VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN
GIÁO DỤC MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI, 2017
Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS PHẠM NGỌC ANH
Phản biện 1: PGS.TS HOÀNG ĐÌNH CÚC
Phản biện 2: PGS.TS NGUYỄN THỊ THỌ
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học Viện Khoa học Xã hội vào lúc: 15 giờ, ngày 7 tháng 11
năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Thư viên Học viện Khoa học Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn ngày càng chứng minh, cùng với chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, dẫn đường cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn tám mươi năm qua, là
tài sản to lớn của Đảng và dân tộc ta. Bởi vậy, nghiên cứu, học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, khoa học là nhiệm vụ cấp thiết
của Đảng và toàn dân, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới hiện nay,
nhằm mục đích nâng cao trình độ lý luận, trình độ lãnh đạo.
Đối với Đảng và thực tiễn cách mạng nước ta, kiên trì, vận
dụng, sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một. Mọi chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước ta đều dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trong thực tiễn đấu
tranh cách mạng, có tác động to lớn đến đến công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước, góp phần cổ vũ các dân tộc trên toàn thế giới đấu
tranh vì những mục tiêu cao cả, vì một xã hội độc lập, văn minh, tiến
bộ.
Tổng hợp những lý do trên, tác giả nhận thấy việc nghiên
cứu, giáo dục, học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường Đại
học Sư phạm - Trường sư phạm đứng đầu cả nước, cái nôi đào tạo ra
đội ngũ giáo viên chất lượng cao cho đất nước, để đáp ứng được “làm
thế nào để nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là
trường mô phạm của cả nước” (Hồ Chí Minh,1964) là vô cùng cần
thiết và hữu ích, liên quan trực tiếp đến việc kiên định con đường và
nền tảng tư tưởng của Đảng, cách mạng nước ta. Đây sẽ trở thành
kênh tuyên truyền góp phần phổ cập lý luận chính trị, đường lối của
Đảng cho các nhà giáo tương lai nhằm khẳng định, bảo vệ và phát
triển nền tảng tư tưởng chung của toàn xã hội. Chính vì vậy, tác giả
1
chọn đề tài “Phương pháp giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp khóa học cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới
Marzano Robert (GT. TS. Nguyễn Hữu Châu dịch, 2015),
Nghệ thuật và khoa học dạy học, Nxb Giáo dục Việt Nam. Luận cứ
toàn diện về dạy học hiệu quả.
Tsuboi Yoshiharu (2008), Một góc nhìn khác, Hội thảo Quốc
tế về Việt Nam học lần thứ 3.
Tại Việt Nam
PGS.TS Vũ Hồng Tiến (2015), Một số phương pháp dạy học
tích cực, www.tailieu.vn. Bài viết tập trung làm rõ bản chất của
phương pháp dạy học tích cực, vai trò và nội dung cơ bản của một số
phương pháp dạy học tích cực.
Nguyễn Thị Minh Phương (2015), Cẩm nang phương pháp
Sư phạm, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách đưa
ra các chỉ dẫn thiết thực, dễ hiểu và dễ áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng giáo
dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà
Nội trong điều kiện hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp áp dụng các
phương pháp dạy học nâng cao chất lượng môn học.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các lý luận về phương pháp dạy học môn tư tưởng
Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng dạy học môn tư tưởng Hồ Chí
Minh, các yếu tố tác động đến công tác dạy học môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện
hiện nay;
2
- Phân tích, đánh giá thực trạng dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
Từ đó, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực
trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong
điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các phương pháp dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
Luận văn tập trung làm rõ những nội dung sau:
Tình hình giáo dục môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh
viên trường Đại học sư phạm Hà Nội. Các phương pháp dạy học
đang được áp dụng trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong những năm gần đây
Về không gian:
Nghiên cứu, khảo sát, phỏng vấn tại trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội trong thời gian 5 năm trở lại đây (2012 – 2017)
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Về mặt phương pháp luận
Phương pháp dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh được xây
dựng trên cơ sở thế giới quan của chủ nghĩa vô sản. Điều này thể hiện
tính đảng, nội dung chủ yếu xoay quanh chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong luận văn của tác giả có sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
+ Phương pháp thu thập tài liệu
3
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp xử lý và phân tích
+ Điều tra, khảo sát bằng cách phát phiếu điều tra, đưa bảng
câu hỏi.
Đối tượng được điều tra gồm có các giảng viên hiện đang
giảng dạy và các sinh viên đang học tập tại trường.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa về mặt khoa học
Đề tài luận văn góp phần cụ thể hóa lý thuyết phương pháp
dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội
trong điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 2 chương
4
Chương 1
GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội có viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi”. [16].
