Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận dân sự BLDS 2015 chế định tài sản PLVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.62 KB, 20 trang )

Đề tài số 14: Tài sản theo quy định của pháp luật dân
sự Việt Nam hiện hành.

Lời mở đầu
Ngày nay, trong mọi lĩnh vực của đời sống, trong các hoạt động kinh tế- xã
hội, tài sản nói chung và các điều kiện vật chất, tiền bạc nói riêng đóng một vai trò
cần thiết, đặc biệt quan trọng. Ở Việt Nam, khái niệm về tài sản được hiểu theo hai
nghĩa. Nghĩa thứ nhất, tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc
tiêu dùng, đây là cách hiểu thông thường. Nghĩa thứ hai, trong lĩnh vực pháp lí,
theo Điều 105-Bộ luật Dân Sự 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động sản, bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Chế định tài sản trong Bộ
luật Dân Sự 2015 đã có những điểm thay đổi, điểm khác đáng kể so với Bộ luật cũ,
điều này nhằm: “Bảo đảm nguyên tắc Bộ luật Dân Sự là Bộ luật nền, có vị trí, vai
trò là luật chung của hệ thống pháp luật tư, theo đó Bộ luật dân sự quy định các
vấn đề có tính nguyên tắc, các luật chuyên ngành quy định về các vấn đề có tính
chuyên ngành”1. Vậy pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành quy định về chế định tài
sản như thế nào?


Giải quyết vấn đề
I.

Một số vấn đề lí luận chung về tài sản theo quy định của pháp luật
dân sự Việt Nam hiện hành:

1.1.

Khái niệm về tài sản, việc đăng kí tài sản:

Theo điều 105-Bộ luật Dân sự 2015, “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài


sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản, bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Điều 106-Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đăng kí tài sản: “1. Quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản là bất động sản được đăng kí theo quy định của Bộ luật
này và pháp luật về đăng kí tài sản. 2. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là
động sản không phải đăng kí, trừ trường hợp pháp luật về đăng kí tài sản có quy
định khác. 3. Việc đăng kí tài sản phải được công khai”.
1.2.

Ý nghĩa của khái niệm tài sản trong Bộ luật Dân sự 2015:

So với Bộ luật Dân sự 2005 (điều 163 và điều 320), Bộ luật Dân sự 2015 (điều
105) đã thêm nhiều quy định mới, mặt khác, các điều, khoản, nội dung điều khoản
được quy định rõ ràng, đảm bảo tính bao quát, minh bạch hơn về các tài sản trong
giao dịch dân sự, thuận tiện trong công tác pháp lí, thêm nữa, giúp huy động được


hết nguồn tài sản trong xã hội giúp cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
trên nền tảng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bảo đảm diễn ra
với điều kiện tốt nhất.
II.
2.1.

Tài sản theo quy định của pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành:
Vật:

Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan, con người có thể cảm
nhận được bằng các giác quan của mình. Tuy nhiên, với lĩnh vực pháp lí, vật chỉ có
ý nghĩa khi nó là đối tượng trong quan hệ pháp luật, cụ thể là đối tượng trong quan
hệ pháp luật dân sự. Con người phải chiếm hữu, chi phối, kiểm soát được vật để

đáp ứng lợi ích (nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần) của con người. Ngoài ra, vật
có thể là đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.
Ví dụ: Vỏ sò, vỏ ốc ở biển thì chưa thể coi là vật trong dân sự vì chưa thể
giao dịch được, mặt khác, ai thích nhặt thì nhặt. Tuy nhiên, khi người ta nhặt nhiều,
có chọn lọc đẹp đẽ cẩn thận, xâu lại thành một chuỗi vòng đem bán, tức là khi đó
người ta chiếm hữu, chi phối nó thì có thể đưa vào giao dịch dân sự, phục vụ lợi
ích, được coi là vật trong quan hệ pháp luật dân sự.
Tài sản là vật là loại tài sản phổ biến nhất, nhiều nhất trong các cuộc giao
dịch dân sự. Vật trong tự nhiên tồn tại ở nhiều dạng khác nhau. Dựa trên thuộc tính
tự nhiên và thuộc tính xã hội, ý nghĩa pháp lí của vật, ta có thể phân loại vật như
sau:
2.1.1.

