Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một Số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho HS lớp 5A Trường tiểu học TT Hương Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.84 KB, 24 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

BÁO CÁO NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Họ tên tác giả: Nguyễn Thị Vân Anh
Trình độ chuyên môn: Đại học tiểu học.
Chức vụ: Giáo viên – Chủ tịch công đoàn.
Đơn vị công tác: Trường tiểu học TT Hương Sơn- huyện Phú Bình.
1. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến.
Sáng kiến thuộc lĩnh vực chuyên môn Tiểu học ( Môn Toán). Áp dụng trong việc
rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5A – Trường Tiểu học Thị trấn Hương
Sơn, nhằm giúp học sinh lớp 5A có khả năng đọc và phân tích đề bài, từ đó hiểu và giải
được bài toán có lời văn đúng và chính xác. Đáp ứng yêu cầu cơ bản của phân môn Toán,
góp phần nâng cao chất lượng môn Toán nói chung. Khi các em học sinh đã hiểu và giải
được bài toán có lời văn ở tất cả các dạng toán đã học thì đó cũng là tiền đề để các em nhận
biết, chiếm lĩnh và tiếp thu kiến thức ở tất cả các môn học khác trong nhà trường và nâng
cao sự hiểu biết xã hội.
2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến.
2.1. Sự cần thiết thực hiện sáng kiến.
Chúng ta đang bước vào những năm đầu thế kỉ XXI. Trong giai đoạn hiện nay Giáo
dục – Đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân. Trong hệ thống
giáo dục quốc dân giáo dục Tiểu học là cấp học quan trọng nhất được xem là cơ sở ban đầu
đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông.
Để thực hiện mục tiêu giáo dục “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực và đào tạo nhân tài”
đồng thời đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng đất nước thì trước tiên
phải thực hiện được mục tiêu của bậc tiểu học “Nhằm hình thành cơ sở ban đầu nhân cách
con người Việt Nam”.


Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp
phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học


sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học. Các số tự nhiên, các
số thập phân, các đại lượng cơ bản giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống
và một số yếu tố hình học đơn giản.
Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừ tượng hoá,khái
quát hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng
suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, bằng viết các suy luận đơn giản góp phần rèn luyện
phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt và sáng tạo.
Mục tiêu nói trên được thông qua dạy học các môn học đặc biệt là môn toán. Môn
này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ
thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động cần
của con người. Môn toán là “chìa khoá” mở của các ngành khoa học khác, nó là côngcụ
cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là một bộ phận không
thể thiếu được trong nhà trường, nó giúp con người phát triển toàn diện, góp phần nâng cao
tình cảm, trách nhiệm, niềm tin và sự phồn vinh của quê hương đất nước.
Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị trí quan
trong. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động tích
cực các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp
phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh.
Và trong chừng mực nào đó biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán
có lời văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ của học sinh.
Trường tiểu học TT Hương Sơn là trường đã nhiều năm giành lá cờ đầu của bậc tiểu
học trong toàn huyện mà số lượng học sinh giỏi cũng còn nhiều hạn chế chưa được nhiều
đặc biệt là học sinh lớp 5A mà tôi đang trực tiếp giảng dạy các em giải toán cũng chưa
được tốt. Khi kiểm tra bài làm của học sinh, tôi nhận thấy còn nhiều em giải toán còn chưa
đúng với yêu cầu có lúc câu lời giải không đúng với phép tính giải, nhiều em chưa biết
phân tích đề toán, chưa hiểu yêu cầu của đề dẫn đến bài giải sai hoặc chưa biết cách ghi
câu lời giải hợp lý, ngắn gọn đúng yêu cầu.


Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy, học môn toán ở trường tiểu học? Câu hỏi

này lâu nay đã làm bao thế hệ thầy cô phải trăn trở suy nghĩ tìm lời giải. Xuất phát từ yêu
cầu quan trọng của môn học và từ thực tế học sinh là động lực để tôi nghiên cứu và chọn
viết đề tài:
“1 Số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho HS lớp 5A Trường
tiểu học TT Hương Sơn”.
2.2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến.
Năm học 2014 – 2015, với những trăn trở về chất lượng môn toán đặc biệt là giải toán
có lời văn của học sinh lớp 5A – Trường Tiểu học TT Hương Sơn. Tôi tiến hành làm sáng
kiến kinh nghiệm với mục đích như sau:
- Tìm hiểu nội dung, chương trình và những phương pháp đúng để giảng dạy toán có
lời văn.
- Tìm hiểu những kĩ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ việc giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 5.
- Khảo sát và hướng dẫn giải cụ thể một số bài toán, một số dạng toán có lời văn ở
lớp 5, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng dạy
học và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu giải toán.
- Tìm hiểu thực trạng việc giải toán có lời văn của học sinh lớp 5A, những nguyên
nhân gây nên tình trạng học sinh lớp 5A giải toán có lời văn chậm và còn thiếu chính xác
câu lời giải chưa đúng, trình bày bài giải chưa hợp lý.....
- Tìm và đề xuất những biện pháp khắc phục thực trạng để rèn kỹ năng giải toán cho
học sinh lớp 5A đạt hiệu quả cao nhất.
3. Mô tả nội dung của sáng kiến.
3.1. Tính mới( chưa làm)
3.2. Tính khoa học.
Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn toán ở bậc
tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học và
số học tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại số , hình học có
trong chương trình.



Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau:
a) Các khái niệm và các qui tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng
dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố vận dụng các kiến thức,
rèn luyện các kĩ năng tính toán. đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có
thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng và
tư duy để giúp các em phát huy và khắc phục.
b) Vệc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua
việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học
sinh hình thành và rèn luyện những kĩ năng thực hành cần thiết trong đời sống hằng ngày
giúp các em biết vận dụng những kĩ năng đó trong cuộc sống.
c) việc giải toán góp phần quan trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu
của lòng yêu nước, thế giới quan duy vật biện chứng: Việc giải toán với những đề tài thích
hợp, có thể giới thiệu cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta và các nước bè bạn, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới,
góp phần giáo dục các em bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch...Việc giải toán
có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Ví dụ: các số, các phép tính, các
đại lượng... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con
người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải
tìm...
d) Việc giải toán góp phần quan trọng vào rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và
những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh
phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì dã cho và cái gì cần tìm,
thiết lập mối quan hệ giữa các giữ kiện của bài toán giữa cái đã cho và cái phải tìm. Suy
luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những kết luận thực hiện phép tính cần thiết để giải
quyết các vấn đề đặt ra...Hoạt động trí tuệ có trong trong việc giải toán góp phần giáo dục
cho các em ý trí vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có hiệu quả, có kế
hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, có thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm,
có óc độc lập, suy nghĩ sáng tạo, tự tìm ra những lời giải mới hay và ngắn gọn...
*Nội dung chương trình toán lớp 5:
1. Ôn tập về số tự nhiên.

2. Ôn tập về các phép tính số tự nhiên.


3. ÔN tập dấu hiệu chia hết cho 2.3.5.9.
4. Phân số ôn tập, bổ sung.
5. Ôn tập các phép tính về phân số.
6. Số thập phân.
7. Các phép tính về số thập phân.
8. Hình học-chu vi, diện tích, thể tích của một hình.
9. Số đo thời gian-Toán chuyển động đều.
3.3. Tính thực tiễn.
3.3.1Thực trạng của học sinh
Năm học 2014 – 2015 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5A.
* Tổng số học sinh: 32 em
Nam: 9 em.