1.2. Tổng quan trường Đại học Sư phạm Hà Nội
1.2.1. Vị trí, vai trò của nhà trường
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chính thức được thành lập
ngày 11/10/1951 theo Nghị định của Bộ Quốc gia Giáo dục. Song
quá trình hình thành và phát triển của Nhà trường lại được bắt đầu từ
một sự kiện quan trọng, đó là ngày 10 tháng 10 năm 1945, tức là chỉ
hơn một tháng sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
thành lập Ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội, trong đó nhiệm vụ đầu
tiên là đào tạo giáo viên Văn khoa Trung học. Một một năm sau đó,
ngày 8 tháng 10 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra Sắc lệnh số 194/SL thành lập ngành học Sư phạm, đào
tạo giáo viên cho các bậc học cơ bản, trung học phổ thông, trung học
chuyên khoa, thực nghiệm và chuyên nghiệp trong toàn quốc.
1.2.2. Đặc điểm của sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội
5
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý
nổi bật, chịu sự chi phối của hoạt động chủ đạo.
Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao đẳng, đại học
sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của
mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề
nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và
thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực
tập nghề hay nghiên cứu khoa học.
Bên cạnh những đặc điểm về độ tuổi, trình độ, tâm sinh lý
giống như đội ngũ SV các trường ĐH, CĐ khác thì chất sư phạm là
nét đặc thù của SV ĐHSP HN. Vị trí và ý nghĩa của việc giáo dục
môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội
1.2.3. Vị trí của việc giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh
viên Đại học Sư phạm Hà Nội
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo đến
thế hệ trẻ, trong đó sinh viên là những “người lao động trí óc trẻ”
được Bác chú trọng nhiều.
Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở thế giới quan
khoa học sẽ giúp sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội ra sức phấn đấu,
hướng mọi suy nghĩ và hành động vào việc vận dụng, thực hiện các
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó là ý
nghĩa to lớn của của việc dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội.
Môn tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giáo dục ý thức đạo đức,
lối sống cho sinh viên, xây dựng quan hệ đạo đức mới, xác lập lối
sống tiến bộ trong cộng đồng sinh viên. Có ý nghĩa nền tảng hết sức
căn bản, trang bị những tri thức, lý luận cơ bản để hình thành cốt lõi
tư tưởng chính trị của sinh viên.
1.2.4. ý nghĩa của việc giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội
6
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp mỗi người nâng cao năng
lực tư duy lý luận và phương pháp công tác trong thời đại
ngày nay.
Giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.3. Mục tiêu dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên
Đại học Sư phạm Hà Nội
1.3.1. Về kiến thức
- Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của Tư tưởng
Hồ Chí Minh
- Đối tượng, nhiệm vụ và ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về: Dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc.
- Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong công
cuộc đổi mới đất nước.
1.3.2. Về kĩ năng
Biết tiếp cận, phân tích, phân loại, đánh giá những tài liệu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tác phẩm viết về Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tư tương Hồ Chí Minh thông qua các tác phẩm.
Có khả năng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc
đổi mới của nước ta hiện nay
1.3.3. Về thái độ
Tóm lại, mục tiêu của việc giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm giúp sinh viên nắm được nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tế của Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
7
Qua nội dung chương 1 tác giả đã giải thích các thuật ngữ,
khái niệm liên quan đến giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho SV
ĐHSP HN. Khái quát về địa bàn nghiên cứu – Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội. Vị trí, vai trò và ý nghĩa của môn học đốii với sinh
viên ĐHSP HN như thế nào? Mục tiêu dạy học môn tư tưởng Hồ Chí
Minh cho SV ĐHSP HN ra sao? Tất cả những nội dung trên đã được
tác giả làm rõ tại chương 1 của công trình nghiên cứu.
Để đạt được kết quả mong muốn trong công tác giáo dục
môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho SV ĐHSP HN cần xác định mục tiêu
về kiến thức, về kĩ năng và về thái độ cho SV ĐHSP HN
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC MÔN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN ĐHSP HN TRONG ĐIỀU
KIỆN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chi Minh cho SV
ĐHSP HN trong điều kiện hiện nay
2.1.1. Tình hình tư tưởng của SV ĐHSP HN đối với môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh
Kết quả khảo sát cho thấy đa số Sinh viên đều có thái độ hợp
tác với nhà trường trong công tác học tập môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Từ đó xây dựng lập trường chính trị vững vàng, có lòng tin
mạnh mẽ vào tư tưởng Hồ Chí Minh, vào các Đường lối của Đảng,
Nhà nước.
