2 Lý thuyết chung về tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng thương mại
1.2.1 Thế nào là tín dụng trung và dài hạn
Muốn hiểu về tín dụng trung và dài hạn trước hết ta phải làm rõ được
khái niệm thế nào là tín dụng. Tín dụng (credit) - xuất phát từ tiếng Latinh là
credo - là sự tin tưởng, sự tín nhiệm và được định nghĩa dưới nhiều giác độ
khác nhau:
• Tín dụng có thể xem là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn
trả.

• Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay
hiện vật trên nguyên tắc có hoàn trả.
• Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện
vật của một tổ chức, cá nhân này cho một tổ chức, cá nhân khác
sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn trả.
• Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi
về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Như vậy, tín dụng có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau,
song về bản chất tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người đi
vay và một bên là người cho vay trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Đối với ngân hàng thương mại tín dụng là một trong những nghiệp
vụ cơ bản của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có thể được định nghĩa như
sau:
13
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
“Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao
dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các
tổ chức tín dụng. Bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất
kinh doanh, trong đó bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”
Khi tín dụng được phân theo thời hạn thì sẽ hình thành nên: tín dụng
ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để
bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, và nó còn có
thể được vay cho những tiêu dùng cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm. Loại
hình tín dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định,
cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn

thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời gian trên 5 năm. Loại tín
dụng này được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: Đầu tư xây dựng
các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản
xuất…
Trong đó, tín dụng - trung và dài hạn thường được đầu tư để hình
thành vốn cố định của khách hàng, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp nhằm mục tiêu cải tiến công nghệ sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị
trường.

14
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
1.2.2 Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung dài hạn có những đặc điểm quan trọng sau:
Đặc điểm đầu tiên dễ nhận thấy là, tín dụng trung - dài hạn thường có
thời gian kéo dài, quy mô tín dụng thường lớn, nguy cơ rủi ro cao vì nền kinh
tế quốc gia cũng như thế giới luôn biến động không ngừng. Sự biến động này
có thể tích cực hoặc tiêu cực mà chúng ta không thể lường hết được. Do đó
mà một khoản vay dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro cao hơn là một khoản
vay ngắn hạn, vì thời gian càng dài thì xác suất xảy ra những biến động này
càng lớn hơn . Đó cũng là lý do giải thích cho việc lãi suất cho vay trung - dài
hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Vì độ rủi ro cao và thời gian
thu hồi vốn lâu hơn.
Đặc điểm thứ hai, tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng thương mại
có thời gian hoàn vốn chậm. Nguồn trả tiền vay cho ngân hàng chủ yếu được
lấy từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận của chính dự án mang lại. Vì
thế, khách chỉ có thể hoàn trả khoản vay có quy mô lớn thành nhiều lần khác
nhau – thời hạn cho vay kéo dài trong nhiều năm.
Đặc điểm thứ ba, tín dụng trung - dài hạn được cấp cho khách hàng

nhằm hỗ trợ cho họ trong việc mua sắm, đổi mới tài sản cố định. Nên đối
tuợng cho vay chủ yếu của ngân hàng thương mại trong hình thức tín dụng
này là vốn thiếu hụt tạm thời của các doanh nghiệp.
Đặc điểm cuối cùng, do gắn liền với tài sản cố định và vốn cố định
của khách hàng, tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng thương mại thường
được sử dụng vào các dự án đầu tư. Và về cơ bản thì tín dụng trung hạn
thường dung để đầu tư theo chiều sâu, trong khi đó tín dụng dài hạn lại tập
trung cho các dự án đầu tư mở rộng.

15
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
1.2.3 Các hình thức tín dụng trung và dài hạn
1.2.3.1 Tín dụng theo dự án đầu tư
a) Cho vay trực tiếp theo dự án
Cho vay trực tiếp theo dự án là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ
biến trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng thương mại tiến hành mọi hoạt
động và tự chịu trách nhiệm với từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã
lựa chọn để tài trợ.
Chính vì vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay
mà còn phải quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến việc
thực thi có hiệu quả dự án như : quy hoạch sản xuất, thiết kế quy trình công
nghệ, tiêu chuẩn thiết bị máy móc, giá cả thị trường, hiệu quả đầu tư… Bởi vì
việc quy định cấp một khoản tín dụng, sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay
trong một khoảng thời gian nhất định. Cho nên cần phải nghiên cứu một cách
nghiêm túc và xem xét kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra.
b) Cho vay đồng tài trợ
Là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (gồm từ 2 tổ chức
tín dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối
hợp với các bên bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằm phân tán rủi ro cho các tổ
chức tín dụng.

Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp : Các dự án đầu tư
đòi hỏi một khoản vốn rất lớn, nếu chỉ do một ngân hàng thì không đáp ứng
hết được, bởi ngân hàng thường chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ
nhất định so với tổng nguồn vốn của mình (tối đa không quá 15% VCSH) và
không được đầu tư qúa nhiều vốn vào một công ty để đảm bảo an toàn vốn tài
sản. Thậm chí trong một vài dự án, dù ngân hàng có thể đáp ứng toàn bộ nhu
16
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
cầu vay vốn nhưng nếu xét thấy rủi ro không phải là nhỏ thì ngân hàng cũng
sẽ không muốn đảm nhận hết. Do vậy, cho vay đồng tài trợ là một hoạt động
tín dụng nhằm giúp ngân hàng phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa nguồn
vốn của họ để đầu tư vào các dự án dài hạn.
1.2.3.2 Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng tín
dụng thuê mua, qua đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình cho người đi thuê sử dụng. Người thuê có trách nhiệm thanh
toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê và có thể được quyền sở hữu tài sản
thuê, được quyền mua tài sản thuê hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều
kiện đã được hai bên thoả thuận. Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất
động sản :
• Động sản chủ yếu gồm máy móc thiết bị, xe máy thi công, dây
chuyền công nghệ…
• Bất động sản chủ yếu là nhà xưởng, trụ sở, cửa hàng, văn phòng
đại diện…
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, còn
bên đi thuê chỉ được quyền sử dụng. Do đó, người đi thuê không đựơc bán
chuyển nhượng cho người khác. Song họ được lại hưởng những lợi ích do
việc sử dụng tài sản đó mang lại, đồng thời cũng chịu phần vốn rủi ro có liên
quan đến tài sản. Một số hình thức tín dụng thuê mua như : thuê mua có sự
tham gia của hai bên, thuê mua có tham gia của ba bên, tái thuê mua (sale –

base back), thuê mua giáp lưng (under lease), thuê mua hợp tác (levereged
lease)…
Về mặt lợi ích thì cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi.
17
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
- Đối với ngân hàng (bên cho thuê): đây là hình thức tài trợ bổ sung cho
các hình thức tài trợ khác đang tồn tại ở ngân hàng, nó giúp ngân hàng mở
rộng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro, đảm bảo
nguyên tắc vốn vay được sử dụng đúng mục đích.
- Đối với các doanh nghiệp (bên đi thuê) : hình thức này có thể giúp các
doanh nghiệp có thể sử dụng vốn vay dưới dạng thuê các máy móc, thiết bị...
mà không phải bỏ vốn lớn, không ảnh hưởng tới bảng tổng kết tài sản và hạn
mức tín dụng của doanh nghiệp, hơn nữa việc cấp tín dụng thuê mua thường
khá nhanh chóng. Từ đó, cho phép đầu tư kịp thời, đáp ứng được cơ hội sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Mặt khác phương thức thanh
toán tiền thuê linh hoạt, thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản xuất cũng
như tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và mỗi cá nhân.
- Đối với các công ty nhỏ hoặc công ty không có uy tín : ngân hàng có
thể không chấp nhận cho vay dài hạn nhưng có thể cho hưởng tín dụng thuê
mua. Có thể nói, mô hình tín dụng thuê mua rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế
thị trường, nhất là đối với nền kinh tế nhiều thành phần như ở Việt Nam hiện
nay.
1.2.4 Vai trò của tín dụng trung và dài hạn trong nền kinh
tế thị trường
1.2.4.1 Đối với nền kinh tế
Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển nhanh và bền vững đều cần
phải thu hút được thật nhiều các nguồn vốn lớn và lâu dài. Tín dụng trung và
dài hạn chính là để đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó.
1.2.4.2 Đối với ngân hàng
18

Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
Khi các ngân hàng thực hiện cấp tín dụng trung và dài hạn cho các dự
án trọng điểm quốc gia (nâng cấp cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, hệ thống
giao thông, xây dựng công trình thủy điện…) sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn rất
nhiều so với việc dùng nó để cho vay ngắn hạn, vì mỗi món vay trung - dài
hạn cấp cho doanh nghiệp thực hiện các dự án đó thường là rất lớn, mang lại
lợi nhuận cao.
1.2.4.3 Đối với doanh nghiệp
Khi tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài, doanh nghiệp mong muốn
có đựơc những khoản tín dụng trung - dài hạn từ ngân hàng, bởi những ưu thế
của nó (chủ động về quy mô vốn vay, thời hạn thanh toán, giảm chi phí phát
hành, chắn thuế…) so với việc doanh nghiệp phát hàng cổ phiếu, trái phiếu
huy động vốn dài hạn