Nữ: 22 em

Dân tộc: 1 em Khuyết tật: 0
Ngay từ đầu năm, khi lựa chọn sáng kiến này, để nắm bắt được tình trạng chất lượng học
toán và đặc biệt là giải toán có lời văn của học sinh lớp 5A, tôi đã lập kế hoạch và bắt tay
vào điều tra thực trạng chất lượng học sinh bằng cách kiểm tra khảo sát ngẫu nhiên 32 em
học sinh trong lớp.
Bài toán số 1:
( Dạy vào ngày 19/9/2014)
Số lít nước mắm loại I nhiều hơn số lít nước mắm loại II là 12l. Hỏi mỗi loại có bao
nhiêu lit nước mắm, biết rằng số lít nước mắm loại I gấp 3 lần số lít nước mắm loại II ?
- Kết quả thu được như sau:
Số HS
điều

tra
32

HS làm
bài tốt
6

HS
Tỉ lệ

làm bài

Tỉ lệ

7

HS làm

bài đạt

bài không

yêu cầu

khá
18,7%

HS làm

21,9%


7

Tỉ lệ
21,9%

đạt

Tỉ lệ

12

37,5%

Bảng thống kê số lỗi học sinh mắc phải trong khi giải toán:
Các lỗi sai

Số học sinh mắc lỗi

Tỉ lệ


- Sai câu lời giải:

12

37%

- Sai phép tính giải:


5

15,6%

- Sai về trình bày bài giải:

3

9,4%

- Sai về cách thực hiện các phép tính trong bài giải:

7

21,9%

- Sai về cách ghi các danh số đơn vị trong bài giải:

3

9,4%

* Bài toán số 2:
( Dạy vào ngày: 28/9/2014)
Một bếp ăn dự trữ gạo đủ cho 120 người ăn trong 20 ngày, thực tế đã có 150 người ăn.
Hỏi số gạo dự trữ đó đủ ăn trong bao nhiêu ngày? ( Mức ăn của mỗi người như nhau).
- Kết quả thu được như sau:
Số HS
điều
tra

32

HS làm
bài tốt
5

HS
Tỉ lệ

làm bài

Tỉ lệ

khá
15,6%

8

HS làm

HS làm

bài đạt

bài không

yêu cầu

đạt


Tỉ lệ

13

40,6%

25%

Tỉ lệ

6

18,8%

Bảng thống kê số lỗi học sinh mắc phải trong khi giải toán:
Các lỗi sai

Số học sinh mắc lỗi

Tỉ lệ

- Sai câu lời giải:

13

40,6%

- Sai phép tính giải:

7


21,9%

- Sai về trình bày bài giải:

3

9,4%

- Sai về cách thực hiện các phép tính trong bài giải:

5

15,6%

- Sai về cách ghi các danh số đơn vị trong bài giải:

5

15,6%

* Bài toán số 3
( Dạy vào ngày:29/9/2014)
Tính chu vi mảnh đất hình chữ nhật, biết chiều dài gấp 2 lần chiều rộng và hơn chiều
rộng 15 m.


- Kết quả thu được như sau:
Số HS
điều

tra
32

HS làm
bài tốt
5

HS
Tỉ lệ

làm bài

Tỉ lệ

khá
15,6%

7

21,9%

HS làm

HS làm

bài đạt

bài không

yêu cầu


đạt

Tỉ lệ

15

46,9%

Tỉ lệ

5

15,6

Bảng thống kê số lỗi học sinh mắc phải trong khi giải toán:
Các lỗi sai

Số học sinh mắc lỗi

Tỉ lệ

- Sai câu lời giải:

9

28,1%

- Sai phép tính giải:


6

18,7%

- Sai về trình bày bài giải:

7

21,9%

- Sai về cách thực hiện các phép tính trong bài giải:

5

15,6%

- Sai về cách ghi các danh số đơn vị trong bài giải:

5

15,6%

* Ngoài ra để nắm bắt được thực trạng giải toán có lời văn của học sinh, tôi còn trao đổi
với các giáo viên trực tiếp giảng dạy ở các lớp 5 trong trường, gặp phụ huynh học sinh để
tìm hiểu tình hình học ở nhà của các em. Đồng thời thăm lớp, dự giờ để bổ sung thêm
những lỗi khi giải toán và kinh nghiệm dạy học. Qua kết quả 3 bài khảo sát trên, qua thực
tế giảng dạy trong chương trình toán 5 và chuyện trò chao đổi, dự giờ thăm lớp của học
sinh lớp tôi cũng như các lớp khác trong khối 5 tôi nhận thấy các lỗi mà các em thường
mắc trong khi giải toán có lời văn cụ thể như sau:
* Những sai lầm học sinh thường mắc khi giải toán có lời văn:

