Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tài liệu học - Lớp trung cấp Lý luận chính trị - hành chính B27 ď HP V.1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.88 KB, 31 trang )

Câu 1: A/c hãy pt vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hiện nay? (6đ)

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong cách, lề lối làm
việc của đội ngũ cán bộ. Theo Người, phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ có vai
trò to lớn để nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào "tâm lý
quốc dân"và đi vào cuộc sống.Biến nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước thành hành
động của quần chúng, tạo ra đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Phong cách lãnh đạo,
quản lý là tổng hợp những phương pháp, cách thức, biện pháp, tác phong, lề lối làm việc để
vận dụng các kiến thức, tri thức khoa học vào thực tiễn đem lại hiệu quả. Đây là yếu tố đặc
biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Thực tế cho thấy, đối với người cán bộ cơ sở, khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ có
những lúc, những công việc chưa hoàn thành tốt không phải do thiếu kiến thức và sự nhiệt
tình, trách nhiệm hay phương tiện, vật chất bảo đảm mà còn do phong cách lãnh đạo, quản
lý chưa phù hợp. Trong phạm vi bài làm, tôi xin đi sâu vào phân tích vai trò của hoạt động
lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hiện nay.
Để hiểu rõ vai trò của lãnh đạo trong công tác quản lý, trước hết ta tìm hiểu hai khái
niệm "hoạt động quản lý" và “hoạt động lãnh đạo".
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động của người lãnh đạo mang tính định hướng, gây ảnh
hưởng tạo dựng niềm tin, thuyết phục người khác để họ đồng thuận lợi với người lãnh đạo
thực hiện đường lối chủ trương hướng tới mục tiêu nào đó. Lãnh đạo tạo hiệu ứng điều
khiển, dẫn dắt người khác dựa trên cơ chế nhận thức, niềm tin, tiêu chuẩn đạo đức, lý tưởng
mà không mang tính cưỡng bức đối với người khác.
Hoạt động quản lý mang tính kỷ thuật, quy trình được quy định rõ trong khuôn khổ các
thể chế xác định như PL, quy chế, quy định. Nhà quản lý sử dụng quyền lực để điều hành
người khác.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cấp cơ sở có các vai trò:
- Hoạt động LĐ, QL tạo nên s.mạnh tập thể trên cơ sở thống nhất ý chí và hành động.
Cộng đồng dân cư trên địa bàn xã dù khác biệt nhau nhiều phương diện nhưng mỗi cộng
đồng cũng có những lơị ích chung như bảo vệ môi trường sống chung có lợi cho sức khỏe,
giữ gìn trật tự trị an, giữ gìn vệ sinh chung, xd cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, trường
học...Nếu không có cấp quản lý cơ sở sẽ không thể thống nhất ý chí và hành động của người


dân để tất cả đều có cuộc sống tốt hơn. Hơn nữa, cấp cơ sở còn là nơi hỗ trợ trực tiếp cho
dân cư khi họ gặp khó khăn, cũng như tạo đk cho dân cư tham gia vào hệ thống chính trị
chung của quốc gia.
- Hoạt động LĐ, QL tạo ra m.trường vừa cho phép mỗi người dân được sáng tạo, vừa
định hướng hoạt động của mọi người theo mục tiêu chung. Các xã thị trấn đều nằm trong 1
huyện, 1 tỉnh nào đó và nằm trong nước ta do đó vừa được hưởng lợi ích chung của sự quản
lý của huyện, của tỉnh, của quốc gia, vừa phải tập thể thực thi nghĩa vụ của mình với tập thể
lớn hơn. Cơ quan quản lý cấp cơ sở là đầu mối để triển khai chính sách chung 1 cách hiệu
quả trên địa bán csở, vừa phản ánh nguyện vọng, nhu cầu của csở cho cấp trên để dược hỗ
trợ giải quyết kịp thời, hiệu quả.
- Hoạt động lđ, QL ở cơ sở tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận khác nhau
1


của đơn vị thành một hệ thống nhất. Giữa các bộ phận dân cư nghành nghề trên địa bàn xã,
phường, thị trấn đôi khi cũng xảy ra xung đột cấp csở là nơi trực tiếp đúng ra hòa giaỉ hoặc
phân xử nhằm tạo ra bâud không khí đoàn kết thông cảm, tương trợ lẫn nhau. Chuacs năng
xét xử có thể chia phân quyền ở phạm vi hẹp cho cấp csở, nhưng chức nang hòa giải của hệ
thống chính trị chủ yếu do cấp csở đảm nhiệm.
- Hoạt động lđ, QL ở cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững của hệ thống chính
trị. Nhờ có sự quản lý ở cấp csở mà hoạt động của dân cư và các tổ chức trên địa bàn đi vào
nền nếp, kỹ cương, giảm nhẹ vtrò quản lý, giám sát của cấp trên. Hơn nũa, sự chuyen nghiệp
linh hoạt và tận tâm của cbộ quản lý cấp csở làm tăng uy tín của hệ thống ctrị. Ngược lại, sự
yếu kém của cấp csở nhất là việc xử lý quan liêu, thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ cbộ csở
không những làm cho hệ thống ctrị thiếu bền vững, mà còn làm phai nhạt niềm tin của quần
chúng vào hệ thống ctrị.
hệ thực tế: Ở địa phương tôi, cấp ủy, chính quyền địa phương luôn làm tốt vai trò lãnh
đạo quản lý thông qua việc xây dựng các Nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động,…
phát triển kinh tế xã hội Liên hằng năm. Từ sự chỉ đạo thực hiện đó đã thống nhất trong ý
chí và hành động của các ban ngành đoàn thể, sự đồng thuận của người dân. Các mục tiêu

phát triển kinh tế xã hội hàng năm đều được thảo luận, lựa chọn phù hợp với đk của địa
phương,………
Tóm lại, cán bộ cấp cơ sở cần phải coi việc rèn luyện, xây dựng phong cách lãnh đạo,
quản lý theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ thường xuyên, tự giác và bền bỉ suốt
đời. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do học tập,
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển hoàn thiện, cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Rèn luyện đạo đức cũng như phong cách của mỗi
người không thể trong ngày một ngày hai, mà cần phải rèn luyện thường xuyên. Thực tiễn
luôn thay đổi, đặt ra những yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng và trước những tác động
của nền kinh tế thị trường, nếu không tự tu dưỡng, rèn luyện phong cách của bản thân,
người cán bộ cấp cơ sở sẽ không thể đáp ứng yêu cầu của thời cuộc. Hồ Chí Minh đã dạy:
"Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"16. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên
phải học tập, rèn luyện không ngừng, học không chỉ là nghĩa vụ để chuẩn hóa cán bộ theo
yêu cầu của Đảng mà còn phải là nhu cầu tự thân, học tập thường xuyên, học tập suốt đời
để có phẩm chất tốt, đồng thời có nền tảng học vấn cần thiết. Chỉ khi nào học vấn trở thành
công cụ nhận thức, công cụ hoạt động làm tăng lên giá trị của chính mình, tăng thêm niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, khi đó học vấn mới
trở thành văn hóa, trở thành thành tố quan trọng trong phong cách lãnh đạo, quản lý của đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở, góp phần xây dựng Đảng ta thật sự "là đạo đức, là văn minh".

2


Câu 2: A/c hãy pt lãnh đạo, qlý trong ctác của các tổ chức chính trị – xã hội? (4đ)
Tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức quần chúng của Đảng, là công cụ để tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trong các tầng lớp nhân dân, luôn giữ vị trí, vai
trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Có thể nói rằng lãnh đạo, quản lí trong công tác của các tổ chức chính trị - xã hội có
thể được nhìn nhận dưới hai góc độ khác nhau: lãnh đạo, quản lý của tổ chức chính trị - xã
hội và lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội.
- Dưới góc độ lãnh đạo, quản lý của tổ chức chính trị - xã hội:
+ Lãnh đạo trong công tác của tổ chức chính trị - xã hội là việc các tổ chức chính trị xã hội xây dựng và đề ra các chủ trương, nghị quyết về công tác của tổ chức mình trên cơ sở
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệ, nghị quyết của tổ chức
chính trị - xã hội và nhu cầu nguyện vọng của hội viên và xã hội.
+ Quản lý trong công tác của các tổ chức chính trị - xã hội là công việc tổ chức, giám
sát, điều hành các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nhằm đảm bảo định hướng
cho các hoạt động của tổ chức mình đạt kết quả cao đáp ứng với nhiệm vụ mà Đảng và đất
nước giao phó.
Các tổ chức chính trị-xã hội làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã
hội, phát huy dân chủ, năng lực, trí tuệ, ý thức trách nhiệm công dân trong thực hiện giám
sát xây dựng chính quyền,xây dựng Đảng; xây dựng, củng cố và hoàn thiện các thiết chế
dân chủ ở cơ sở như: Quy chế về hoạt động hoà giải, Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng và
Quy chế hoạt động thanh tra nhân dân; coi trọng và sử dụng rộng rãi hoạt động tư vấn
trong công tác của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền và các tổ chức
trong hệ thống chính trị về nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
đoàn thể chính trị-xã hội vững mạnh. Các cấp uỷ đảng tiến hành kiểm điểm sâu sắc việc tổ
chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã ban hành về công tác Dân vận, công tác
Mặt trận và các Đoàn thể. Đưa nội dung lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn
thể vững mạnh thành một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ
của tổ chức đảng các cấp.
- Dưới góc độ lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội:
+ Có thể nói rằng, cán bộ các tổ chức chính trị - xã hội những “nhà lãnh đạo” đối với
các thành viên của tổ chức, với nghĩa này muốn khẳng định rằng người cán bộ của tổ chức
chính trị - xã hội là những người trực tiếp "gây ảnh hưởng đến các hoạt động của tổ chức
chính trị - xã hội nhằm đạt được mục đích hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội" hay
"Cán bộ tổ chức chính trị - xã hội là những người có sức thuyết phục, thu phục, gây ảnh