1.3 Cho vay trung - dài hạn của ngân hàng thương mại
đối với DNNQD
1.3.1 Vai trò của ngân hàng thương mại đối với DNNQD
Tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nói
chung, và đặc biệt là đối với các DNNQD, thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, Góp phần giúp DNNQD đạt được cơ cấu vốn tối ưu. Bởi
trong điều kiện hiện nay, quy mô vốn của các DNNQD còn đang trong tình
trạng thiếu trầm trọng, thế nên vốn ngân hàng là một sự lựa chọn hàng đầu.
Các doanh nghiệp thường đi vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự
án mở rộng quy mô hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
19
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
Thứ hai, Tạo điều kiện phát triển ngành nghề mới trong khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường Các doanh nghiệp
hoạt động chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy vậy, để nắm bắt và dự

đoán được nhu cầu của thị trường trong tương lai đối với cá nhân từng doanh
nghiệp là rất khó khăn. Trong khi ngân hàng có mối quan hệ rộng rãi đối với
các đơn vị kinh tế trong hầu hết các nghành, các lĩnh vực thông qua hoạt động
tín dụng của ngân hàng, tạo ra cho ngân hàng một hệ thống thông tin phong
phú. Từ đó ngân hàng có thể cung cấp các thông tin tương đối chính xác về
thị trường và tư vấn cho khách hàng về kế hoạch sản xuất kinh doanh. Cùng
với nguồn vốn của mình, ngân hàng thúc đẩy việc thành lập các doanh nghiệp
mới, bên cạnh việc giữ gìn các ngành nghề truyền thống, các ngành nghề mới
cũng sẽ có điều kiện hình thành và phát triển.
Thứ ba, Cung cấp vốn cần thiết cho các doanh nghiệp để đổi mới
trang thiết bị, đổi mới công nghệ, tìm kiếm thị trường, nâng cao trình độ của
nhân viên, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
diễn ra liên tục.. Từ đó, tạo cho doanh nghiệp khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Tuy nhiên không phải ngân hàng cung cấp được vốn cho tất cả các
khách hàng mà ngân hàng tập trung vào một nhóm khách hàng cụ thể và phải
là những khách hàng làm ăn có hiệu quả, hạn chế tối đa rủi ro mất vốn cho
ngân hàng. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nói chung và
DNNQD nói riêng luôn cố gằng làm ăn có hiệu quả. Hơn thế nữa, khi doanh
nghiệp gặp khó khăn ngân hàng có thể tư vấn tài chính, thực hiện một số
nghiệp vụ trong phạm vi chức năng là thế mạnh của ngân hàng giúp doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
1.3.2 Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại
20
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
Để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, góp phần hạn chế rủi ro,
ngân hàng phải thực hiện quá trình cho vay dựa trên những nguyên tắc nhất
định. Điều này có ý nghĩa không chỉ với ngân hàng mà còn có ý nghĩa quan
trọng đối với khách hàng và cả nền kinh tế. Các nguyên tắc này được cụ thể
hoá trong các quy định của ngân hàng nhà nước và của các ngân hàng thương
mại.

- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác
định.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích thoả thuận
với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định
khác của ngân hàng cấp trên. Việc ngân hàng yêu cầu khách hàng cam kết
như vậy để đảm bảo rằng ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp
luật và phù hợp với mục tiêu hoạt động, chiến lược kinh doanh của ngân
hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án có hiệu quả. Cho
vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, tuy nhiên, đây cũng là hoạt động
hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay khi nhận thấy
họ có khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Phương án hoạt động của người vay
hiệu quả và có lãi chứng minh cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư của ngân
hàng. Nếu ngân hàng xét thấy khoản tín dụng kém an toàn, họ sẽ yêu cầu
người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. Thực hiện nguyên tắc này là điều
kiện để thực hiện nguyên tắc đầu tiên.
1.3.3 Phân loại cho vay đối với DNNQD
1.3.3.1 Căn cứ vào thời hạn cho vay
21
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
Căn cứ vào thời hạn cho vay thì tín dụng ngân hàng được chia thành 3
loại như sau:
Tín dụng ngắn hạn là các khoản tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng
giúp doanh nghiệp bổ sung vốn lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn
Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng
đến 60 tháng, thường được dùng để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy
móc…
Tín dụng dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, dùng
để xây dựng nhà xưởng, đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, tài trợ cho
những dự án sản xuất lớn có thời quan thu hồi vốn dài.