+ Học sinh chưa nghiên cứu kỹ đầu bài toán nên xác định không đúng dạng bài tập dẫn
đến giải sai bài tập.
+ Không biết thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đạt bằng ngôn ngữ hoắc tóm
tắt hay minh họa bằng sơ đồ hình vẽ…
+ Lập kế hoạch giải bài toán sai không đúng yêu cầu bài tập.
+ Thực hiện các phép tính chưa đúng theo kế hoạch giải bài toán
+ Câu lời giải chưa đúng với phép tính giải.


+ Danh số đơn vị chưa đúng còn nhầm lẫn.
+ Trình bày bài giải chưa đúng yêu cầu.
Từ thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết học toán trở thành một
gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng toán là một phân
môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô
giáo.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng học toán của học sinh không đạt yêu
cầu cao? Qua quá trình giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy học sinh học yếu môn toán là do
nhiều nguyên nhân.
3.3.2 Nguyên nhân của thực trạng
Qua quá trình giảng dạy và điều tra thực trạng của giáo viên và học sinh lớp 5 trường
tiểu học TT Hương Sơn Tôi nhận thấy có những nguyên nhân cơ bản sau dẫn đến thực
trạng các em học sinh lớp 5 giải toán có lời văn lại gặp nhiều khó khăn như vậy:
a, Nguyên nhân khách quan
- Đa số học sinh con gia đình làm nông nghiệp, điều kiện và thời gian học tập có hạn
- Phụ huynh ít quan tâm tới việc học tập của học sinh
- Các cấp các nghành ở địa phương còn nghèo, chưa thực sự quan tâm động viên các em
kịp thời
-Tại tệ nạn xã hội dẫn đến nhiều em ham chơi không chịu học.
b, Nguyên nhân chủ quan
*Giáo viên:

Chất lượng giải toán có lời văn của học sinh tiểu học chưa cao cũng một phần thuộc
về trách nhiệm của giáo viên, mảng kiến thức toán có lời văn là một dạng bài tập mang tính
tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay giáo viên chưa tìm ra cách phát huy tối đa năng lực
học tập của học sinh, chưa bồi dưỡng cho các em ý thức ham mê học toán và giải bài toán
giải đạt yêu cầu.
Giáo viên nhiều khi chưa nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, không nắm chắc mục
tiêu của bài dạy, chưa đầu tư nhiều vào công tác chuẩn bị cho tiết dạy, còn thiếu tính tự
giác trong vấn đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Nhiều giáo viên phải dạy 2 buổi/ ngày
gây ảnh hưởng đến chất lượng dạy học.
*Học sinh:
+ Học sinh chưa nghiên cứu kỹ đầu bài toán nên xác định không đúng dạng bài tập dẫn đến
giải sai bài tập.
+ Không biết thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đạt bằng ngôn ngữ hoắc tóm
tắt hay minh họa bằng sơ đồ hình vẽ…
+ Lập kế hoạch giải toán: Học sinh chưa biết suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán
cần thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết


gì? Có thể làm phép tính gì? Phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không?
Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải toán.
+ Thực hiện phép tính không theo trình tự kế hoạch đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực
hiện phép tính chưa kiểm tra xem đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên
cơ sở đúng đắn không?
+ Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để lời giải ngắn
gọn chính xác.
* Bên cạnh cạnh các nguyên nhân chủ quan trên thì còn có một số những nguyên nhân khác
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng môn toán của học sinh.
- Do một số gia đình chưa thật sự quan tâm và chú trọng đến việc rèn cho học sinh,
những kỹ năng cơ bản cho việc học toán.
- Do giáo viên chưa có phương pháp tốt, phù hợp với từng bài dạy, chưa thật sự chú ý