hưởng, uy tín của mình với các hội viên của tổ chức chính trị - xã hội"
+ Người cán bộ tổ chức chính trị - xã hội cũng là những “nhà quản lý”. Điều đó có
nghĩa là bên cạnh tư cách là người lãnh đạo, người cán bộ tổ chức chính trị - xã hội còn có
nhiệm vụ tổ chức giáo dục, định hướng, kiểm tra, giám sát, chăm sóc, bảo vệ quyền lợi trực
3


tiếp của hội viên ...
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng,
động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện
nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia
vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ
hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ.
Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn
viên, hội viên và nhân dân
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt
động về cơ sở; phát huy tính năng động sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị- xã hội các cấp trong công tác vận động quần chúng, phù hợp với đặc
điểm từng địa phương, cơ sở
Tóm lai, lãnh đạo, quản lý trong công tác của tổ chưc chính trị- xã hội có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân cư.

4



Câu 3: A/c hãy trình bày và pt những biểu hiện đặc trưng trong phong cách lãnh
đạo của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở? (6đ)
Phong cách được coi như là một nhân tố quan trọng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong đó thể hiện không chỉ mặt khoa học và tổ chức quản lý mà còn thể hiện tài năng và chí
hướng của con người, nghệ thuật chỉ huy của lãnh đạo đối với đơn vị mình quản lý, tác động
và ảnh hưởng của người lãnh đạo đến với người khác trong hệ thống quản lý.
Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là mẫu hành vi mà người
lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động và ảnh hưởng có hiệu quả đến cấp dưới và quần
chúng nhân dân tại cơ sở. Nó được biểu hiện qua các tác phong làm việc dân chủ, khoa học,
hiệu quả và thiết thực, đi sâu sát quần chúng, tôn trọng và lắng nghe quần chúng, khiêm tốn
học hỏi và thực sự cầu thị, năng động và sáng tạo, gương mẫu và tiên phong.
Sau đây ta đi tìm hiểu cụ thể từng tác phong:
- Tác phong làm việc dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo ở cấp xã, nó
sẽ khơi dậy được mọi sự tham gia nhiệt tình và những đóng góp sáng tạo của quần chúng
trong việc tạo ra các QĐ, chỉ thị trong việc tổ chức thực hiện những chủ trương chính sách,
PL của đảng và NN ở cơ sở có hiệu quả. Chú trọng dân chủ ko có nghĩa là buông lỏng trách
nhiệm, người lđạo, quản lý cấp cơ sở phải luôn thực hiện nguyên tắc tập thể lđạo cá nhân
phụ trách. Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. A dua theo quần
chúng, quá dựa dẫm vào quần chúng, thiếu trách nhiệm không phải là biểu hiện của tác
phong làm việc dân chủ. (Vd cụ thể)
- Tác phong làm việc khoa học thể hiện đặc điểm nghiệp vụ tổ chức của phong cách
lãnh đạo cấp cơ sở. Lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay khác hẳn thời kỳ bao cấp. Người
lđạo quản lý ko chỉ có nhiệt tình cách mạng, có đạo dức mà cần thiết phải có tình độ chuyên
môn trí tuệ. Người lãnh đạo, quản lý cơ sở không thể lãnh đạo theo kinh nghiệm chủ quan,
không thể sử dụng phương pháp thử và sai mà đòi hỏi phải có tầm nhìn đúng, trong công tác
phải thông thạo và có tính chuyên nghiệp, có phương pháp khoa học, sáng tạo trong vận
dụng lý luận vào thực tiễn, nhạy cảm với cái mới. Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện nên đòi
hỏi người lđạo quản lý phải có năng lực tổ chức kỹ năng giao tiếp, am hiểu con người và sd
con người đúng việc, đúng chỗ.

Sự phát triển KT-XH, VH-GD, công tác xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chuyển
đổi vật nuôi cây trồng… dòi hỏi tính hiệu quả, thiết thực, tránh phô trương, hình thức, qua
loa, đại khái. Nhu cầu, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân dòi hỏi tính thiết thực hiệu quả
trong quá trình giải quyết. Chính vì vậy, tác phong làm việc hiệu quả thiết thực cũng là một
đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo cấp xã. (Vd cụ thể)
- Tác phong đi sâu đi sát quần chúng.
Cấp cơ sở là cấp gần dân nên lđạo muốn thành công đòi hỏi người lđạo quản lý cấp cơ
sở phải có phong cách đi sâu đi sát quần chúng. Lãnh đạo phải hiểu quần chúng, đặt mình
vào vị trí của quần chúng. Công tác lãnh đạo phải xuất phát từ quan điểm: dân là gốc, nếu xa
dân, tách dời dân chúng sẽ dẫn đến phong cách quan liêu. Lãnh đạo là phục vụ.
Tác phong đi sâu đi sát quần chúng là đặc trưng riêng biệt của phong cách lãnh đạo cấp
cơ sở. Có đi sâu đi sát quần chúng mới có đc tác phong khoa học dân chủ, tác phong hiệu
5


quả và thiết thực. (Vd cụ thể)
- Tác phong tôn trọng lắng nghe ý kiến quần chúng.
Dân là gốc, dân là chủ, là mọi nguồn sức mạnh, trí tuệ sáng tạo đều từ nhân dân mà ra.
Chính vì thế tác phong tôn trọng và lắng nghe quần chúng không chỉ là đặc trưng cơ bản của
phong cách lãnh đạo cấp cơ sở mà còn là nguyên tắc làm việc, nguyên tắc ứng xử của người
lđạo.
Để rèn luyện tác phong làm việc trên người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở phải luôn luôn
ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ “Dễ mười lận không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng
xong”
- Tác phong khiêm tốn học hỏi và thực sự cầu thị.
Trái ngược với tác phong khiêm tốn học hỏi là sự giấu dốt ko dám thừa nhận sự hạn
chế thiếu sót của mình trước đ/c, trước nhân dân; có thái độ tự kiêu, tự đại, luôn nghĩ mình
là giỏi, là nhất. Khiêm tốn học hỏi sẽ giúp cho cán bộ lđạo quản lý cấp cơ sở tiến bộ có
thêm kinh nghiệm tri thức, kỹ năng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thái độ cầu thị vừa thể hiện sự chân thực, khiêm tốn lại vừa thể hiện mong muốn hoàn

thiện, tiến bộ của bản thân người lđạo; nó trái ngược với tính tự cao, tự đại. Người lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở có phong cách khiêm tốn, học hỏi và thật sự cầu thị sẽ dễ gần được dân
chúng, chiếm được sự cảm tình, tôn trọng của dân chúng.
- Tác phong làm việc năng động và sáng tạo.
Sự CNH-HĐH đòi hỏi cán bộ lđạo quản lý ko chỉ thụ động chờ hướng dẫn chỉ đạo của
cấp trên mà phải chủ động năng động sáng tạo tìm ra hướng đi hướng chuyển dịch cơ cấu
KT phù hợp cho quê hương, làng xã mình.
Người lãnh đạo năng động, sáng tạo phải là người nhạy bén trong việc phát hiện cái
mới, ủng hộ cái mới tích cực, nhân nó lên thành diện rộng, thành phong trào để đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân trong xã ngày càng được cải thiện, đổi mới, văn minh hơn.
- Tác phong làm việc gương mẫu và tiên phong.
Tính gương mẫu tiên phong của cán bộ đảng viên là yếu tố đảm bảo vai trò lđạo của
Đảng đối với XH, tạo đc sự tín nhiệm, niềm tin của nhân dân. Từ lâu nhân dân đã có câu
“đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
CB lãnh đạo, quản lý phải rèn luyện phong cách sinh hoạt mẫu mực, phù hợp với
những chuẩn mực giá trị xã hội, làng xã, thôn xóm mình.
Để tạo ra bước chuyển biến mới trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá… rất cần đến
phong cách tác phong gương mẫu, tiên phong của những người lãnh đạo, quản lý để qua đó
người dân mến phục, noi theo và tin tưởng.
Tóm lại: phong cách lãnh đạo của CB lãnh đạo, quản lý có vị trí ,vai trò quan trọng đối
với việc lãnh đạo đơn vị góp phần hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ. Người CB có phong
cách lãnh đạo - quản lý dân chủ, sâu sát, tỉ mỉ, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và coi
6


trọng nội dung thực chất sẽ đem lại hiệu quả cao trong đơn vị, là tấm gương tốt để mọi
người học tập. Vì vậy cần nắm vững các yêu cầu, biện pháp hình thành, phát triển phong
cách lãnh đạo-quản lý; kiên quyết đấu tranh với những phong cách lãnh đạo-quản lý quan
liêu, mất dân chủ, phô trương hình thức.