1.3.3.2 Căn cứ vào tài sản đảm bảo
a) Có tài sản đảm bảo. Nghiệp vụ đảm bảo cũng được chia thành 2 loại
là cầm cố và thế chấp.
-Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải
chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian
cam kết, thường là thời gian nhận tài trợ.
-Thế chấp là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy
tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm
giữ trong thời gian cam kết.
b) Không có tài sản đảm bảo còn gọi là cho vay tín chấp. Đó là việc
khách hàng sử dụng uy tín của mình để vay vốn và ngân hàng chấp nhận cho
vay. Ngân hàng chỉ cho vay không có tài sản đảm bảo đối với khách hàng lớn,
khách hàng truyền thống và có uy tín lớn, thường xuyên giao dịch với ngân
hàng. Thông thường ngân hàng chỉ cho vay theo hình thức này đối với một số
22
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
doanh nghiệp nhà nước theo chỉ định, còn đối với DNNQD ở nước ta là rất ít
và hầu như không có.
1.3.3.3 Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng
a) Cho vay thấu chi:
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay, qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi
của khách hàng không phù hợp về quy mô và thời gian. Đây là tín dụng ngắn
hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, tạo điều kiện
thanh toán chủ động, nhanh, kịp thời cho khách hàng. Hình thức này chỉ sử
dụng cho các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập ổn định, đều đặn và kỳ
thu nhập ngắn.
b) Cho vay trực tiếp nhiều lần:
Đây là hình thức cho vay phổ biến đối với những khách hàng không có

nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi,
chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt thì mới vay ngân
hàng. Vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu
kỳ sản xuất kinh doanh.
c) Cho vay theo hạn mức:
Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng, là số dư tối đa tại thời điểm tính. Thời điểm tính ở
đây có thể là cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Cho vay theo hạn mức thuận tiện cho những khách hàng vay mườn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên tham gia vào quá trình sản
23
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
xuất kinh doanh, hạn mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất
kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
e) Cho vay luân chuyển:
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Ngân
hàng có thể cho doanh nghiệp vay để mua hàng khi doanh nghiệp thiếu vốn
và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Việc cho vay dựa trên luân chuyển
của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế
hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Khách hàng được đáp ưng nhu cầu vốn kịp thời nên việc thanh toán cho
người cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn
trong tiêu thụ hàng hóa thì ngân hàng sẽ khó thu hồi được vốn do thời hạn của
khoản vay không được quy định rõ ràng.
f) Cho vay gián tiếp:
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng
có thể chuyển một vài khâu như thu nợ, phát hành tiền vay,…của hoạt động
cho vay sang các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian có thể đứng ra bảo
đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho
một thành viên vay. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người vay khi không

có hoặc không đủ tài sản thế chấp, đồng thời hạn chế người vay sử dụng tiền
sai mục đích.
Ngoài ra, có thể phân loại cho vay căn cứ theo mục đích, bao gồm: cho
vay kinh doanh bất động sản, cho vay công nghiệp và thương mại, tài trợ thuê
mua, cho vay khác. Căn cứ theo phương thức hoàn trả có: cho vay trả một lần,
cho vay trả nhiều lần, cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
24
Nguyễn Đức Tố TCDN17_BN
1.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại đối với DNNQD
1.3.4.1 Nhân tố chủ quan
a) Từ phía ngân hàng
- Nguồn vốn huy động của ngân hàng: Khả năng huy động vốn và
nguồn vốn huy động quyết định khả năng cho vay của ngân hàng đối với các
doanh nghiệp nói chung và với các DNNQD nói riêng, đồng thời cũng là yếu
tố đánh giá khả năng hoạt động và sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường.
- Quy trình tín dụng của ngân hàng: Quy trình cấp tín dụng là yếu tố
quan trọng để thực thi chính sách tín dụng tại các ngân hàng, ảnh hưởng đến
hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là với
DNNQD.
- Chính sách tín dụng và chính sách khách hàng: Chính sách tín dụng
phản ánh phương hướng, mục tiêu của hoạt động quan trọng nhất trong một
ngân hàng, là hoạt động tín dụng, tạo nên sự thống nhất chung nhằm hạn chế
rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
- Nguồn nhân lực: Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp
tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, giỏi chuyên môn, am hiểu
và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu
tư vốn, năm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín
dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin vay, đánh giá tài sản thế chấp,

giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay đến khi thu hồi được nợ hoặc xử
lý xong món nợ theo quy định của ngân hàng… sẽ giúp cho ngân hàng có thể
ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chi kỳ khép kín
của một khoản tín dụng.
25

×