Trả lời câu hỏi: “Bạn có thấy hứng thú với với các tiết học
môn tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các phong trào, chương trình
nhằm giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh của nhà trường không?” đối
với một môn học mới, môn khoa học đặc biệt, môn học chung thì kết
quả 56/112 phiếu sinh viên trả lời “rất hứng thú” và 28/112 phiếu
sinh viên trả lời “hứng thú” là một kết quả khá khả quan. Đồng thời
8
khi trả lời câu hỏi “Theo bạn, môn học tư tưởng Hồ Chí Minh có vai
trò quan trọng thế nào đối với SV ĐHSP HN nói riêng, SV cả nước
nói chung?” 89/112
2.1.2. Tình hình hoạt động thực tiễn của công tác giáo dục môn tư
tưởng Hồ Chí Minh cho SV ĐHSP HN.
Thứ nhất, vai trò của đội ngũ giảng viên tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Thứ hai, vai trò của các đoàn thể.
Như vậy, đa số sinh viên đều nhận thức được vai trò và ý
nghĩa của những hoạt động do nhà trường tổ chức mang lại cho họ.
Tuy nhiên, các hoạt động này chưa thực chuyên nghiệp, nội dung
chưa thực lôi cuốn sinh viên nên vẫn tồn tại những SV không mấy
hứng thú với các hoạt động này.
2.2. Nội dung và hình thức công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh cho SV ĐHSP HN trong điều kiện hiện nay
2.2.1. Giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua giảng dạy
Phương pháp thuyết trình
Là phương pháp dụng người dạy sử dụng lời nói để trình bày,
thuyết minh, khai thác, phân tích một nội dung lí luận nào đó. Thuyết
trình nhằm mục đích: Truyền đạt kiến thức, thông báo, hoặc thuyết lý
một nội dung khoa học.
Thứ nhất: Dễ bị nhàm chán nếu người dạy giảng không tốt.
Thứ hai: Mất nhiều thời gian, thậm chí không đủ thời gian để
thuyết trình các nội dung trong giáo trình.
Thứ ba: Tạo cho người học thói quen tiếp thu kiến thức một
cách thụ động, trông chờ sự thuyết trình, giảng giải của người dạy mà
không tự chủ động học tập, nghiên cứu kiến thức, dẫn đến trì trệ tư
duy, phong cách làm việc không sang tạo. Đây là hạn chế lớn nhất
của phương pháp thuyết trình.
Phương pháp hỏi đáp
9
Phương pháp hỏi đáp là phương pháp trong đó giảng viên
(người dạy) đặt ra những câu hỏi để sinh viên (người học) trả lời,
hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả giảng viên, qua đó nội dung
bài học được sinh viên lĩnh hội.
Phương pháp nêu vấn đề
Ưu điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề:
Phương pháp nêu vấn đề có những nét cơ bản của sự tìm tòi
khoa học trong sinh viên nói chung, sinh viên ĐH SPHN nói riêng.
Phải tiến hành hoạt động trí tuệ, tự lực lĩnh hội tri thức mới bằng
cách giải quyết những vấn đề học tập. Nhờ vậy mà đảm bảo tính
vững chắc của tri thức.
Phương pháp làm việc nhóm
Ưu điểm của phương pháp hoạt động nhóm:
Cách tiến hành phương pháp dạy học bằng hoạt động nhóm:
Cấu tạo của một tiết học theo nhóm có thể như sau:
Làm việc chung cả lớp:
Thứ nhất, nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức
Thứ hai, tổ chức các nhóm giao nhiệm vụ
Thứ ba, hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
Làm việc theo nhóm:
Một là, trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm hoặc phân công
trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi.
Hai là, cử đại diện hoặc phân công đại diện trình bày kết quả
làm việc theo nhóm.
Ba là, thảo luận, tổng kết trước lớp. Các nhóm lần lượt báo
cáo kết quả, Cả lớp thảo luận chung. Giảng viên tổng kết, đặt vấn đề
cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài.
Trong phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ giảng
viên có thể tổ chức hoạt động nhóm theo những nhóm hình thành
nhất thời để giải quyết nhiệm vụ cụ thể, làm xong trong thời gian
10
ngắn (vài phút). Trong hoạt động ngoại khó, tập dượt nghiên cứu có
thể hình thành những nhóm hoạt động trong thời gian dài hơn, tương
ứng với nhiệm vụ.