7


Câu 4: Phân biệt các phong cách lãnh đạo độc đoán – dân chủ – tự do? Theo a/c
phong cách lãnh đạo nào là phù hợp trong giai đoạn hiện nay, vì sao? (4đ)
Phong cách lãnh đạo, quản lý có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ
lãnh đạo, quản lý và tác động đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức, phong
cách của cán bộ cấp dưới, lợi ích của nhân dân. Bởi vậy, việc xây dựng phong cách lãnh
đạo, quản lý chuẩn mực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ
bản, lâu dài.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về phong cách lãnh đạo, quản lý. Theo chúng
tôi, Phong cách đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý là mẫu hành vi mà người lãnh đạo, quản lý
lựa chọn nhằm tác động một cách có hiệu quả đến đối tượng lãnh đạo, quản lý nhằm thực
hiện những mục tiêu và nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý đã đề ra.
Có nhiều cách phân loại phong cách lãnh đạo, mỗi cách phân loại dựa trên một số cơ sở
nhất định. Sau đây ta sẽ tìm hiểu phân biệt các phong cách lãnh đạo độc đoán – dân chủ – tự
do
* Phân biệt các phong cách lãnh đạo:
độc đoán
Đặc
điểm

dân chủ

Tập trung quyền lực, nắm Không quyết theo chủ
bắt tất cả các quan hệ và quan của mình mà luôn
thông tin.
mở rộng dân chủ, tranh
thủ, động viên mọi
Các quyết định mệnh lệnh người tham gia vào các

đưa ra chỉ dưa trên cơ sở quyết định quản lý và
kiến thức, khả năng, kinh giải quyết các nhiệm vụ
nghiệm của người lãnh của đơn vị.
đạo, không quan tân ý
kiến người dưới quyền, Biết phân quyền phù
buộc cấp dưới thực hiện hợp, không ôm đồm,
một các tập trung, chính mọi việc đều có sự tham
xác, nghiêm ngặt.
gia của tập thể.
Bản thân người lãnh đạo
trực tiếp kiểm tra việc thi
hành của cấp dưới.

Thông
tin

Từ trên xuống

Ưu điểm Giải quyết nhanh chóng
các nhiệm vụ và có thể
phù hợp với những tổ
chức mới thành lập.

tự do
Tham gia ít nhất vào
công việc của tập thể,
hầu như giao hết
quyền hạn, trách
nhiệm cho mọi người.
Thông tin trong tổ

chứa được cung cấp
cho mọi người và cho
phép mọi người tự do
hành động theo suy
nghĩ, theo cách thức
mà mình cho là tốt
nhất.

Hai chiều: từ trên xuống Theo chiều ngang
và từ dưới lên.
Phát huy được trí tuệ, Phát huy tối đa khả
khả năng sáng tạo của năng của cấp dưới.
cấp dưới, động viên
được tính tích cực của
mọi người khi tiến hành
vì cấp dưới luôn thấy
rằng trong quyết định
8


hay công việc đó có sự
tham gia ý kiến của
mình.
Hạn chế

Thiếu dân chủ, không
tranh thủ được trí tuệ, kinh
nghiệm của cấp dưới dễ
tạo nên trạng thái bất bình,
căng thẳng


Dễ mất nhiều thời gian
và nếu người lãnh đạo
không nhanh chóng lựa
chọn phương án tốt nhất
sẽ dẫn đến bàn bạc kéo
dài.

Dễ dẫn đến tình trạng
người lãnh đạo thiếu
trách nhiệm, tình
trạng hỗn loạn, vô
chính phủ.

* Mỗi phong cách có điểm mạnh và điểm yếu riêng. Không có phong cách nào là tốt
nhất tuyệt đối. Trong một môi trường cụ thể, có thể có một số phong cách thích hợp hơn
những phong cách khác. Người lãnh đạo giỏi biết tôn trọng và sử dụng người giỏi, phong
cách lãnh đạo không có phương án tuyệt đối mà tùy vào đối tượng quản lý, vào môi trường
quản lý, ví dụ như đối tượng là những nhà trí thức, những nghệ sĩ thì lãnh đạo bằng phong
cách tự do là phù hợp.
Chọn phong cách quản lý phải chú ý các đặc điểm sau:
- Không có phong cách quản lý tối ưu
- Không có phong cách quản lý chung cho mọi đối tượng như người mới vào nghề phải
hướng dẫn chỉ việc, người lâu năm thì phong cách dân chủ tự do để phát huy chất xám
- Không có phong cách quản lý chung cho mọi loại tập thể : tập thể mới thì là phong
cách tập trung để rèn nề nếp, tập thể lâu năm thì phong cách bớt mệnh lệnh
- Không có phong cách quản lý chung cho mọi loại tình huống: Trường hợp cấp bách
thiên tai cần tập trung
- Không có phong cách quản lý chung cho mọi lĩnh vực hoạt động : như trong quân đội
bắt buộc phải quản lý bằng mệnh lệnh.

- Không có phong cách quản lý chung cho mọi nhà quản lý : người lãnh đạo bản lĩnh là
phong cách tự do, người lãnh đạo thiếu bản lĩnh dùng phong cách dân chủ, độc đoán
Hiện nay trình độ quản lý ở VN chưa đạt mức cao, do đó phong cách lãnh đạo dân chủ
được xem là phong cách có nhiều ưu thế nhất. Là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo
ở cơ sở, nó sẽ khơi dậy được mọi sự tham gia nhiệt tình và mọi những đóng góp sáng tạo
của quần chúng trong việc tạo ra những quyết định, chỉ đạo, chỉ thi trong việc tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở cơ sở có hiệu
quả.
Tuy nhiên nhà lãnh đạo cũng không nên tuyệt đối thực hiện theo phong cách này nên
lựa chọn một phong cách phù hợp, dù lựa chọn phong cách nào cũng cần tuân thủ những tác
phong quản lý như:
- Tác phong làm việc dân chủ;
9


- Tác phong khoa học;
- Tác phong làm việc hiệu quả thiết thực;
- Tác phong sâu sát quần chúng, tiên phong gương mẫu;
- Tác phong làm việc năng động, sáng tạo.
* Liên hệ thực tiễn: UBKT đảng uỷ phường 2
Tính chất hoạt động:

p/c lãnh đạo lựa chọn

UBKT Đảng uỷ là một bộ phận tham
mưu làm công tác kiểm tra của Đảng
uỷ; thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn qui định trong Điều lệ Đảng, tham
mưu, giúp Đảng uỷ thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật Đảng


Thực hiện chỉ đạo từ Đảng uỷ phường và UBKT
Quận uỷ => áp dụng p/c lãnh đạo độc đoán.
Tuy nhiên, UBKT Đảng uỷ còn phối hợp với các bộ
phận khác trong thực hiện tham mưu xây dựng kế
hoạch, nghị quyết đảng bộ phường => p/c lãnh đạo
dân chủ

Tính chất phát triển:
- UBKT Đảng uỷ thường xuyên thay - Nhân sự thường thay đổi, nên áp dụng p/c lãnh
đổi nhân sự (chuyển công tác, tuổi đạo độc đoán để thực hiện n/v chính trị do lãnh đạo
tác…)
cấp trên giao phó.
- Thường trực UBKT (CN và PCN) là - Các nhân sự đã có sự gắn kết, quan hệ tốt trong xử
nhân sự đã làm việc cùng nhau 03 lý công việc, ý thức thực hiện nhiệm vụ -> có thể áp
năm.
dụng p/c dân chủ.
Trình độ: cao đẳng, đại học.

Tập thể có trình độ, chuyên môn nên áp dụng p/c
lãnh đạo dân chủ

Tính chất công việc

Hoạt động kỹ thuật nghiệp vụ cần p/c lãnh đạo độc
đoán; Hoạt động tiếp xúc đảng viên và chi bộ cần
p/c lãnh đạo tự do.

Tình huống công việc


Xử lý sự cố áp dụng p/c lãnh đạo độc đoán
Áp dụng biện pháp, hình thức mới: áp dụng p/c lãnh
đạo dân chủ

Tóm lại, phong cách lãnh đạo của CB lãnh đạo, quản lý có vị trí ,vai trò quan trọng đối
với việc lãnh đạo đơn vị góp phần hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ. Người CB có phong
cách lãnh đạo - quản lý dân chủ, sâu sát, tỉ mỉ, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và coi
trọng nội dung thực chất sẽ đem lại hiệu quả cao trong đơn vị, là tấm gương tốt để mọi
người học tập. Vì vậy cần nắm vững các yêu cầu, biện pháp hình thành, phát triển phong
cách lãnh đạo-quản lý; kiên quyết đấu tranh với những phong cách lãnh đạo-quản lý quan
liêu, mất dân chủ, phô trương hình thức.