đến việc sửa sai cho học sinh ở mọi lúc, mọi nơi, chưa hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để các em tự
phát hiện lỗi sai và sửa chữa. Việc động viên uốn nắn chưa kịp thời dẫn đến các em còn
mắc nhiều lỗi khi làm toán.
* Từ những lí do trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy các em, tôi suy nghĩ làm
sao tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp để giúp học sinh học tập làm văn tốt hơn.
3.3.3 Các biện pháp đã áp dụng để rèn kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 5A
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của
một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau đây, hy
vọng sẽ nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5A.
1. Tạo hứng thú học tập cho học sinh
Có nhiều hình thức để giúp học sinh say mê hứng thú trong học tập. Vì vậy tôi luôn tìm
tòi các hình thức để thay đổi trong mỗi giờ học toán, tạo cho học sinh những cảm hứng bất
ngờ từ đó học sinh hứng thú hơn và kích thích tư duy của học sinh.
Toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế. Nội dung bài toán được thông qua
nhữmg câu nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan đến cuộc sống
thường sảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn là phải lược bỏ những yếu tố về
lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán, hay nói cách khác là chỉ ra mối quan hệ
giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và nêu ra phép tính thích hợp để từ đó
tìm được đáp số bài toán.
* Chẳng hạn bài toán:


Một con chim sâu cân nặng 60g. Một con đà điểu cân nặng 120kg. Hỏi con đà điểu
cân nặng gấp bao nhiêu lần con chim sâu?
- Khi giải bài toán này học sinh cảm thấy thú vị với một phép so sánh không tương xứng
giữa hai con vật có trọng lượng quá chênh lệch. Qua bài tập này học sinh được giáo dục
tình yêu thiên nhiên.
* Hay như bài toán:
“ Một máy bay bay với vận tốc 860km/giờ được quãng đường 2150km. Hỏi máy
bay đến nơi lúc mấy giờ, nếu nó khởi hành lúc 8 giờ 45 phút?”

- Gặp bài toán này các em thấy thắc mắc về vận tốc cực nhanh của máy bay so với các
phương tiện giao thông vận tải khác.
2. Giáo viên cần nắm rõ nội dung chương trình và phương pháp dạy học giải những
dạng toán có lời văn cho học sinh.
* Nội dung chương trình giải toán:
Đối với bài toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp. Giải các bài toán hợp
cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đều đã được học ở
các lớp trước bao gồm hai nhóm chính như sau:
a) Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một phương pháp thống
nhất cho các bài toán đó.
b) Nhóm 2: Các bài toán điển hình là các bài toán mà trong quá trình giải có phương
pháp riêng cho từng dạng bài toán. Trong chương trình toán lớp 5 có những dạng toán điển
hình sau:
-Tìm số trung bình cộng.
-Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đo.
-Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó.
-Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số đó.
-Bài toán liên quan đến đại lượng tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch.
- Bài toán về tỉ số phần trăm.
- Bài toán về chuyển động đều.
- Bài toán có nội dung hình học ( chu vi, diện tích, thể tích).
Người giáo viên phải nắm vững các dạng toán để có cách giải phù hợp.


Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. hình thành kĩ năng giải toán
khó hơn nhiều so với hình thành kĩ năng tính. Vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái
niệm, quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng, mà đòi hỏi phải
nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi khả năng suy
nghĩ độc lập của học sinh, đòi hỏi phải biết tính đúng.
Khi dạy các dạng toán có lời văn cho học sinh giáo viên cần vận dụng linh hoạt