Có các hình thức hoạt động nhóm sau:
Nhóm hợp tác theo nhiệm vụ
Ở hình thức này, mỗi nhóm nhận hoặc được phân công một
nhiệm vụ, các thành viên trong nhóm hợp lực giải quyết một nhiệm
vụ, hoàn thành một sản phẩm.
Ví dụ: Khi dạy bài: Qúa trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh, giảng viên chia lớp thành 5 nhóm, mỗi nhóm
tìm hiểu nội dung của một thời kì hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Nhóm 1: Thời kì hình thành và phát triển tư tưởng yêu nước.
thương nòi (trước năm 1911)
Nhóm 2: Thời kì tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc (1911 – 1921)
Nhóm 3: Thời kì hình thành cơ bản tư tưởng cách mạng Việt
Nam (1921 – 1930)
Nhóm 4: Thời kì thử thách kiên trì giữ vững quan điểm, nêu
cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930 1945)
Nhóm 5: Thời kì tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng
chiến và kiến quốc (1945 – 1969)
Sau khi các nhóm trao đổi, thảo luận xong, giảng viên lần
lượt mời các nhóm cử đại diện trình bày kết quả của nhóm.
Nhóm 1: Thời kì hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi
(trướ năm 1911):
Nhóm 1: Báo cáo, các nhóm khác, nhận xét, bổ sung.
Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh tiếp nhận truyền thống yêu
nước và nhân nghĩa độc lập. Hấp thụ vốn văn hóa Quốc học, Hán học
và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, chứng kiến cuộc sống
11
khổ cực, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của
cha anh, hình thành nên hoài bão cứu nước của mình. Giai đoạn này,
gia đình, nhà trường, quê hương là những nhân tố ảnh hưởng trực
tiếp tới sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.
Giảng viên nhận xét, bổ sung, kết luận vấn đề.
Nhóm 2: Thời kì tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc (1911 – 1920):
Nhóm 2 báo cáo, các nhóm khác nghe, nhận xét và bổ sung.
Đây là giai đoạn bôn ba tìm đường cứu nước của Hồ Chí
Minh. Trong giai đoạn này Người đã:
Một là, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, khảo
sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao
động chính quốc.
Giảng viên nhận xét, bổ sung, kết luận vấn đề.
Nhóm 3: Thời kì hình thành cơ bản về tư tưởng cách mjang
Việt Nam (1921 – 1930):
Nhóm 3 báo cáo, các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
Đây là thời kì Hồ Chí Minh hoạt động thực tiễn và lý luận
cực kì sôi nổi, phong phú để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Năm 1930 Người chủ trì Đại hội hợp nhất các tổ chức Cộng
sản trong nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo
ra các văn kiện “Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này cùng với 2 tác phẩm Người đã hoàn thành
và xuất bản trước đó là “Bản án chế độ Thực dân Pháp” (1925) và
“Đường cách mệnh” (1927) đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam.
Giảng viên nhận xét, bổ sung, kết luận vấn đề.
12
Nhóm 4: Thời kì thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu
cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930 – 1945).
Nhóm 4 báo cáo, các nhóm khác nhận xét bổ sung.
Do không nắm được tình hình thực tế các nước thuộc địa ở
phương đông và Việt Nam, lại bị chi phốiquan điểm “Tả khuynh” lúc
bấy giờ, Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối Hồ Chí
Minh vạch ra ttong hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cách mạng thành lập
Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Cách mạng Việt Nam và Cách mạng thế giới đã chứng minh
giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Giảng viên nhận xét, bổ sung (nếu cần thiết), kết luận vấn đề.
Nhóm 5: Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng
chiến và kiến quốc(1945-1969).
Nhóm 5 báo cáo, các nhóm khác nhận xét bổ sung (nếu cần
thiết).
Sau khi dành được chính quyền (sau Cách mạng tháng tám
năm 1945), Đảng và nhân dân ta đã tIến hành hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ, vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
+ Thời kỳ này, tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển
mới, trong đó nổi bật các nội dung sau:
Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài
dựa vào sức mình là chính.
Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
Giảng viên nhận xét, bổ sung (nếu cần thiết), kết luận vấn đề.
Nhóm thi đua hoàn thành nhiệm vụ
Các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ giống nhau, tổ chức
thi đua xem nhóm nào hoàn thành sớm nhất, chất lượng tốt nhất.