10


Câu 5: A/c hãy nêu và phân tích các kỹ năng ra quyết định của cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở? (6đ)
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định quản lý
liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quá trình quản lý. Quyết định
quản lý được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng
của mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có
quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc
điểm, vài trò và yêu cầu của quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực
hiện quyết định một cách khoa học. Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, trong phạm
vi bài làm tôi xin đi sâu phân tích các kỹ năng ra quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
cơ sở.
TRước tiên ta tìm hiệu khái niệm quyết định lãnh đạo, quản lý? Quyết định LĐ,QL là
sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động LĐ,QL xã hội, tiến hành theo một trình tự,
thủ tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ
thị…; nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người

theo định hướng nhất định.
Ví dụ thực tiễn: …
Để ra được quyết định lđ, quản lý đúng đắn, có tính khả thi cần chú ý một số kỹ năng
sau:
1. Kỹ năng thu thập thông tin, phân tích và sử dụng thông tin
Thông tin có vai trò quan trọng trong công tác lãnh đạo, điều hành và giải quyết công
việc của người lãnh đạo. Có đầy đủ thông tin, công việc được giải quyết hợp tình hợp lý.
Cung cấp thông tin kịp thời công việc được giải quyết nhanh chóng. Ngược lại, thiếu thông
tin, thông tin sai lệch sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết công việc. Đôi khi công việc
giải quyết một cách phiến diện không đáp ứng được nhu cầu công tác.
Để ra được 1 quyết định LĐ, quản lý phù hợp, cán bộ, công chức LĐ cấp cơ sở cần
phải xđ thông tin được thu thập từ nguồn nao? Và khi có thông tin cần phải kiểm tra thông
tin bằng cách đặt ra và trả lời 1 loạt câu hỏi: Thông tin có hoàn toàn mới ko? Thông tin dùng
trong việc ra quyết định như thế nào? Độ tin cậy và chính xác của thông tin là bao nhiêu
phần trăm? Có cần lưu trữ thông tin này ko?
Thông tin đến với lđ cấp cơ sở qua nhiều “kênh” đó là: các nghị quyết, chỉ thị, thông tư,
văn bản của cấp trên trực tiếp có liên quan; số liệu điều tra, tình hình thực tiễn tại cơ sở;
mạng internet; tham mưu của các chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau; trình độ, năng lực,
phẩm chất của người cán bộ lđ, qlý,...
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gần dân và giải quyết những vấn đề thực tế đặt ra ở địa
phương vì vậy việc lãnh đạo cấp cơ sở trực tiếp tìm hiểu thông tin về tình hình thực tế cơ sở
là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nắm bắt thông tin ko kịp thời dẫn đến việc ra những
quyết định lđ, quản lý xa rời thực tế, hiệu quả ko cao.
11


Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, người lãnh đạo cấp cơ sở cũng phải chú ý
tới việc cập nhật và khai thác thông tin từ mạng internet ở những địa phương có điều kiện
đáp ứng về CNTT.
Ở cấp cơ sở có thể khai thác tốt sự tham mưu, góp ý của cán bộ, công chưc đã nghĩ hưu

vì đây là những “chuyên gia” trong nhiều lĩnh vực mà cấp cơ sở có thể khai thác tại chổ. Vai
trò của già làng, trưởng ấp, tổ trưởng tổ dân phố cũng hết sức quan trọng vì đây là đầu mối
nắm bắt thông tin ở các cụm dân cư trên địa bàn cấp xã.
Việc xử lý thông tin để ra quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở dược thực hiện trước
hết là chính cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ
sở vẫn là người lựa chọn thông tin cuối cùng. Chính vì vậy, nâng cao năng lực, trình độ,
phẩm chất của người lãnh đạo là một trong những yêu cầu luôn phải được đặc ra và thường
xuyên trao dồi.
2. Kỹ năng soạn thảo, ra quyết định:
Trong quá trình soạn thảo và ra quyết định LĐ, qlý cần chú ý tới việc thực hiện đúng
quy trình ra quyết định, tránh việc làm tắt tùy tiện dẫn tới những sai sót trong quá trình ra
quyết định
Trong quá trình dự thảo QĐ chú ý tới những ý kiến phản biện đã được thu nhận. Người
lãnh đạo cần phải có thái độ cầu thị đối với những ý kiến phản biện để lựa chọn những
phương án, giải pháp thích hợp nhất trong quá trình xây dựng dự thảo quyết định quản lý.
Các sai lầm cần tránh trong việc soạn thảo và ra QĐ lãnh đạo, quản lý.
Một là, ra QĐ lãnh đạo, quản ý mà không nắm vững yêu cầu thực tế, giải quyết các vấn
đề một cách chung chung, ko đủ cụ thể và hiện thực, ko đủ chính xác rõ ràng, có thể hiểu và
làm khác nhau.
Hai là, quá tin vào tham mưu, người dự thảo, ko xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng, ko lắng
nghe ý kiến người tham gia, người phản biện, hay quá tin vào những hiểu biết chủ quan of
mình đi đến ra QĐ lãnh đạo, quản lý một cách phiến diện, chủ quan.
Ba là, thể hiện ở chổ ra QĐ lãnh đạo, quản lý mang tính thỏa hiệp, nể nang, dựa dẫm
cấp trên một cách thụ động, không có tính sáng tạo, k tự chịu trách nhiệm.
Bốn là, ra QĐ lãnh đạo, qlý ko đúng thẩm quyền, ko đủ căn cứ pháp lý, QĐ có nội
dung trùng lặp, chồng chéo ngay trong bản thân QĐ or với các QĐ đã ra trước đó.
3. Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo quản lý
Lập kế hoạch là 1 khâu trong chu trình lãnh đạo, quản lý. Trong quy trình tổ chức thực
hiện quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, lập kế hoạch là bước dầu tiên trong quy trình tổ
chức thực hiện qd và có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện qd trên thực

tế. Tuy nhiên, lập kế hoạch tổ chức thực hiện qd lãnh đạo, quản lý phải được đặt trong mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khâu của chu trình thực hiện quyết định.
Người lãnh đạo có kỹ năng lập kế hoạch thể hiện: việc tiên liệu được các tình huống
trong hoạt động lãnh đạo, quản lý; phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức 1 cách hữu hiệu; tập
12


trung vào các mục tiêu và chính sách của tổ chức; …..
Trình tự lập KH thực hiện QĐ lãnh đạo, quản lý như sau: xác định mục tiêu; nội dung;
địa nàn, đối tượng, thời gian; phương pháp thực hiện; phương pháp theo dõi, kiểm tra….việc
thực hiện quyết định.
4. Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện QĐ lãnh đạo, quản lý: Khi kế hoạch thực hiện
QĐ lãnh đạo, quản lý đã được đặt ra bất cứ đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý đều phải
thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế dưới sự chỉ đạo điều hành của người lãnh đạo. Để điều
hành được việc thực hiện quyết định trên thực tế một cách có hiệu quả người lãnh đạo có
khả năng nắm bắt các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hienj QĐ, bên cạnh đó chú ý tới
1 số vấn đề mang tính nguyên tắc như: thường xuyên giám sát tình hình, tinh thần làm việc
của CB, CC dưới quyền; đưa ra các chỉ đạo hợp lý; có phương án hỗ trợ khi cần thiết;…
5. Kỹ năng xử lý tình huống trong lãnh đạo, quản lý: người lãnh đạo cầ chú ý các vấn
đề sau: chỉ đạo triển khai giải quyết 1 cách chủ động theo KH đã xây dựng trước; có phương
án kịp thời giản quyết nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm phát sinh;…
6. Kỹ năng giải quyết khieus nại, tố cáo để thực hiện tốt công tác này người lãnh đạo
thực hiện hiện đúng yêu cầu sau: nắm được các quy định pháp luật nhà nước, quy định của
Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo kể cả thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại
tố cáo và các quy định pháp luật về giải quyết KN-TC gắn với đặc thù địa phương
Những kỹ năng cần trau dồi đó là: kỹ năng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo; gia tiếp
của CBCC trong khi thực thi công vụ; phân loại, xử lý đơn thư; xác minh, xem xét và giải
quyết;…. đơn thư khiếu nại tố cáo
Ví dụ tại đơn vị:
Quyết định thành lập BCĐ thực hiện QCDC tại đơn vị