Vật chính và vật phụ:

Điều 110- Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “1. Vật chính là vật độc lập, có thể khai
thác công dụng theo tính năng. 2. Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai
thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính, nhưng có thể tách rời


vật chính. 3.Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật chính thì phải chuyển giao cả
vật phụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Ví dụ: Bút (có ruột viết) là vật chính, nắp bút là vật phụ; lốp xe đang sử
dụng là vật chính, lốp để trong cốp là vật phụ; máy quay phim là vật chính, bao
đựng máy quay là vật phụ…
Như vậy, nếu thiếu vật phụ, vật chính vẫn có thể đảm bảo sử dụng đúng tính năng,
chức năng; nếu thiếu vật chính, vật phụ không còn thực hiện đúng tính năng, chức
năng vốn có của mình. Việc phân loại vật chính, vật phụ giúp có ý nghĩa giúp xác
định đúng nghĩa vụ giao vật trong quá trình chuyển giao.
2.1.2.


Vật chia được và vật không chia được:

Điều 111-Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “1. Vật chia được là vật khi bị phân chia
vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. 2. Vật không chia được là
vật khi bị phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban
đầu. Khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá thành tiền để chia”.
Ví dụ: -Vật chia được: chiếc bánh, xăng dầu,…
-Vật không chia được: cái bàn, máy vi tính, xe máy…
Vật chia được và vật không chia được có điểm khác nhau cơ bản nhất là vật chia
được khi bị phân chia vẫn sử dụng được theo đúng tính năng của nó, còn vật không
chia được khi bị chia ra sẽ làm mất đi tính năng vốn có, không sử dụng được đúng
với tính năng ban đầu của nó. Việc phân chia thành vật chia được và vật không
chia được giúp xác định giá trị sử dụng của vật khi được chia ra thành nhiều phần,
để phục vụ cho việc phân chia tài sản giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân
sự.
2.1.3.

Vật tiêu hao và vật không tiêu hao:


Điều 112- Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “1. Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần
sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng
ban đầu. Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng
cho mượn. 2. Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản
vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu”.
Ví dụ: -Vật tiêu hao: sơn, vôi, cát, sỏi, rau củ quả,...
-Vật không tiêu hao: nhà , xe cộ, máy tính,...
Việc phân loại thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao giúp ta xác định được tính
năng sử dụng, tính chất, hình dáng của vật, tức là đặc tính và giá trị của tài sản là

vật sau khi sử dụng.
2.1.4.

Vật cùng loại và vật đặc định:

Điều 113- Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “1. Vật cùng loại là những vật có cùng
hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo
lường. Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau. 2. Vật đặc định
là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về kí hiệu, hình
dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật
đặc định thì phải chuyển giao đúng vật đó”.
Với vật đặc định, người ta còn chia thành vật đặc định độc nhất và vật đặc định
hóa. Vật đặc định độc nhất là vật chỉ tồn tại duy nhất không có vật nào khác thay
thế được. Vật đặc định hóa là vật được tách ra từ vật cùng loại, được đặt những kí
hiệu, dấu hiệu riêng để không bị nhầm lẫn với những vật cùng loại khác.
Ví dụ: -Vật cùng loại: xăng dầu đo bằng lít, thóc gạo đo bằng kg,…


-Vật đặc định: độc nhất: các đồ vật cổ quý hiếm, di tích lịch sử…; đặc
định hóa: các loại phương tiện giao thông có biển số riêng, các sách trên giá sách
được phân loại theo các tiêu chí, phân loại thực phẩm trong siêu thị…
2.1.5.

Vật đồng bộ:

Điều 114- Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “ Vật đồng bộ là vật gồm các phần hoặc
các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau hợp thành chỉnh thể mà nếu thiếu một trong
các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc bộ phận không đúng quy cách, chủng loại
thì không sử dụng được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bị giảm sút. Khi thực hiện
nghĩa vụ chuyển giao vật đồng bộ thì phải chuyển giao toàn bộ các phần hoặc các

bộ phận hợp thành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Ví dụ: Bộ bàn ghế, bộ dàn máy vi tính ( màn hình, ổ cứng, chuột, bàn phím),
điều hòa-điều khiển điều hòa,...
Có thể nói, vật đồng bộ là đối tượng thống nhất trong giao dịch dân sự. Vậy nên,
khi thực hiện chuyển giao, phải chuyển giao đầy đủ các bộ phận của vật đồng bộ
mới đảm bảo tính sử dụng tối ưu.
2.2.