sáng tạo các phương pháp dạy học như là trực quan. Ví dụ: Khi dạy giải toán ở lớp 5, giáo
viên có thể cho học sinh quan sát mô hình hoặc hình vẽ, sau đó lập tóm tắt đề bài rồi mới
đến bước chọn phép tính.
* Phương pháp gợi mở-vấn đáp:
Đây là phương pháp cần thiết và thích hợp với học sinh ở tiểu học, rèn luyện cho
học cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả năng học tập của từng học
sinh. Đẻ sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên cần lựa chon hệ thống câu hỏi chính xác
và rõ ràng, nhờ thế mà học sinh có thể nắm được ngay nội dung kiến thức từ đầu và giúp
các em dễ dàng trả lời các câu hỏi.
* Phương pháp thực hành và luyện tập:
Sử dụng phương pháp này thực hành luyện tập kiến thức, kĩ năng giải toán từ đơn
giản đến phức tạp (chủ yếu ở các tiết luyện tập). Trong quá trình học sinh luyện tập, giáo
viên có thể phối hợp các phương pháp như: Gợi mở, vấn đáp và giảng giải minh hoạ.
* Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng:
Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho trong bài và
mối liên hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải chọn độ dài đoạn thẳng một
cách thích hợp để học sinh dẽ dàng quan sát và thấy được mối liên hệ phụ giữa các đại
lượng tạo ra hình ảnh cụ thể để giúp học sinh suy nghĩ, tìm tòi giải toán.
* Phương pháp giảng giải-minh hoạ:
Khi cần giảng giải- minh hoạ, giáo viên cần nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở-vấn
đáp. Giáo viên nên phối hợp giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh (Ví dụ: Bằng
hình vẽ, mô hình, vật thật...). Để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm, nên hạn chế sử dụng
phương pháp này vì sẽ làm hạn chế khả năng tư duy lôgic và suy nghĩ sáng tạo của học
sinh.


3. Rèn kỹ năng giải toán cho học sinh.
* Xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài:
- Bước đầu tiên khi giải bài toán có lời văn giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc và
nghiên cứu kỹ xem đề văn yêu cầu gì và xác định đúng dạng toán nào đã học và giải như

thế nào? Cái gì đã cho? Và phải tìm những dữ kiện nào?...
a) Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần:
- Phần đã cho hay còn gọi là giả thiết của bài toán.
- Phần phải tìm hay còn gọi là kết luận của bài toán.
-

Ngoài ra trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải

tìm hay thực chất là các mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận của
bài toán.
b) Quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau:
- Nghiên cứu kĩ đầu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận bài toán, suy nghĩ về ý nghĩa
của bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt là chú ý đến câu hỏi của bài toán. Chớ vội tính
toán khi chưa đọc kĩ đề toán.
- Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đat nội dung bài toán bàng ngôn
ngữ hoặc tóm tắt điều kiện bài toán, hoặc minh hoạ bằng sơ đồ hình vẽ.
* Lập kế hoạch giải toán:
Sau khi học đã nắm rõ yêu cầu của đề toán và xác định được dạng bài tập giáo viên
cần hướng dẫn các em lập được kế hoạch giải toán theo yêu cầu của bài toán. Học sinh
phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán cần thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem
từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì? Có thể làm phép tính gì? Phép tính đó
có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình
tự giải toán.
* Thiết lập trình tự giải:
Kế hoạch giải bài tập đã lập song giáo viên lưu ý hướng dẫn học sinh trình bày bài
giải, thực hiện phép tính theo trình tự kế hoạch đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực
hiện phép tính cần kiểm tra xem đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên
cơ sở đúng đắn không? Câu trả lời có phù hợp với phép tính giải và đúng yêu cầu chưa?
Đáp số đúng hay sai?.



Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử lại xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu
hỏi của bài toán, có phù hợp với các đièu kiện của bài toán không? Trong một số trường
hợp, giáo viên nên khuyến khích học sinh tìm xem có cách giải khác gọn hơn không?
*Ví dụ 1: Thùng to có 26 lít dầu, thùng bé có 18 lít dầu. Dầu được chứa vào các
chai như nhau, mỗi chai có 0,8 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu chai dầu?
Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trên bằng cách dùng phương pháp
vấn đáp, kết hợp với minh hoạ bằng tóm tắt đề toán.
+Phân tích nội dung đề toán: Giáo viên dùng hai câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài
toán hỏi gì? Để học sinh hiểu nội dung bài:
- Thùng to có 26 lít dầu.
- Thùng bé có 18 lít dầu.
- Mỗi chai chứa 0,8 lít dầu.
- Hỏi có tất cả có bao nhiêu chai dầu?
+Tóm tắt bài toán : Theo những câu trả lời của học sinh, giáo viên hướng dẫn học
sinh tóm tắt như sau:
Thùng to: 26 l
Thùng bé:18 l


:...... chai dầu?