Công ty tôi công tác là Công ty TNHH MTV, trực thuộc Sổ Giao Thông Vận Tải TP HCM. Căn cứ
công văn số 26-CV/ĐU ngày 15 tháng 7 năm 2011 của Đảng Ủy Sở Giao Thông Vận Tải TP HCM về việc
tổ chức học Nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quấc lần thứ XI, Đại Hội Đảng Bộ thành phố lần thứ IX, Đại
Hội Đảng Bộ Sở lần thứ V.
Ban Thường Vụ Đảng Ủy Công ty tôi công tác ra quyết định số 13 thành lập Ban Tổ Chức gồm 05
đồng chí thực hiện tổ chức đợt học tập này ( gồm 1 trưởng ban, 1 phó ban và 3 thành viên ).
Sa khi ra quyết định, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đưa quyết định này lên trên mạng nội bộ của Công ty
để thông báo đến những đồng chí có tên trên trong quyết định biết để thực hiện các nội dung trong quyết
định.
Căn cứ vào chức danh trong quyết định, tôi là trưởng ban tổ chức đã họp các đồng chí trong Ban Tổ
Chức và đề ra kế hoạch thực hiện như sau: Mời báo cáo viên là các báo cáo viên thuộc Đảng Ủy Sở Giao
Thông Vận Tải, thời gian học tập Nghị quyết vào 29, 30 tháng 07 năm 2011, địa điểm: Hội trường Công ty,
các đối tượng tham gia học là cán bộ chủ chốt, toàn thể đảng viên, toàn thể đoàn viên, các cán bộ đoàn và
cán bộ công đoàn cơ sở, đồng chí trưởng Ban Tổ Chức sau khi soạn thảo kế hoạch đã trình đồng chí Bí Thư
phê duyệt.
Sau khi kế hoạch được phê duyệt, tôi và các đồng chí trong Ban Tổ Chức phối hợp với Ban Chấp
Hành 2 Đoàn thể cử người chuẩn bị âm thanh, ánh sáng, nhạc Quốc Ca, cắt dán phông chữ và khẩu hiệu,
chuẩn bị xắp bàn ghế đúng với số lượng trong kế hoạch, chuẩn bị nước uống. Tất cả những công việc trên
đều được chuẩn bị hoàn chỉnh trước ngày học 01 ngày.
Ban tổ chức làm thư mời báo cáo viên và ghi rõ thời gian , địa điểm học gửi lên Đảng Ủy Sở để báo
cáo viên biết ngày và xắp xếp lịch giảng ( thư mời báo cáo viên được gửi trước 30 ngày ).

13


Ban tổ chức học tập Nghị Quyết ra thông báo ngày học là ngày 29 và ngày 30 tháng 07 năm 2011 thời
gian; sáng từ 8 giờ đến 11 giờ; chiều từ 1 giờ 30 đến 4 giờ 30 và gửi thông báo lên mạng nội bộ của công ty
trước ngày học là 07 ngày để các đối tượng tham dự học biết và xắp xếp công việc và thời gian để đii học.
Trong quá trình thực hiện quyết định, Đồng chii1 Bí Thư Đảng Bộ Công ty thường xuyên mời tôi là
trưởng ban tổ chức đến để báo cáo công tác chuẩn bị đến đâu và gần ngày đi học Đồng chí trực tiếp xuống

Hội trường Công ty để kiểm tra các công tác chuẩn bị đã được đầy đủ chưa nếu có gì bị thiếu kịp thời chấn
chỉnh và bổ sung ngay để cho buổi học Nghị quyết đạt kết quả tốt.
Sau khi tổ chức học tập Nghị quyết XI xong, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đã họp Ban Tổ Chức và đánh
giá việc thực hiện đạt kết quả tốt và thành công tốt đẹp.

Tóm lại: Kỹ năng ra quyết định là khả năng của cán bộ lãnh đạo, quản lí biết quyết
định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong công
tác quản lí, lãnh một cách kịp thời. Ra quyết định là khâu mấu chốt trong quản lí, lãnh đạo.
Kỹ năng ra quyết định là thành phần quan trọng của nhân cách quản lí. Đây là sự thể hiện
năng lực, trình độ, phẩm chất của nhà quản lí. Để có kỹ năng ra quyết định, người cán bộ
phải học tập lâu dài, hiểu biết sâu sắc lí luận, phải trải nghiệm và đúc rút kinh nghiệm liên
tục.

14


Câu 6: Theo anh, chị để ra được 01 quyết định đúng, có tính khả thi, được quần
chúng nhân dân ủng hộ, quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đáp ứng được các
yêu cầu nào?
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định quản lý
liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quá trình quản lý. Quyết định
quản lý được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng
của mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có
quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc
điểm, vài trò và yêu cầu của quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực
hiện quyết định một cách khoa học. Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, trong phạm
vi bài làm tôi xin đi sâu phân tích các yêu cầu cơ bản của quyết định của lãnh đạo, quản lý ở
cơ sở.
TRước tiên ta tìm hiệu khái niệm quyết định lãnh đạo, quản lý? Quyết định LĐ,QL là
sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động LĐ,QL xã hội, tiến hành theo một trình tự,

thủ tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ
thị…; nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
theo định hướng nhất định.
Để ra được một quyết định đúng, có tính khả thi, được quần chúng nhân dân ủng hộ,
quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đáp ứng được các yêu cầu sau:+
Thứ nhất, bảo đảm tính chất chính trị: qd lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là sự cụ thể hóa
Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn của địa phương cơ sở, là sự cụ thể hóa các quyết định
quản lý của cơ quan nhà nước cấp trên, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của chính quyền cơ
sở theo quy định của pháp luật ở địa phương ơ sở. Vì vậy, NQ của Đảng bộ cơ sở và Quyết
định quản lý của chính quyền cơ sở không được trái với đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của NN.
Thứ 2, bảo đảm tính hợp pháp. Hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cấp cơ
sở được đặt trong khuôn khổ pháp luật vì vậy các quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
phải phù hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ 3 là ban hành quyết định lãnh đạo, quản lý đúng hình thưc và thủ tục quy định. Về
hình thức: các quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đúng tên gọi, thể thức như: tiêu
đề, số, ký hiệu, ngày, tháng, năm ban hành và hiệu lực, chữ ký, con dấu,…hình thức thể hiện
chủ yếu bằng văn bản. Vi phạm các quy định về hình thức, thể thức có thể dẫn dắt đến hậu
quả là làm cho quyết định lãnh đạo, quản lý trở thành bất hợp pháp.
Thứ 4 là cần bảo đảm tính hợp lý. Tính hợp lý của quyết định lãnh đạo, quản lý thể
hiện:
- Quyết định lãnh dạo, quản lý phải đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, tập thẻ và cá
nhân.
- Quyết định lãnh đạo, quản lý phải cụ thể và đáp ứng được các yêu cầu của đời sống
xã hội đặt ra và với các đối tượng thực hiện. Một quyết định lãnh đạo, quản lý có tính khả
15


thi cao khi được ban hành đúng lúc, phù hợp với yêu cầu lãnh đạo, quản lý ở địa phương cơ
sở.

- Quyết định lãnh đạo, quản lý phải mang tính hệ thống toàn diện.
Thứ 5, bảo đảm kỹ thuật ban hành quyết định lãnh đạo, quản lý. Yeu cầu này thể hiện:
ngôn ngữ, văn phong, cách trình bày một quyết định lãnh đạo, quản lý phải rõ ràng, dễ hiểu,
ngắn gọn, chính xác không đa nghĩa.
* Liên hệ thực tế: Trong thực tiễn cho thấy có những quyết định quản lý khi ban hành
được triển khai rộng rãi và trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, quá trình này cũng là quá
trình đổi mới, quá trình hoàn thiện pháp luật để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế
xã hội. Sự phát triển của pháp luật với sự phát triển của thực tế trong giai đoạn này không
phải lúc nào cũng đạt được sự đồng bộ nhất nhất mà có lúc, có nơi còn có những khoảng
cách mà Nhà nước đã và đang cố gắng khắc phục tình trạng này.
Lấy ví dụ như việc ban hành Nghị định 60/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/7/1994 về việc
Quyền sử dụng nhà ở và Quyền sử dụng đất ở tại đô thị. Nội dung chính của Nghị định này
là nhà nước quy định đối với nhà và đất ở thuộc khu vực đô thị thì chủ sở hữu nhà và chủ sử
dụng đất sẽ được cấp 1 giấy chứng nhận trên đó có cả 2 quyền : quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở. Đây là một quyết định hợp pháp do được ban được rất nhiều người
đồng tình ủng hộ, tham gia thực hiện nhưng cũng có những quyết định quản lý rất khó tổ
chức triển khai thực hiện. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, vốn là những vấn đề rất nhạy
cảm trong quần chúng nhân dân. Pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng đang
hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức. Tuy nhiên, về tính khoa học, tính linh hoạt, tính hiệu
quả, tính toàn diện và tính khả thi của quyết định có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét
Về tính khoa học và tính thống nhất, quyết định này có nhiều yếu tố phù hợp với mục
tiêu mà chính phủ và cả người dân mong muốn : đó là nhằm quản lý chặt chẽ hơn tình hình
đất đai - nhà ở tại đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách đền bù,
giải toả, quy hoạch, chỉnh trang đô thị cũng như các quan hệ giao dịch khác của người dân
(thế chấp, chuyển nhượng ...). Rõ ràng việc gắn cả 2 quyền này vào cùng một giấy chứng
nhận sẽ thuận tiện hơn cho người dân khi thực hiện các quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn ...) và cũng phù hợp xu thế hình thành một thị trường bất động sản
ở nước ta. Tuy nhiên bản thân của 2 quyền này có những điểm khác nhau rất cơ bản : đó là
đối với quyền sở hữu nhà thì người chủ sở hữu có thể toàn quyền định đoạt tài sản của