Tiền:

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt, là
vật ngang giá chung thống nhất, được sử dụng làm thước đo giá trị cho các loại tài
sản khác. Ở đây, cụ thể là đồng tiền Việt Nam Đồng, do nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam độc quyền phát hành. Đồng Việt Nam Đồng được xác định số
lượng thông qua mệnh giá trên bề mặt tiền: ...500đ, 1000đ, 2000đ, 5000đ, 10000đ,
20000đ, 50000đ, 100000đ, 200000đ, 500000đ do đó nó có giá trị trao đổi, giá trị sử
dụng ổn định, và có giá trị trên lãnh thổ Việt Nam. Thêm nữa, tiền đem lại các
công dụng hữu ích trong cuộc sống: trao đổi, kinh doanh, tiêu dùng; dự trữ; bình
ổn giá; chủ quyền quốc gia.


So với vật, tiền có một số điểm khác sau: vật có thể do nhiều chủ thế khác tạo ra,
còn tiền thì chỉ độc quyền nhà nước được ban hành; vật được xác định bằng đơn vị
đo lường thông dụng: cm, m, cái, kg,….còn tiền được xác định bằng mệnh giá của
nó; đối với chủ sở hữu vật thì được phép tiêu hủy, còn đối với tiền thì không.
Tuy nhiên, tiền với ý nghĩa pháp lí là tài sản không thể chỉ hiểu theo nghĩa đơn
thuần là nội tệ (đồng Việt Nam Đồng), mà còn có cả ngoại tệ. Ngoại tệ là đồng tiền
nước ngoài hoặc đồng tiền chung của một nhóm nước, là một bộ phận của ngoại
hối (ngoại hối là một thuật ngữ dùng để chỉ các phương tiện sử dụng trong giao
dịch quốc tế). Mặc dù, trong một quốc gia, ngoại tệ là một loại tài sản bị hạn chế

lưu thông chứ không rộng rãi như nội tệ.
Ví dụ: Có thể thấy rất rõ, trong giao dịch dân sự hằng ngày, tiền Việt Nam
Đồng chủ yếu được lưu thông, từ giao dịch nhỏ phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày tới những bản hợp đồng đều là giao địch qua đồng Việt Nam Đồng. Số ít chủ
thể lưu thông ngoại tệ: ngân hàng, tổ chức tín dụng,…hay một số ít khách nước
ngoài đem đồng tiền nước họ đi giao dịch ở một số tổ chức như ngân hàng, tiệm
vàng… Do đó, ta thấy rất rõ vai trò của loại tài sản tiền tệ này.
2.3.

Giấy tờ có giá:

Ngày nay, giấy tờ có giá thuộc loại tài sản giao dịch rất phổ biến trong giao dịch
dân sự, đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Theo Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, “giấy tờ có giá là
bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với
người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều kiện khác”. Giấy tờ có giá là giấy minh chứng cho quyền tài sản vô danh, giá
trị của nó là giá trị của quyền tài sản nó minh chứng. Giấy tờ có giá là giấy tờ trị
giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Xét về mặt hình


thức, giấy tờ có giá một loại giấy tờ được lập theo hình thức, trình tự luật định. Xét
về nội dung, giấy tờ có giá thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị
quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ. Thêm nữa, giấy tờ có giá có giá
trị thanh toán, là công cụ chuyển nhượng toàn bộ, việc chuyển nhượng một phần
chắc chắn dẫn tới vô hiệu.
Ví dụ: Một số loại giấy tờ có giá có thể kể tới như: hối phiếu đòi nợ, hối
phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác, tín phiếu, công trái; trái phiếu
chính phủ, trái phiếu công ty, kì phiếu, cổ phiếu2,....
Loại tài sản này cũng cần được phân biệt với tiền ở một số điểm sau. Thứ nhất, về