Phương pháp Serminar
13
Seminar là một hình thức tổ chức dạy học thường được sử
dụng ở đại học, cao đẳng, trong đó sinh viên thảo luận các vấn đề
khoa học đã tự tìm hiểu được, dưới sự hướng dẫn của giáo viên bộ
môn
Ưu điểm của phương pháp seminar:
Nếu trong bài diễn giải, giảng viên phải hoạt động nhiều thì
trong seminar tính năng động của sinh viên nói chung, sinh viên sư
phạm nói riêng được phát huy. Ở đây, người học được tập dượt
nghiên cứu tài liệu một cách khoa học, biết phân tích phê phán những
kiến thức khác nhau trước một chủ đề nêu ra, biết lập luận để bảo vệ
ý kiến của mình trước tập thể, có dịp suy nghĩ về một vấn đề dưới
nhiều góc độ, làm nảy sinh các thắc mắc.
Những yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp seminar:
Để nâng cao chất lượng seminar, cần rèn luyện cho sinh viên nói
chung, sinh viên sư phạm nói riêng các kỹ năng như: ghi chép bài
diễn giảng, tìm đọc, tra cứu các tài liệu tham khảo, thu thập các
nguồn tài liệu khác nhau về cùng một vấn đề…
Các hình thức tiến hành seminar:
Nhóm rì rầm (buzz group): trao đổi nhỏ theo từng cặp (2
người ngồi cạnh nhau) về một vấn đề nêu ra trước khi chia sẻ ý kiến
trong lớp
Ví dụ: tiến hành thảo luận chương II: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
Giảng viên nêu vấn đề: Tại sao nói tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc vừa mang tính cách mạng, khoa học, vừa mang tính nhân văn
sâu sắc?
Giảng viên chia nhóm: 2 sinh viên ngồi cạnh nhau, trao đổi
nhỏ
14
Sau khi sinh viên trao đổi xong, giảng viên mời một sinh
viên báo cáo kết quả, các sinh viên khác lắng nghe rồi nhận xét bổ
sung (nếu cần thiết)
Giảng viên: nhận xét bổ sung (nếu cần thiết), kết luận vấn đề
Phương pháp mô hình hóa
Mỗi bài giảng được lược hóa theo mô hình thực chất là “Trực
quan sinh động” của quá trình tư duy như V.I.Lênin đã khái quát.
Trực quan sinh động có vai trò rất lớn trong việc giúp sinh
viên nhớ kĩ, hiểu sâu những kiến thức của bài học, phát hiện ở sinh
viên khả năng quan sát, trí tưởng tượng, xúc cảm, thẩm mỹ đối với
sinh viên. Đặc biệt đối với sinh viên nói chung, sinh viên sư phạm
nói riêng, trình độ khái quát chưa đạt yêu cầu, nhận thức chưa nhanh,
nên việc sử dụng phương pháp mô hình hóa lại càng quan trọng;
Toàn bộ chương trình môn học Tư tưởng Hồ chí Minh có thể tóm
lược trong một sơ đồ chung để sinh viên có cách nhìn tổng thể, song
khi mới học đa số sinh viên chưa nắm được. Học hết chương trình ta
giới thiệu lại sơ đồ, sinh viên dễ nhớ, dễ hiểu. Trong mỗi chương
hoặc mỗi phần của chương cũng vậy
Phương pháp liên hệ thực tiễn
Phương pháp liên hệ thực tiễn, gắn liền lí luận với thực tiễn,
đưa lí luận trở về với thực tiễn, ứng dụng trong thực tiễn và nâng
thực tiễn lên trình độ tư tưởng, lí luận. Tác dụng và hiệu quả của
phương pháp này phụ thuộc vào năng lực lí luận và sự hiểu biết thực
tiễn của thầy, từ thầy tới trò và ngược lại. Nó còn đòi hỏi nghệ thuật
sử dụng phương pháp sao cho linh hoạt, đúng lúc, đúng chỗ, không
miễn cưỡng, giả tạo, không chiếu lệ, hình thức. Với đặc điểm trên,
phương pháp liên hệ thực tiễn sẽ giúp cho sinh viên nói chung, sinh
viên sư phạm nói riêng hiểu rõ, sâu sắc các luận điểm của Hồ Chí
Minh
15
Phương pháp tự học, tự nghiên cứu
Phương pháp tự học, tự nghiên cứu là phương pháp dạy học
mới, hiện đại rất được khuyến khích sử dụng trong công tác dạy học
những năm gần đây. Phương pháp tự học tự nghiên cứu đã chuyển
việc truyền đạt tri thức từ việc truyền đạt thụ động, thầy giảng, trò
nghe sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp
cận tri thức,dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận
thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân tích, tổng hợp, phát
triển được năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động, tính
tự chủ của học sinh, sinh viên,trong quá trình học tập, hoạt động tự
quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội.