mình, họ có thể thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế phần tài sản này cho bất cứ đối tượng
nào mà pháp luật không cấm, tuy nhiên về quyền sử dụng đất đai thì khác, quyền của người
sử dụng đất sẽ có những giới hạn nhất định, do đó có những trường hợp có thể pháp luật về
nhà ở, dân sự không cấm nhưng đối với pháp luật đất đai thì không được phép chuyển
nhượng, thừa kế, thế chấp... Mặt khác, nội dung của Nghị định còn giao cho cả 2 ngành
Xây dựng và Địa chính trong phạm vi chức năng của mình tổ chức thực hiện, mỗi ngành với
nhân lực và nội dung quản lý riêng nên ban hành hướng dẫn lại chưa thống nhất. Do đó,
Nghị định này còn hạn chế về tính khoa học và tính thống nhất.
Về tính khả thi, tính toàn diện và tính linh hoạt thì thực tế cho thấy rằng phương án tổ
chức thực hiện mà Nghị định đưa ra là phải có sự phối hợp của cả hai cơ quan xây dựng và
địa chính cùng thực hiện, quản lý hồ sơ lưu và bản lưu giấy chứng nhận cũng ở cả hai đơn
16


vị, điều này trên thực tế gây rất nhiều phiền hà cho người dân vì khi có thay đổi nội dung
trên giấy chứng nhận thì phải đến cả 2 cơ quan để xác nhận. Mặt khác, do mỗi cơ quan
chức năng quản lý khác nhau nên cơ quan nào cũng muốn giấy chứng nhận phải thể hiện
đầy đủ những thông tin mình cần quản lý, điều đó càng làm cho quy trình thực hiện khó
khăn hơn nhiều. Lực lượng thực hiện của 2 bên cũng không đồng nhất nên cùng một nhà và
đất ấy phải đo vẽ nhà đất 2 lần. Ngoài ra, có rất nhiều hồ sơ nhà đất chưa đủ điều kiện cấp
giấy nên để được hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở thì người dân phải cùng một lúc phải nộp một khoản tiền khá lớn vừa nhà, vừa đất.
Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng có khi chủ nhà hợp pháp về đất nhưng do nhà xây
dựng lấn chiếm không gian hoặc xây dựng trái phép và không phù hợp với quy hoạch nên
không được cấp quyền sở hữu nhà, do đó người chủ nhà này cũng không được cấp GCN. Từ
những vướng mắc trên cho thấy rằng tính khả thi và tính toàn diện của Nghị định là rất
thấp và sau 10 năm ban hành cả nước cũng chỉ mới cấp được không quá 50% số trường
hợp phải cấp, không thỏa mãn những mục tiêu đã đề ra cũng như không đáp ứng được
những vấn đề mà thực tế diễn ra.
* Ví dụ cụ thể 2: kiểm tra nề nếp sinh hoạt của 01 đảng viên chuyển về sinh hoạt tạm

tại chi bộ 02 được 05 tháng và đã vắng 02 kỳ họp (có thông báo)
1) Triển khai quyết định: truyền thông nội dung của buổi tiếp xúc đến các đối tượng
có liên quan: UBKT đảng uỷ, cấp uỷ chi bộ 02 và đảng viên được tiếp xúc.
2) Tổ chức thực hiện quyết định:
+ Phân công nhiệm vụ cho từng đối tượng, đơn vị: UBKT chuẩn bị các nội dung cho
buổi tiếp xúc, cấp uỷ chi bộ liên hệ và đôn đốc nhắc nhở đảng viên tham gia đúng thời gian.
+ Chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để tiến hành.
3) Kiểm tra thực hiện quyết định:
+ Trong buổi tiêm, nắm bắt tình hình, tâm tư của đảng viên.
Giám sát quy trình tiếp xúc theo đúng quy định: phong cách tiếp xúc, lời nói, cử
chỉ…
4) Tổng kết, đánh giá việc thực hiện quyết định:
+ Sau buổi tiếp xúc đề xuất phương án thực hiện: vận động đảng viên làm đơn xin tạm
miễn sinh hoạt trong 6 tháng.
+ Đánh giá hiệu quả thu được qua buổi tiếp xúc.

17


Câu 7: Phân tích những kỹ năng cần thiết của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ
sở khi tiến hành diễn thuyết trước công chúng
Chuẩn bị diễn thuyết
* Nghiên cứu đối tượng
- Sự cần thiết phải nghiên cứu đối tượng:
Trong diễn thuyết trước công chúng, đối tượng quy định việc xác định nội dung, lựa
chọn phương pháp diễn thuyết. Đối với những đối tượng khác nhau, nội dung phương pháp
phát biểu, trình bày phải khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu về đối tượng là công việc đầu tiên
mà người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tiến hành trước khi diễn thuyết. Sinh thời Bác Hồ
thường xuyên căn dặn cán bộ tuyên truyền, nhà văn, nhà báo phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho
ai xem? Nói cho ai nghe?” trước khi nói, viết một vấn đề nào đó.

- Nội dung nghiên cứu đối tượng:
+ Nghiên cứu đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu: các đặc điểm về thành phần xã hội
- giai cấp, nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác... của đối tượng.
+ Nghiên cứu các đặc điểm về tư tưởng và tâm lý - xã hội: hệ thống các quan điểm,
chính kiến, động cơ, khuôn mẫu tư duy, tâm trạng và trạng thái thể chất...của họ.
+ Nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu thông tin; thái độ của người nghe đối với nguồn
thông tin và nội dung thông tin; con đường, cách thức thỏa mãn nhu cầu thông tin của đối
tượng.
Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm này và xuất phát từ các đặc điểm này, người cán
bộ lãnh đạo, quản lý xác định mục đích, nội dung, phương pháp diễn thuyết phù hợp.
* Chọn chủ đề cho bài diễn thuyết phri đạt các yêu cầu sau:
Một là, bài diễn thuyết phải mang đến cho đối tượng công chúng những thông tin
mới, hấp dẫn.
Hai là, nội dung chủ đề diễn thuyết phải mang tính thiết thực, đáp ứng nhu cầu thông
tin, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người dân.
Ba là, chủ đề bài diễn thuyết mang tính thời sự, tính cấp thiết tức là nói phải đề cập
đến những vấn đề đang tác động lớn đến dư luận xã hội, những vấn đề mà công chúng đang
quan tâm.
Bốn là, nội dung chủ đề bài diễn thuyết phải mang tính giáo dục tư tưởng, tức là nói
phải góp phần giáo dục tư tưởng cho người nghe, góp phần giúp người nghe hiểu đúng
đường lối, chính sách, pháp luật và quyết tâm thực hiện chúng.
* Xây dựng đề cương bài diễn thuyết
18


- Đề cương bài diễn thuyết cần đạt tới các yêu cầu sau:
+ Phải thể hiện mục đích tuyên truyền, thuyết phục. Đề cương là sự cụ thể hóa mục
đích tuyên truyền bằng các phần, các mục, các luận điểm, luận cứ, luận chứng.
+ Phải chứa đựng, bao hàm nội dung tuyên truyền một cách lôgíc
- Cần xây dựng nhiều phương án của đề cương, từ đó chọn phương án tối ưu. Phương

án tôi ưu là phương án phù hợp với một đối tượng công chúng cụ thể, xác định. Quá trình
xây dựng đề cương có thể thay đổi, bổ sung hoàn thiện dần từ thấp đến cao, từ đề cương sơ
bộ đến đề cương chi tiết.
- Kết cấu đề cương:
Phần mở đầu:
+ Chức năng của phần mở đầu: là phần nhập đề cho chủ đề bài diễn thuyết; là
phương tiện giao tiếp ban đầu với người nghe, kích thích sự hứng thú của người nghe đối
với nội dung bài diễn thuyết.
+ Yêu cầu đối với phần mở đầu: phải tự nhiên và gắn với các phần khác trong bố cục
toàn bài cả về nội dung và phong cách ngôn ngữ; ngắn gọn, độc đáo và tạo hấp dẫn đối với
người nghe.
Phần chính của bài diễn thuyết:
+ Đây là phần dài nhất, quan trọng nhất, quy định chất lượng của bài diễn thuyết, là
phần bao hàm, phát triển nội dung diễn thuyết một cách toàn diện, sâu sắc.
+ Nếu như chức năng đặc trưng của phần mở đầu là thu hút sự chú ý của người nghe
ngày từ đầu thì chức năng đặc trưng của phần chính là lôi cuốn ý nghĩ, kích thích tư duy của
họ bằng sức thuyết phục của lôgíc trình bày.
Việc chuẩn bị phần chính của bài diễn thuyết cần đạt được các yêu cầu sau:
+ Bố cục chặt chẽ, được trình bày lập luận theo những quy tắc, phương pháp nhất
định.
+Tính xác định, tính nhất quán và tính có luận chứng.
+ Tính tâm lý, tính sư phạm:
Phần kết luận
Kết luận là phần không thể thiếu trong cấu trúc một bài diễn thuyết. Nó làm cho bố
cục diễn thuyết trở nên cân đối, lôgíc, có tác dụng khái quát và nhấn mạnh điều đã nói.
Phần kết luận có chức năng đặc trưng sau:
+Tổng kết những vấn đề đã nói
+ Củng cố và làm tăng ấn tượng về nội dung bài nói
19