chức năng của tiền là trao đổi, kinh doanh, tiêu dùng gọi chung là thanh toán, chức
năng dự trữ, tích lũy, chức năng định giá tài sản khác, bình ổn giá và chức năng thể
hiện chủ quyền quốc gia; còn giấy tờ có giá thì có nhiều chức năng hơn do có
nhiều loại khác nhau. Thứ hai, về chủ thế phát hành, tiền thì độc quyền nhà nước
phát hành, còn giấy tờ có giá thì do nhà nước, do các chủ thể khác nhau phát hành.
Thứ ba, định đoạt trong quá trình sở hữu, tiền thì không được tiêu hủy, còn giấy tờ
có giá cũng tùy thuộc và không bị hạn chế như tiền. Thứ tư, sử dụng giấy tờ có giá
không là hành vi đầu tư trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng. Ngoài ra, giấy tờ có giá có
tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro.
Ví dụ: Một số loại giấy tờ không phải là tài sản: sổ tiết kiệm, sổ hưu trí, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng kí xe
máy, thẻ sinh viên3…. Những loại giấy tờ trên chỉ là một vật thuộc sở hữu của
người đứng tên trên giấy tờ đó.
2.4.

Quyền tài sản:

Quyền tài sản được phát triển từ khái niệm vật quyền cổ điển trong Luật La Mã.
Trong luật La Mã, vật (res) gồm vật thể (object), nội dung (subject matter), địa vị


cần được xác định bởi thủ tục pháp lí. Vật trong Luật La Mã, xét ở khía cạnh sở
hữu được phân thành Res Nullius và Res private. Res Nullius là vật không có chủ
hoặc vật bị chủ từ bỏ, còn Res private là vật thuộc về một hoặc một số người nào
đó. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lí ngày nay ở trên Thế giới, khái niệm quyền
tài sản được sử dụng rộng rãi với nội hàm đầy đủ và chính xác hơn (thay cho khái
niệm vật quyền trước đó).
Ở Việt Nam, theo điều 115-Bộ luật Dân Sự 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.

Điều 115-Bộ luật Dân sự 2015 đã khắc phục được hạn chế trước đó, điều luật này
đã liệt kê và chỉ rõ phạm vi những quyền được coi là “quyền tài sản”, tránh sự
nhầm lẫn với quyền nhân thân. Mặt khác, khái niệm quyền tài sản lần này đã mở
rộng hơn so với trước đó, bởi lẽ theo quy định tại điều 181-bộ luật Dân sự 2005,
quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ, thì nó đã bỏ đi điều kiện phi lí “có thể chuyển
giao được”.
Quyền trong quyền tài sản chính là quyền năng dân sự của chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự, được nhà nước bảo vệ. Quyền tài sản là quyền gắn liền với tài
sản, quyền của cá nhân, pháp nhân được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử
sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện nghĩa nghĩa vụ
hoặc khi thực hiện các quyền này, lợi ích vật chất sẽ phát sinh đối với chủ sở hữu.
Ví dụ: Quyền sử dụng đất; quyền thanh toán khoản nợ; quyền sở hữu trí tuệ
về tác giả của tác phẩn văn học nghệ thuật, bài hát, quyền tài sản phát sinh từ hợp
đồng…
2.5.

Bất động sản và động sản:


Điều 107- Bộ luật Dân sự 2015 quy định về tài sản là “bất động sản và động sản”:

1.

Bất động sản bao gồm:
a. Đất đai;
b. Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c. Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d. Tài sản khác theo quy định của pháp luật.


2.

Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”

Như vậy, có thể thấy, cách phân loại trên xác định tài sản nào thuộc bất động sản
trước, sau đó dùng phương pháp loại trừ, để xác định tài sản còn lại là động sản.
Việc phân loại tài sản thành bất động sản và động sản dựa trên cơ sở đặc tính,
thuộc tính của vật là có thể di dời được hay không thể di dời được. Mặt khác, muốn
xác định được vật là động sản hay bất động sản phải xét tới “tính gắn liền” của nó.
Ví dụ: - Đất đai trong giao dịch dân sự được xác định bởi các yếu tố: diện
tích mảnh đất, vị trí của mảnh đất đó, và giấy tờ chứng thực của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xác nhận thông qua quyết định giao đất, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
-Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai: nhà, công trình xây
dựng trên đất, gắn liền với đất là một loại bất động sản. Nhưng khi di dời nhà khỏi
mặt đất từ nơi này sang nơi khác thì nhà lại được coi là động sản. Ví dụ khác, nhà
treo trên cây, cây gắn chặt rễ trong lòng đất thì khi đó nhà bất động sản, do có tính
gắn liền; khi di dời cái cây mang đi chỗ khác, kèm theo ngôi nhà vẫn treo trên cây
thì nhà khi đó lại là động sản (ở đây là xét “tính gắn liền” của tài sản, chứ không
phải xét nhà treo trên trên cây, có gió thổi, nhà đung đưa thì coi nhà động sản); hay
các nhà khác trên mặt trong lòng biển ở DuBai…


- Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng: cây cối,
hoa màu, gia súc, gia cầm... trên đất vẫn được coi là bất động sản đến khi nào mà
người ta chưa chặt cây, đem gia súc gia cầm đi bán, thu hoạch hoa màu. Nói cách
khác, những loại tài sản khác đó bị tách rời khỏi mặt đất thì chúng trở thành động
sản.
- Ngoài ra, các động sản có thể chuyển thành bất động sản vì mục
đích sử dụng hoặc phát sinh trong quá trình sử dụng chúng, tài sản đó gắn liền kiên

cố, không thể tháo ra mà không làm hư hại hoặc mất đi tính thẩm mĩ của ngôi nhà,
công trình do hoạt động có ý thức của con người, ví dụ: cửa gắn lên tường, quạt
trần, hệ thống dây điện ngầm trong tường, hệ thống đường ống nước dưới sàn
nhà....
- Một số quy định khác của pháp luật quy định về bất động sản:
quyền sử dụng đất là bất động sản…
Việc phân loại tài sản thành bất động sản và động sản có những ý nghĩa như sau:
xác lập thủ tục đăng kí đối với tài sản ( điều 106 đăng kí tài sản); xác định thời hạn,
thời hiệu, thủ tục khác; xác định các quyền năng, quyền sở hữu của chủ thể sở hữu
đối với tài sản…

2.6.

Tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai:

Cách phân loại thành tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai dựa trên
căn cứ thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở hữu cho chủ sở
hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong


tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời điểm hiện tại, được xác lập
quyền sở hữu đối với chủ sở hữu tài sản đó. Tài sản hình thành trong tương lai là
tài sản chưa tồn tại ở thời điểm hiện tại, thời điểm xem xét, nhưng chắc chắn nó sẽ
hình thành trong tương lai.

Theo điều 108- Bộ luật Dân sự 2015, “1. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và
chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời
điểm xác lập giao dịch. 2. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm: a. tài sản
chưa hình thành; b. tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài
sản sau thời điểm xác lập giao dịch”.

Ví dụ: -Tài sản hiện có: nhà đã được xây xong, tiền lương, tiền thưởng vừa
nhận được, người A có một trang trại,…
-Tài sản hình thành trong tương lai: nhà đang xây dở (tài sản chưa
hình thành), tiền thưởng sắp nhận được, mảnh đất bố viết trong di chúc sẽ cho con
sau khi bố chết (tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản
sau thời điểm xác lập giao dịch),…

Ý nghĩa của việc phân loại tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai: xác
định đối tượng được phép trong giao dịch dân sự (tài sản hiện có và tài sản chắc
chắn sẽ hình thành trong tương lai); xác định hình thức, thủ tục xác lập quyền sở
hữu (chủ thể phải đưa ra được các loại giấy tờ, chứng cớ để chứng minh quyền sở
hữu của mình đối với tài sản).


Hoa lợi, lợi tức:

2.7.

Hoa lợi, lợi tức là tài sản phát sinh từ tài gốc hiện có. Tài sản gốc là tài sản khi sử
dụng, khai thác công dụng sẽ tạo ra lợi ích vật chất mới nhất định.