- Tóm tắt trên chính là chỗ dựa cho học sinh tự tìm ra lời và phép tính tương ứng.
+Thiết lập trình tự giải: Giáo viên đạt câu hỏi “Muốn biết có bao nhiêu chai dầu, ta
phải làm thế nào? ” Học sinh trả lời: “Trước hết ta phải tìm tổng số lít dầu có ở hai thùng,
sau đó mới tìm tổng số chai đựng dầu”.
Bài giải
Tổng số lít dầu ở hai thùng là:
26 + 18 =44 (l)
Số chai đựng dầu là:

44 : 0,8 = 55 (chai )
Đáp số: 55 chai
4. Đặc điểm của từng dạng bài toán:
Muốn phân tích được tình huống, lựa chọn phép tính thích hợp, các em cần nhận
thức được: Cái gì đã cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ với cái đã cho và cái phải tìm. Trong


bước đầu giải toán việc nhận thức và việc lựa chọn phép tinh với các em là một việc khó.
Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào hoạt động cụ thể của các em với vật
thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học...Nhằm làm cho các em hiểu khái
niệm “gấp” với phép nhân, khái niệm “một phần...” với phép chia trong tương quan giũa
các mối quan hệ với bài toán.
Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính
thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các
dữ kiện như nhau có thể dặt các câu hỏi khác nhau, do đó việc lựa chọn phép tính cũng
khác nhau. Việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng các bài
toán đó. Những trẻ em trong giai đoạn đầu khi mới giải toán chưa nhận thức được đầy đủ
chức năng của câu hỏi trong bài toán. Để rèn luyện cho các em suy luận đúng, cần giúp các
em nhận thức được chức năng quan trọng của câu hỏi trong bài toán. Câu hỏi của bài toán,
đôi khi nêu cho các em bài toán vui không giải được.
* Chẳng hạn: “Trên cành cây có 10 con chim. Người thợ săn bắn rơi 2 con chim.
Hỏi trong lồng còn mấy con chim?”. Có em sẽ nhầm và trả lời là 8 con chim. Lúc đó giáo
viên sẽ giải thích để học sinh nhận ra cái sai trong câu hỏi của bài toán.
Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. hình thành kĩ năng giải toán
khó hơn nhiều so với hình thành kĩ năng tính. Vì bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái
niệm, quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu để rồi áp dụng, mà đòi hỏi phải
nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm ý nghĩa của phép tính, đòi hỏi khả năng suy
nghĩ độc lập của học sinh, đòi hỏi phải biết tính đúng.
Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng đã
được đề cập ở một số cách về phương pháp giải toán ở bậc tiểu học. Ở đây tôi rút ra một số

kinh nghiệm hướng dẫn: Phần dạy toán có lời văn ở lớp 5.
Ở lớp 5, việc học phân số, học số thập phân, học về các đơn vị đo đại lượng...Cũng
được kết hợp học các phép tính, học giải toán được kết hợp một cách hữu cơ để có tác
dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm được các phương pháp chung để giải toán
được chú trọng ngay từ khi các em giải bài toán đầu tiên ở bậc tiểu học và sau này vẫn
được thường xuyên quan tâm. Các em luôn được rèn luyện trong việc tìm hiểu đề toán,
trong viẹc phân tích cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong việc suy nghĩ tìm ra cách giải và