+Đặt ra trước người nghe những nhiệm vụ nhất định và kêu gọi họ đi đến hành động.
+ Kết luận phải đạt tới yêu cầu ngắn gọn, giàu cảm xúc nhưng tự nhiên, không giả tạo
và được sử dụng để kết thúc bài diễn thuyết.
b. Tiến hành diễn thuyết trước công chúng
Trong quá trình diễn thuyết, người nói tác động đến người ngheo chủ yếu thông qua
hai kênh: kênh ngôn ngữ và kênh phi ngôn ngữ (mối quan hệ người người nghe – người nói
cũng được thực hiện bằng kênh này).
- Kênh ngôn ngữ (Có tài liệu gọi là cận ngôn ngữ, tức là những yếu tố đi liền với
ngôn ngữ). Khi dùng kênh ngôn ngữ có thể sử dụng các yếu tố như ngữ điệu, cường độ, âm
lượng, nhịp độ lời và sự ngừng giọng...để tạo ra sự hấp dẫn cho bài nói.
+ Ngữ điệu của lời nói phải phong phú, biến hóa, có sự vận động của âm thanh,
tránh cách nói đều đều, đơn điệu, buồn tẻ.
+ Cường độ lời nói (nói to hay nói nhỏ) cần phù hợp với khuôn khổ kích thước của
hội trường, số lượng và đặc điểm người nghe. Cần điều chỉnh cường độ lời nói đủ để người
ngồi xa nhất có thể nghe được.
+ Nhịp độ lời nói (nói nhanh hay nói chậm) do nội dung bài nói, tình huống và không
gian giao tiếp, khả năng hoạt động của tư duy và sự chú ý của người nghe quy định.
+ Ngừng giọng cũng là yếu tố của kỹ năng sử dụng kênh ngôn ngữ trong diễn thuyết.
Việc sử dụng kỹ năng ngừng giọng là để nhấn mạnh tầm quan trọng, tạo ra sự tập trung chú
ý của người nghe đối với một vấn đề nào đó.
- Kênh phi ngôn ngữ (có tài liệu gọi là kênh tiếp xúc cơ học hay các yếu tố về hành
vi). Kênh này bao gồm các yếu tố như tư thế, vận động và cử chỉ, nét mặt, nụ cười...chúng là
những yếu tố được quy định bởi phong cách và thói quen cá nhân.
+ Tư thế đứng trước công chúng: phải tự nhiên, linh hoạt. Trong suốt buổi nói
chuyện diễn thuyết phải có vài lần thay đổi tư thế để người nghe không cảm thấy mệt mỏi,
nhưng cũng không nên thay đổi tư thế nhiều.
+ Cử chỉ và diện mạo: phải phù hợp với ngữ điệu của lời nói và cảm xúc, với sự vận
động của tư duy và tình cảm. Nét mặt, nụ cười, ánh mắt có thể truyền đạt hàng loạt các cảm
xúc: niềm vui hay nỗi buồn, sự kiên quyết hay nhân nhượng, sự khẳng định hay nghi

vấn...mà nhờ nó người nói gieo được lòng tin, sự hào hứng vào tâm hồn, trí tuệ người nghe.
Các yếu tố trên đây tác động lên thị giác của người nghe và đồng thời có tác dụng
nâng cao hiệu quả tri giác thông tin của họ. Chúng còn được kết hợp phù hợp với tính chất
nội dung thông tin và với các yếu tố ngôn ngữ để nâng cao chất lượng bài phát biểu.
- Một số cách nói thu hút sự chú ý và gây ấn tượng đối với người nghe khi diễn
thuyết:
+ Tăng hàm lượng thông tin bằng cách xử lý tốt lượng dư thừa của ngôn ngữ diễn đạt.
20


+ Tăng sức hấp dẫn của thông tin bằng cách sử dụng yếu tố bất ngờ, cách trình bày
độc đáo.
+ Sử dụng một số biện pháp ngôn ngữ như: dùng từ láy, ẩn dụ, câu đảo đổi, câu đối
chọi...và các biện pháp tu từ ngữ âm như: biện pháp hòa bình đối thanh điệu, biện pháp lặp
số lượng âm tiết, lặp vần, biện pháp tạo nhịp điệu...
+ Trình bày cái cụ thể xen kẽ cái trừu tượng, trình bày sự kiện xen kẽ các khái niệm,
phạm trù quy luật.
+ Nắm vững nghệ thuật sử dụng các con số. Có thể sử dụng kỹ năng để làm cho một
số nhỏ thành số lớn hoặc ngược lại làm cho một số lớn thành số nhỏ; hoặc so sánh số đó với
số khác để làm bật ý nghĩa của con số đang sử dụng.
+ Phát biểu theo kiểu ngẫu hứng, thoát ly đề cương.
- Thủ thuật tái lập sự chú ý
Trong quá trình trình bày, do tác động của một nguyên nhân khách quan, sự chú ý của
người ngheo có thể bị suy giảm. Trong trường hợp này, người nói phải phát hiện những dấu
hiệu đó thông qua việc quan sát thái độ, hành vi của người nghe và chủ động tìm cách khắc
phục.Dựa trên những quy luật tâm - sinh lý, người ra đưa một số kỹ xảo, thủ thuật sau mà
người diễn thuyết có thể sử dụng để tái lập và tăng cường sự chú ý:
+ Cử chỉ, vận động và sự kết hợp chúng với các thủ thuật khác. Chẳng hạn, có thể
rời bục giảng tiến gần về phía người nghe hoặc đi vào giữa hội trường tiếp tục nói.
+ Thủ thuật âm thanh: nói to lên hoặc nói nhỏ đi (gần như nói thầm)

+ Sử dụng các phương tiện trực quan như sơ đồ, bản đồ, biểu bảng, băng ghi hình và
kết hợp các phương tiện đó với phương tiện ngôn ngữ.
+ Thay đổi trạng thái giao tiếp từ độc thoại sang đối thoại bằng cách đặt các câu hỏi
và đề nghị người nghe trả lời.
+ Hài hước: Chuyển sang nói bằng giọng hài hước, sử dụng biện pháp gây cười như:
chơi chữ, nói lái, nói thiếu, nói tước bỏ ngữ cảnh, kỹ thuật tương phản hoặc kể một câu
chuyện cười phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, khôi phục lại sự chú ý.
- Kỹ năng trả lời câu hỏi khi thực hiện đối thoại.
+ Việc trả lời các câu hỏi của người nghe là công việc bình thường của cán bộ lãnh
đạo, quản lý nhất là trong điều kiện dân chủ hóa và tăng cường các phương pháp đối thoại
với quần chúng.
+Cán bộ lãnh đạo, quản lý cần thiết phải trả lời câu hỏi của quần chúng và tạo điều
kiện, giành thời gian trong mỗi lần nói chuyện để họ được hỏi về những vấn đề mà họ quan
tâm nhưng chưa được giải thích hoặc giải thích chưa rõ.
Các kỹ năng cần thiết khi trả lời câu hỏi:
+ Trả lời rõ ràng, đúng, trúng yêu cầu của câu hỏi.
21


+ Lập luận có cơ sở khoa học, có căn cứ xác đáng, trên cơ sở các quy luật lôgíc và
phương pháp chứng minh, lời nói nhã nhặn, khiêm tốn, phù hợp với quan hệ và giao tiếp.
+ Có thể đặt tiếp những câu hỏi gợi ý để người nghe tự trả lời câu hỏi của mình thông
qua việc trả lời câu hỏi gợi ý của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
+ Có thể trả lời ngay hoặc hẹn vào một thời điểm khác (cuối giờ, cuối buổi, hoặc
sang ngày khác nếu còn tiếp tục nói chuyện) để có thêm thời gian chuẩn bị trả lời. Nếu xét
thấy khó trả lời thì tìm cách nói để người hỏi thoải mái, thông cảm. Không nên trả lời những
vấn đề mà mình chưa nắm vững.
+ Nếu người nghe đưa ra nhiều câu hỏi quá thì có thể tìm cách hạn chế bớt phạm vi
vấn đề của các câu hỏi.
+ Từ chối những câu hỏi liên quan đến lợi ích quốc gia hoặc hướng dẫn họ gặp