- Định hướng trong học tập và nghiên cứu
Tự xây dựng kế hoạch học tập
Tự thực hiện kế hoạch học tập
- Tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập
Giải pháp:
2.2.2. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Sư
Phạm Hà Nội thông qua các hoạt động trực quan
Các hoạt động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, các cuộc thi “tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh”, các hoạt
động văn nghệ, thể thao “hát mãi tên Người” “học tập gương rèn
luyện thân thể của Bác Hồ”, các hoạt động tuyên truyền bằng văn
bản, tin bài... được tổ chức thường xuyên. Các hoạt động giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh được Ban giám hiệu trường ĐHSP HN triển khai
với nhiều nội dung, hình thức đa dạng, có sức lan tỏa đến SV.
Các hoạt động trực quan nhằm giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh cho SV ĐHSP HN góp phần giáo dục, tuyên truyền tư tưởng
Hồ Chí Minh cho SV ĐHSP HN trong điều kiện CNH – HĐH hiện
nay, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý thức chính trị, nhận thức của SV
đối với Bác, với Đảng và với chế độ XHCN.
16
2.3. Một số nhân tố tác động đến giáo dục môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh cho Sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong thời đại
ngày nay.
2.3.1. Sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội trong nước
Những yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến các trường đại
học của đất nước nói chung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nói
riêng trong công tác giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh
viên chính là những yếu tố khách quan bên ngoài nhà trường, là biểu
hiện cho mối liên hệ giữa nhà trường và đời sống xã hội.
2.3.2. Sự tác động của yếu tố thời đại
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, chúng ta được chứng
kiến sự biến động mạnh mẽ của thế giới trong xu thế toàn cầu hoá.
Trong quá trình phát triển, tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới
đều không thể tự tách mình ra khỏi xu thế chung đó. Sự hội nhập
quốc tế của mỗi quốc gia ngày càng toàn diện, sâu sắc và diễn ra
mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực.
Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta phải hết sức cảnh
giác, tận dụng tối đa các cơ hội thuận lợi do hội nhập quốc tế mang
lại để phát triển đất nước, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, loại trừ
những tệ nạn xã hội, những ảnh hưởng tiêu cực nảy sinh trong quá
trình hội nhập. Chú trọng hơn nữa công tác giáo dục bộ môn tư tưởng
Hồ Chí Minh nói riêng và các môn khoa học chính trị nói chung cho
sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
2.3.3. Sự tác động của đội ngũ giảng viên
Với vai trò là chủ thể trực tiếp trong quá trình giảng dạy,
giảng viên môn tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố cơ bản quyết định
đến chất lượng và hiệu quả của quá trình giảng dạy môn tư tưởng Hồ
Chí Minh. Thông qua hoạt động giảng dạy của giảng viên, tác động
đến tư tưởng, tình cảm, cuốn hút sinh viên say mê học tập. Giảng
viên có trình độ chuyên môn, có tư cách đạo đức, lối sống trong sáng
17
sẽ có ảnh hưởng tích cực tới sinh viên. Khi giảng viên có năng lực,
trình độ, phương pháp sư phạm và nghệ thuật giao tiếp tốt sẽ làm cho
sinh viên hào hứng với bài giảng, tiếp nhận tri thức một cách chủ
động, củng cố niềm tin vào môn học, tạo động lực tinh thần vươn lên
trong cuộc sống với những hoài bão, mơ ước.
2.3.4. Sự tác động của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội
Trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội, các tổ chức chính trị
- xã hội như Đảng bộ, Chi bộ, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên... là
những thành viên trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo toàn diện
của Đảng bộ. Hoạt động của các tổ chức này có tác động mạnh mẽ
tới hiệu quả của việc giáo dục lý luận chính trị nói chung và tư tưởng
Hồ Chí Minh cho sinh viên, vừa với tư cách là yếu tố khách quan,
vừa với tư cách tham gia trực tiếp từ bên trong của hoạt động giáo
dục. Sự tác động của mỗi tổ chức diễn ra ở những mức độ khác nhau
tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ riêng của từng tổ chức.
2.3.5. Tính tích cực, chủ động tự giáo dục của sinh viên
Giáo dục bao giờ cũng là một quá trình hai mặt, một mặt là
sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng được giáo dục, mặt khác là
thông qua các tác động này, đối tượng tự biến đổi bản thân, tự hoàn
thiện mình. Quá trình này là đào tạo và tự đào tạo. Sinh viên với tư
cách là chủ thể của quá trình nhận thức, được giáo dục bởi nhà
trường và xã hội sẽ lĩnh hội những giá trị trong nội dung giáo dục lý
luận chính trị, biến nó thành nguyên tắc định hướng chi phối suy nghĩ
và hành động của chính mình, để tự hoàn thiện nhân cách sao cho
phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.