Điều 109- Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “ 1. Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản
mang lại. 2. Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”.
Ví dụ: - Hoa lợi: Sữa tươi là hoa lợi của con bò sữa; chủ sở hữu một vườn
bưởi, bưởi ra quả đến kì thu hoạch, chủ được hưởng quả bưởi thu hoạch thì bưởi
đó là hoa lợi…
-Lợi tức: bà H có một số tiền đem gửi tiết kiệm, tiền lãi hằng tháng bà
B được hưởng thì đó là lợi tức; người D có 100 triệu cho vay lấy lãi, hằng tháng có
lãi từ số tiền cho vay đó người D được hưởng là lợi tức.


Ngoài ra, còn một dạng khác của hoa lợi là quả thực.
Ví dụ: Trước khi bố chết giao cho con quản lí một vườn cây, sau khi bố chết
người con quản lí, đến vụ mùa, con được hưởng hoa lợi từ vườn cây của bố mà
không cần phải trả tiền.

Việc phân loại tài sản thành hoa lợi và lợi tức dựa trên tính gia tăng tự nhiên của tài
sản gốc. Ngoài việc xác định chủ thể sở hữu (hoa lợi thuộc về chủ sở hữu tài sản,
lợi tức thuộc về người có quyền sở hữu hợp pháp tài sản đó), trong một số trường


hợp đặc biệt, người chiếm hữu tài sản gốc chỉ được hưởng hoa lợi sinh ra từ tài sản
mà không được khai thác công dụng của tài sản để thu lợi tức.

Nhận xét, đánh giá, kiến nghị về tài sản theo quy định của pháp luật

III.

dân sự Việt Nam hiện hành:

1. Nhận xét, đánh giá về tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam

hiện hành:
1.1.

Ưu điểm :

Trong Bộ luật Dân sự 2005, chế định tài sản được quy định cùng chế định quyền
sở hữu từ chương X (Điều 163, điều 167), và chương XI (từ điều 174 đến điều
181) thuộc Phần thứ 2: Tài sản và quyền sở hữu. Việc thiết lập như vậy khiến cho
người đọc cảm thấy rằng tài sản là đối tượng của quyền sở hữu. Đây là một hạn

chế lớn, gây ra nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc. Đến Bộ luật Dân sự 2015, chế định tài
sản và quyền sở hữu được tách riêng thành các chương thuộc phần khác nhau, cụ
thể: chương VII về Tài sản từ điều 105 đến điều 115 thuộc Phần thứ nhất- Những
quy định chung và chế định quyền sở hữu được quy định tại Phần thứ hai- Quyền
sở hữu và quyền khác đối với tài sản. Điều này một mặt thể hiện kĩ thuật lập pháp
của Việt Nam ngày một tiến bộ; mặt khác, đã ngầm khẳng định chế định tài sản là
chế định trung tâm, quan trọng, là đối tượng của nhiều quan hệ dân sự khác nhau:
quan hệ thừa kế, quan hệ nghĩa vụ và hợp đồng…Thêm vào đó, nó tạo nên sự nhận
thức thống nhất, tránh những mâu thuẫn, tranh cãi trong quá trình áp dụng thực


tiễn. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật Dân sự 2015:
105,106,107,108 và 115 so với Bộ luật Dân sự 2005 trong chế định tài sản là một
bước tiến đáng kể trong lịch sử lập pháp của Việt Nam, thể hiện sự ngày một hoàn
thiện trong hệ thống pháp luật, giúp kiện toàn việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
1.2.

Hạn chế:

Thứ nhất, theo điều 105- Bộ luật Dân sự 2015, khái niệm tài sản còn mang tính
chất liệt kê, chưa có thay đổi nhiều so với Bộ luật Dân sự 2005, vì thế nó chưa
mang tính khái quát cao, một số trường hợp áp dụng vào thực tiễn thấy cứng nhắc,
bởi khái niệm tài sản đó chưa chỉ ra được thuộc tính, đặc điểm tài sản là như thế
nào.