những người có trách nhiệm.
* Liên hệ thự tế:
Ưu điêm
- Nắm chắc các quan điểm của đảng, nói đúng trọng tâm, trọng điểm
- Tự tin, bình tĩnh trước đám đông.
- Có chuẩn bị đề cương, đề cương có tính giáo dục về TT, đạo đức
- Xử lý tình huống nhanh gọn, giải quyết được vần đề.
- Kết hợp giửa cử chỉ và lời nói
- Trang phục gọn gàng, lịch sự.
- Giọng nói nói to, nói rõ, dễ nghe
- Ứng dụng công nghệ TT trong diễn thuyết
Hạn chế
- Bài nói chưa sinh động nên không thu hút người nghe
- Trình bày dài dòng, dẫn chứng thực tế ít
- Lập từ trong bài diễn thuyết
- Dùng từ khó hiểu, chưa sát với thực tế đại phương
- Còn chú ý nhiều vào tài liệu
- Chưa kiểm soát được thời gian.
- Có 1 vài động tác thừa
- Bố cục trình bày chưa chặt chẽ
Giải pháp
- Không ngừng học tập nâng cao trình độ CM, bản lĩnh chính trị
- Áp dụng rộng rãi CNTT trong bài giảng
- Đề xuất cấp trên mở các lớp tập huấn cho lãnh đạo quản lý ở cơ sở để trang bị kỷ
năng tuyên truyền thuyết phục trước công chúng.
- Mời các báo cáo viên cấp trên về tác nghiệp tại cơ sở
Phải liên hệ thực tế nội dung diễn thuyết.
Tóm lại: Để trả lời những câu hỏi khó, phức tạp, đỏi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản
lý phải có phản ứng nhanh về cách trả lời và phải thường xuyên tích lũy kinh nghiệm, rèn
luyện kỹ năng, có sự hiểu biết rộng, sâu sắc về văn hóa chung và có kinh nghiệm tốt về văn

hóa đối thoại.
22


Câu 8: Trình bày các quy tắc vận động hành lang

Vận động hành lang xuất hiện đầu tiên ở nước Anh, nó gắn liền với sự ra đời của nền
dân chủ đại diện. Vận động hành lang được lấy theo tên địa điểm mà hoạt động này diễn ra
đầu tiên trong lịch sử, đó là hành lang của Nghị viện Anh, nơi mà trong thời gian nghỉ giải
lao, các nghị sỹ thường trao đổi với đồng nghiệp, hoặc các cử tri tập trung để trình bày ý
kiến, kiến nghị với các đại diện của mình. Tại các hành lang lớn này đã diễn ra các cuộc
vận động, thuyết phục giữa các cử tri và các nghị sỹ nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến
những vấn đề sẽ được tranh luận và thông qua ở Nghị viện. Trong phạm vi bài viết ta đi sâu
nghiên cứu về các nguyên tắc vận động hành lang?
TRước tiên ta tìm hiểu khái niệm về vận động hành lang? Vận động hành lang là nghệ
thuật khai thác các khả năng các cơ may để thuyết phục các nhà hoạch định chính sách, các
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên, các đại biểu HĐND, đại biểu Quốc hội ủng hộ các chương
trình công tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở đồng thời vận động họ có sự tác động
làm thay đổi chính sách theo hướng có lợi cho công tác lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở.
Mục đích của vận động hành lang ko phải là nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành
vi của đối tượng thực hiện đường lối, chính sach, pháp luật mà là tác động nhằm thay đổi
các chính sách, các chương trình phát triển.
Đối tượng của vận động hành lang là những ng tham gia vào quá trình chuẩn bị và
thông qua các quyết định, các chính sách phát triển. Đó là những cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp trên cấp ủy, UBND, đại biểu HĐND, đại biểu QH,..
* Các quy tắc của vận động hành lang
- Xác định rõ ngay từ đầu mục đích vận động.
- Nắm vững đối tượng vận động hành lang: họ là ai? Giữ chức vụ gì? Trong cơ quan
nào? Đồng thời cần nắm vững những thông tin về quan điểm, phong cách công tác về vai trò
của họ trong tổ chức mà họ tham gia và vai trò cua họ trong việc tham gia soạn thảo, ban

hành các quyết định, các vấn dề cần vận động.
- Nắm vững thông tin về các tổ chức, các ủy ban và cv của tổ chức mà các nhà lãnh
đạo, quản lý tham gia. Như các thông tin: cv, time, lịch trình công tác, các cuộc hội thảo,
quan hệ nội bộ của các tổ chức,….
- Chuẩn bị tài liệu và cung cấp thông tin cho các nhà lãnh đạo, quản lý cấp trên. Các
nhà hoạch định chính sách, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên có thể vẫn thiếu thông tin về
vấn đề sẽ ra qd hoặc có thông tin, nhưng chưa đầy đủ. Cho nên, trong khi vận động hành
lang cần cung cấp đầy đủ thêm thông tin về các vấn đề có liên quan cho họ. Chú ý dến tính
chính xác tính thới sự và cơ sở pháp lý của các tài liệu. Sách nhỏ, tờ gấp, bản in, tờ số liệu la
những phương tiện có thể sử dụng kết hợp để nâng cao hiệu quả vận động hành lang.
- Chủ động tạo time và thời cơ cho các cuộc tiếp xúc. Thông thường các nhà hoạch
23


định chính sách, cb lãnh đạo, quản lý cấp trên có rất ít time rỗi và ko thích thú các cuộc gặp
gỡ này. Cho nên, khi vận động hành lang phải nắm đc thời gian biểu hoạt động của họ để lập
KH về time gặp gỡ. Giờ giải lao, trước và sau làm viejc, bữa ăn trưa là những cơ may đặc
biệt để gặp gỡ họ.
Phải có nghệ thuật đặt câu hỏi và kích thích cb lãnh đạo, quản lý cấp trên trả lời cởi
mở để tìm kiếm tin tức và sự ủng hộ.
Nghệ thuật vđộng hành lang là làm thế nào để đưa yêu cầu của mình vào chương trình
nghị sự một cách kịp thời và tất cả các cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên coi vấn đề đó là
quan trọng đối với họ ở 1 phương diện nhất định và có thái độ ủng hộ nhiệt tình, vô tư, triệt
để.
Tóm lại, lý hoạt động này nhằm khắc phục, hạn chế sự lợi dụng, làm biến dạng Vận
động hành lang là một hoạt động chính trị cần thiết trong xã hội dân chủ đại diện. Bản chất
của hoạt động này không xấu, nó chỉ xấu khi bị người ta lợi dụng trong những môi trường,
điều kiện cụ thể nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân hoặc nhóm nhỏ cục bộ. Vì vậy cần phải
có khung pháp lý để điều chỉnh và quản hoạt động này trong xã hội của những người, nhóm
người mưu lợi ích cá nhân.


24


Câu 9: Trình bày nguyên tắc và quy trình bổ nhiệm CB hiện nay?
Sử dụng CB là nội udng quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định trong công tác CB nói
chung, trong quản lý cán bộ nói riêng. Sử dụng CB bao gồm một số khâu trong quản lý cB
như: ựa chọn, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động và thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
Trong phạm vi bài làm tôi xin đi sâu nghiên cứ và phân tích các nguyên tắc và quy trình bổ
nhiệm cán bộ hiện nay.
Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm bổ nhiệm cán bộ là gì? Bổ nhiệm cán bộ, theo quy
định của Đảng hiện nay, là quyết định cử cán bộ giữ 1 chức vụ lãnh đạo, trong bộ máy tổ
chức, thực chất là giao trách nhiệm, quyền hạn cho cán bộ lãnh đạo một ban, một bộ, một
ngành, một cơ quan đơn vị,… Đây là khâu quyết định trong công tác cán bộ.
Vậy bổ nhiệm cán bộ gồm những nguyên tắc nào?
Bao gồm những nguyên tắc sau:
Một là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng là
người đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về công tác CB
cho cả hệ thống chính trị. Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các ngành, các cấp.
Hai là, cấp ủy, tổ chức Đảng và tập thể lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền xem xét,
quyết định một cách dân chủ trên cơ sở phát huy đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của từng
thành viên, nhất là của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Ba là, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan đơn vị; phải căn cứ vào phẩm
chát, đạo đức, năng lực và sở trường của cán bộ.
Bốn là, đảm bảo sự ổn định, kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ quan, đơn vị.
Trong quy chế bổ nhiệm cán bộ, Bộ Chính trị quy định giao cho các bộ ngành địa
phương xây dựng trình tự, thủ tục bổ nhiệm cán bộ của địa phương mình (được phân cấp).
Trong quá trình nghiên cứu thực tế ở các bộ ngành, địa phương, nhận thấy các bước chung

nhất có thể áp dụng cho cán bộ cấp cơ sở như sau:
Một là, người đứng đầu và các thành viên trong ban lãnh đạo tổ chức đảng (cấp ủy
đảng, chi bộ) và người đứng đầu cơ quan, đơn vị đề xuất nhân sự dự kiến bổ nhiệm. Những
người có trách nhiệm đề xuất nhân sự tiến hành đánh giá, nhận xét đầy đủ về cán bộ được
dự kiến bổ nhiệm, làm căn cứ cho tập thể lãnh đạo xem xét quyết định (cần đánh giá bằng
văn bản để lưu trong hồ sơ cán bộ).
Hai là, tổ chức lấy ý kiến cán bộ, công chức trong cơ quan đơn vị công tác. Cấp có
thẩm quyền quản lý cán bộ tiến hành các bước lấy ý kiến cán bộ, công chức trong cơ quan
đơn vị về cán bộ dự kiến bổ nhiệm như sau: tổ chức lấy phiếu tín nhiệm và hỏi ý kiến. Nêu
mục đích, yêu cầu đánh giá tín nhiệm của quần chúng về nhân sự dự kiến bổ nhiệm. Công
25


×