2.4. Các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội
2.4.1. Nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của công tác giáo dục
môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho SV ĐHSP HN trong điều kiện
hiện nay.
18
Công tác giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được Ban
giám hiệu trường ĐHSP HN quan tâm, chú trọng và trên thực tế thời
gian qua công tác đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, một
số bộ phận sinh viên vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của
việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh. Vẫn cho rằng đât là môn học
phụ, môn chung, không phục vụ công tác chuyên môn sau này. Chính
vì vậy, cần lưu ý vấn đề nâng cao tầm quan trọng của công tác giáo
dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần phải thừa nhận tính khoa học
của môn học, cần thừa nhận công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ là công việc sự vụ, mà nó còn có tính khoa học, là môn
môn khoa học đặc biệt. Nhấn mạnh việc học tập, tiếp thu giáo dục
môn tư tưởng Hồ Chí Minh có những lợi ích đối với cá nhân SV và
đối với đất nước nói chung.
2.4.2. Bồi dưỡng về nhận thức và chuyên môn cho đội ngũ giáo
viên
Chất lượng chuyên môn phục thuộc rất lớn vào yếu tố con
người. Trong chỉ thị 40/CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã chỉ thị rõ 7 nhiệm vụ nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
điều này cho thấy tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên. Người giáo viên có trình độ chuyên môn sâu, có kĩ
năng sư phạm mới có thể “cho ra lò” những sinh viên giỏi, ngược lại,
nếu giáo viên có chuyên môn yếu, không có kĩ năng truyền đạt sẽ gây
chán nản cho sinh viên, không kích thích được tinh thần học hỏi, tìm
tòi của sinh viên.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, tác giả nhận thấy
cần tăng cường tổ chức các lớp học, lớp tập huấn về ứng dụng
phương pháp dạy học, kĩ năng xử lý tình huống sư phạm, các lớp học
về tư tưởng Hồ Chí Minh. Thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh
19
nghiệm lẫn nhau qua các buổi hội giảng, thao giảng, tìm hiểu thực tế,
học hỏi từ tìm hiểu thực tế các trường khác.
2.4.3. Đổi mới Phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh là
điều cốt lõi để nâng cao chất lượng giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí
Minh cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, tạo nên sự khác biệt
đối với lối dạy học thụ động truyền thống. Sinh viên không chỉ là đối
tượng của dạy học mà còn là chủ thể của quá trình dạy học, các em
cần được tạo cơ hội để tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá
trình khám phá và lĩnh hội nội dung bài học.
2.4.4. Hoàn thiện hệ thống nội dung của công tác giáo dục môn tư
tưởng Hồ Chí Minh
Nội dung giáo trình môn tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện nội
dung chủ yếu của công tác giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Đa
số SV hiện nay tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua việc học tập
môn tư tưởng Hồ Chí Minh, tuy nhiên, còn số đông SV cho rằng nội
dung chương trình môn tư tưởng Hồ Chí Minh còn tồn tại nhiều vấn
đề, trong đó có vấn đề khô khan, cứng nhắc của giáo trình đã gây nên
sự không hứng thú cho sinh viên. Do đó, cải tiến và bổ sung nội dung
của công tác giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với
nhu cầu thực tiễn của SV ĐHSP HN nói riêng và SV cả nước nói
chung là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn mới này.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, tác giả đã làm rõ những thực trạng và
nguyên nhân giáo dục môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên đại
học Sư phạm trong điều kiện hiện nay. Trong dạy học ở trường
ĐHSP HN nói chung và bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng,
việc phát huy tính tích cực của sinh viên có ý nghĩa vô cùng to lớn
đối với việc giáo dục môn học. Nó giúp cho SV năm chắc nội dung
20
bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào đời sống. Góp phần giúp cho bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh
hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục của mình, ngày càng nâng cao
được chất lượng giảng dạy và học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại
trường ĐHSP HN.
Các phương pháp dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh rất đa
dạng như phương pháp thuyết trình, phương pháp mô hình hóa,
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp sermina, phương pháp làm
việc nhóm, phương pháp hỏi đáp… Tuy nhiên, muốn đạt được kết
quả giáo dục cao nhất đòi hỏi người dạy phải kết hợp những phương
pháp phù hợp, hấp dẫn, sinh động, lôi cuốn sinh viên, nhằm phát huy
tính tích cực học tập, nghiên cứu của sinh viên. Để thực hiện kết hợp
các phương pháp dạy học nhuần nhuyễn, hiệu quả trong giảng dạy
môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho SV ĐHSP HN đòi hỏi người giảng
viên môn Tư tưởng Hồ Chí Minh phải không ngừng nghiên cứu để
nâng cao chuyên môn. Đồng thời, giảng viên phải nắm chắc lí luận
dạy học bộ môn, luôn luôn rèn luyện kĩ năng Sư phạm môn tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đặc biệt để phát huy tính tích cực học tập bộ môn tư
tưởng Hồ Chí Minh sẽ đem đến sự thành công trong việc nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một môn khoa học vừa đòi hỏi tính
lịch sử cao lại vừa mang tính thời sự xuyên suốt chiều dài phát triển
trong mọi thời đại của dân tộc.