Thứ hai, khái niệm “giấy tờ có giá” chưa được quy định, chưa có giải thích rõ khái
niệm, bản chất, mà nằm rải rác ở nhiều Luật khác.
Ví dụ: Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010: “Giấy tờ có giá là
bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với

người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều kiện khác”.
Mặt khác, trên thực tiễn pháp lí, nhiều khi, “giấy tờ có giá” lại được hiểu là một vật
quyền (quyền của chủ thể đối với tài sản), giá trị tài sản không nằm trực tiếp trên
loại giấy tờ có giá, chủ thể không thể khai thác trực tiếp tác dụng của giấy tờ này
mà là khai thác quyền tài sản được ghi nhận trong các “ giấy tờ có giá” này.


2. Kiến nghị về tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành:

Thứ nhất, khái niệm tài sản trong Bộ luật Dân sự 2015 cần quy định rộng, có quan
điểm mở hơn, nêu ra được thuộc tính, đặc điểm của tài sản;

Thứ hai, “vật” trong tiếng Việt là hình khối, có thể nhận biết được; trong từ điển
Luật học Black định nghĩa: “ Vật-things là những đối tượng ổn định có thể nhần
thấy, có thể cảm nhận bằng các giác quan”, nên có những văn bản giải nghĩa cụ thể
vật trong quan hệ pháp luật dân sự;

Thứ ba, Bộ luật Dân sự 2015 nên có những quy định cụ thể hơn để có thể làm rõ
bản chất pháp lí của loại “ giấy tờ có giá”, nên đưa ra khái niệm hay định nghĩa rõ
ràng, để thuận tiện trong công tác giao dịch dân sự thực tế, công tác pháp lí…

Thứ tư, trong bộ luật Dân sự 2015 chưa có quy định về một loại tài sản là “ tài sản
ảo”. Đây là một khái niệm không mới, trước đó đã xuất hiện. Ngày nay, công nghệ
thông tin ngày một phát triển, các game ngày một nhiều, có những người bỏ ra
hàng tỉ đồng để đầu từ cho một “nick”, hay có những “account” hàng trăm triệu
đồng cho một món đồ ảo trên mạng, rồi phát sinh việc mua bán đồ ảo, hay lừa đảo
tài sản ảo, điều này hoàn toàn xảy ra trong thực tế.



Tuy nhiên, thực tế, pháp luật hiện hành lại không giải quyết những vụ việc như thế
này bởi họ coi tài sản ảo là tài sản không hiện hữu, không có thực, dựa vào phương
tiện kĩ thuật tồn tại theo khoảnh khắc thời gian khi con người sử dụng. Bản chất
của tài sản ảo không phải là vật có thuộc tính khách quan, không có hiệu lực giá trị
pháp lí; không có cơ sở hao hụt mất đi khi con người không tác động và bản thân
nó không có giá trị tự định đoạt. Như vậy, theo lí luật về tài sản thì “tài sản ảo”
không thỏa mãn các điều kiện để nó như tài sản bình thường: tạo ra lợi nhuận kinh
tế có thể trong hiện tại hoặc tương lai, chủ thể kiểm soát được và là đối tượng trong
giao dịch dân sự, khi thiệt hại thì xác định bằng những tổn thất vật chất khách
quan... Vì vậy, các nhà làm luật không coi “ tài sản ảo” là tài sản, không quy định
trong bộ luật mới lần này.
Song, trong thực tế, đã phát sinh, đã và sẽ tiếp tục diễn ra những cuộc giao dịch
“tài sản ảo”, vậy khi xảy ra những tranh chấp giữa các cuộc giao dịch “tài sản ảo”
pháp luật sẽ xử lí như thế nào? Bởi không thể cứ lập luận nó là ảo, không phải là
thật nên không xét xử được, như vậy, một bộ phận không nhỏ những người sống
bằng những ngành nghề buôn bán “đồ ảo ” sẽ không được pháp luật bảo hộ, việc
họ sống nhờ nghề này sẽ không được đảm bảo. Điều này, trái với tính nhân đạo của
pháp luật Việt Nam, vi phạm Hiến pháp 2013 : “Điều 16 Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật”, bởi không đảm bảo xét xử khi xảy ra tranh chấp giao dịch “tài sản
ảo”, chính là không đảm bảo cho mọi người bình đẳng trước pháp luật; “Điều 32
Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp...”; “Điều 33 Mọi người có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, rõ ràng
trên thực tế pháp pháp luật chưa hề có quy định về việc cấm kinh doanh “tài sản
ảo”, song lại cũng không được pháp luật bảo hộ, như vậy “tài sản ảo” và những
người kinh doanh “tài sản ảo” sẽ bị lửng lơ, trơ trọi, thiệt hại nặng nề khi có tranh
chấp giao dịch. Xét thấy, vấn đề này cần được quy định thêm trong Bộ luật dân sự.