Với những nguyên nhân tác động trực tiếp và gián tiếp tới
tình hình tiếp cận bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh cùng thực trạng
giáo dục môn học này tại trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, ta có thể
đưa ra các giải pháp giúp cho việc giảng dạy và lĩnh hội kiến thức
môn học một cách tốt nhất. Đó là tổ hợp các giải pháp ở mọi khía
cạnh như: Tăng cường về điều kiện cơ sở vật chất phục vụ việc dạy
và học, bồi dưỡng nhận thức và chuyên môn cho đội ngũ giáo viên,
21
đổi mới phương pháp dạy học. Đầu tiên, phải tạo được môi trường
học tập tốt nhất. Bên cạnh những mục không thể thiếu như giáo trình
thì nhà trường cần bổ sung thêm nhiều đầu sách, tủ sách về Tư tưởng
Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh… Mặt khác, yếu tố đội ngũ
giảng dạy cũng là nhân tố vô cùng quan trọng quyết định tới tính
thành bại của môn học. Do đó, thầy cô - những người gieo chữ, giảng
dạy về môn Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn giữ tâm thế giáo dục
tốt, biết trau dồi kiến thức cho bản thân để bổ sung và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp và phát triển trong thời đại mới. Ngoài
ra, cần đặc biệt nhất mạnh tới phương pháp giảng dạy môn học. Bới
lẽ, người giáo viên có cách truyền đạt tốt mới có thể tạo điểm tựa
vững vàng cho người học lĩnh hội và phát huy vốn kiến thức ở trình
độ cao hơn. Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm
vụ, giải pháp cấp bách trong giáo dục nói chung và trong giảng dạy
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Đại học Sư Phạm Hà Nội nói
riêng. Mỗi giáo viên, giảng viên hãy là những “Chú ong thợ” cần
mẫn và sáng tạo để tạo nên những thế hệ học sinh ưu tú, vững bước
noi theo con đường, tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người lãnh
tụ vĩ đại.
22
KẾT LUẬN
Đất nước ta hiện nay đang đẩy mạnh mục tiêu Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa
đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến
năm 2020 đất nước ta cơ bản trở thành một nước Công nghiệp hóa
theo hướng hiện đại. Đây là một cuộc cách mạng đổi mới đất nước
dài hơi và còn nhiều khó khăn. Để công cuộc đổi mới này thành công
cần phải phát triển tổng hợp các nguồn lực trong đó có nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò then chốt quan trọng, là gốc rễ trong
việc hình thành lên con người cách mạng, vì nước, vì dân.
Sinh viên cả nước nói chung và sinh viên Đại học Sư phạm
Hà Nội nói riêng là lực lượng tri thức năm giữ vận mệnh đất nước,
những chủ nhân tương lai của đất nước, Đặc biệt là sinh viên Đại học
Sư phạm Hà Nội tương lai sẽ tham gia vào sự nghiệp “trồng người” –
một trong những nghề cao quý, đặc biệt hơn những nghề cao quý
khác. Để xứng đáng với danh hiệu “nghề cao quý” đó đỏi hỏi sinh
viên Đại học Sư phạm Hà Nội không chỉ giỏi về chuyên môn, vững
về nghiệp vụ mà còn đòi hỏi những thầy, cô giáo tương lai có phẩm
chất đạo đức tốt đẹp phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Có bản lĩnh chính trị vững vàng. Thực hiện tốt những đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị, nhận thức về nhân sinh quan – thế giới quan của mỗi sinh
viên được đào tạo trong nhiều môi trường, nhiều hoàn cảnh trong đó
môi trường đại học là chủ yếu thông qua những tiết học về môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Không thể phủ nhận trong những năm gần đây,
việc học về Bác, về tư tưởng của Bác đã hình thành cho sinh viên Đại
học Sư phạm Hà Nội lập trường chính trị vững vàng, những phẩm
chất đạo đức tốt đẹp, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất
nước. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những sinh viên có cái nhìn chưa
23