Mặt khác, việc công nhận và quy định “tài sản ảo” trong bộ luật dân sự sẽ đem lại
một số lợi ích sau: khi xảy ra tranh chấp, sẽ có hướng giải quyết; đảm bảo một số

bộ phận người dân sinh sống được bằng nghề buôn bán “ tài sản ảo”; tăng cường
tính dân chủ, đảm bảo quyền con người; tăng ngân sách cho nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam do phát sinh việc thu thuế giữa những người kinh doanh
“tài sản ảo”...
Thứ năm, các loại giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản cũng nên được công
nhận là “giấy tờ có giá” trong các văn bản hướng dẫn đi kèm, chứ không nên theo
như Công văn 141/TAND-KHXX : giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng kí ô tô, xe máy... Bởi quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu các loại tài sản đăng kí ô tô, xe máy... là một quyền, thể hiện qua một
loại giấy là giấy chứng nhận ghi rõ chủ sở hữu tài sản là ai, với cái gì; mà quyền sở
hữu lại là tài sản. Nếu một chủ thể không có giấy chứng nhận quyền sử dụng, giấy
đăng kí... thì không thể thực hiện các giao dịch hằng ngày. Thêm nữa, các giấy tờ
đó đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đảm bảo tính hợp lí và hợp
pháp về sở hữu, điều đó chứng tỏ nhà nước bảo hộ đảm bảo cho tài sản của công
dân, tăng cường tính pháp luật trong nhà nước Việt Nam. Đặt trường hợp, không có
ai bảo hộ tài sản sở hữu, việc cá nhân tự bảo vệ tài sản sở hữu của mình nhiều khi
ngoài tầm kiểm soát. Việc không công nhận như vậy còn trái với Khoản 1 điều 32
Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Như vậy, thiết nghĩ, cần nên công nhận các
loại giấy tờ trên là “giấy tờ có giá” và là tài sản.


Kết thúc vấn đề
Tóm lại, chế định tài sản trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những sự kế
thừa, bổ sung, sửa đổi rất nhiều vấn đề quan trọng, thể hiện sự phát triển trong lịch
sử lập pháp của Việt Nam, ở đây là Bộ luật Dân sự 2015. Có thể nói rằng, những
thay đổi đó là tính tất yếu trong sự phát triển của Việt Nam trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền. Bên cạnh những điểm tích cực của Bộ luật mới sửa
đổi, vẫn còn tồn tại đôi chỗ những khiếm khuyết nhỏ, vậy nên mong muốn trong

những lần sửa đổi sau, các nhà làm luật sẽ khắc phục được những hạn chế này.
Điều này mang tính thiết thực, giải quyết công việc pháp lí thực tiễn, giúp các quan
hệ pháp luật dân sự, các chủ thể trong đời sống được thuận lợi hơn.

Chú thích 1.Nghị quyết số 101/NQ-CP ngày 20/08/2013 của Chính phủ về công tác
xây dựng pháp luật.
Chú thích 2. PHÁP LỆNH
NGOẠI HỐI CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI Số 28/2005/PL-UBTVQH11 NGÀY 13 THÁNG 12 NĂM 2005

Chú thích 3. Công văn 141 HĐTPTANDTC
Tài liệu tham khảo:


1.
2.
3.
4.

5.
6.
7.

Giáo trình Luật Dân Sự Việt Nam tập 1 của Trường đại học Kiểm Sát Hà
Nội (Xuất bản năm 2014).
Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Dân sự 2005.
/> /> /> /> />


×