trong việc thực hiện cách giải. Đặc biệt các em thường xuyên sử dụng việc tóm tắt bài toán
bằng sơ đồ hình vẽ.
Sau đây là một số ví dụ về các dạng toán có lời văn ở lớp 5:
Ví dụ 1: Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận.
Một ô tô cứ một 100 km thì hết 12,5 l xăng. Hỏi ô tô đi quãng đường dài 120 km thì
cần bao nhiêu lít xăng?
Bài giải
Số lít xăng cần để đi 1 km là:
12,5 : 100 = 0,125 (l)
Số lít ô tô cần để đi quãng đường 60 km là:
0,125 x 120 = 15 (l)
Đáp số : 15 lít xăng
Ví dụ 2: Toán chuyển động đều.
Một người đi hết quãng đường dài 11,52 km với vận tốc 4,5 km/giờ. Hỏi người đó
đã đi hết bao nhiêu giờ và bao nhiêu phút?
Bài giải
Thời gian ô tô đi hết quãng đường là:
11,52 : 4,5 = 2,5 (giờ)
= 2 giờ 30 phút.
Đáp số: 2 giờ 30 phút.
Ví dụ 3: Bài toán về tỉ lệ nghịch.

Một đơn vị bộ đội có 45 người đã chuẩn gạo đủ ăn trong 15 ngày. Nhưng sau 5 ngày
đơn vị đó nhận tiếp thêm 5 người nữa. Hãy tính xem số gạo còn lại đủ cho đơn vị ăn bao
nhiêu ngày nữa, biết rằng các xuất ăn đều như nhau.
Bài giải
Số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong số ngày là:
15 – 5 = 10 (ngày)
Số người của đơn vị sau khi tăng là:
45 + 5 = 50 (người)
Vì số gạo còn lại đủ cho 45 người ăn trong 10 ngày, nên nếu 1 người ăn số gạo đó thì sẽ
đủ ăn trong số ngày là:


10 x 45 = 450 (ngày)
Vậy 50 người ăn số gạo còn lại trong số ngày là:
450 : 50 = 9 (ngày)
Đáp số: 9 ngày
Ví dụ 4: Bài toán về chu vi diện tích:
Một khu vườn hình chữ nhật có chiều dài 27,18 m, chiều rộng 9,4 m. Tính chu vi và
diện tích khu vườn đó?
Tóm tắt:
Chiều dài: 27,18 m
Chiều rộng: 9,4 m
Chu vi: ? m; diện tích: ? m2
Bài giải
Chu vi của khu vườn là:
(27,18 + 9,4) x 2 = 72,96 (m)
Diện tích khu vườn là:
27,18 x 9,4 = 255,492 (m2)
Đáp số: Chu vi: 72,96 m
Diện tích: 255,492 m2

Ví dụ 5: Bài toán về tỉ số phần trăm.
Ngày thường mua 5 quả bóng bay hết 10.000 đồng . Cũng với số tền đó trong ngày lễ
chỉ mua được 4 quả bóng bay như thế. Hỏi so với ngày thường thì giá bóng bay trong ngày
lễ tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm?
Bài giải
Giá tiền 1 quả bóng bay ngày thường là:
10000 : 5 = 2000 (đồng)
Giá tiền 1 quả bóng bay trong ngày lễ là:
10000 : 4 = 2500 (đồng)
Tỉ số phần trăm của giá bóng bay trong ngày lễ so với ngày thường là:
2500 : 2000 = 1,25 = 125%
Coi giá bóng bay trong ngày thường là 100% thì giá bóng bay trong ngày lễ hơn
ngày thường là:


125% – 100% = 25%
Đáp số: 25%
*** Đối với các bài toán có lời văn như trên, giáo viên nên khuyến khích học sinh tự
nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm cách tóm tắt bài toán và tìm cách giải. Các
phép tính giải chỉ là khâu thứ yếu mang tính kĩ thuật.
Một số bài nâng cao dành cho học sinh khá giỏi:
Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải thành thạo các bài toán đơn cơ
bản, thì việc đưa ra hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và cần thiết để cho học sinh
có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt xa khỏi tư duy cụ thể mang tính chất
ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức.
5. Một số biện pháp khác
-Ngoài ra để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh trong mỗi giờ dạy
tôi gây hứng thú cho học sinh bằng những trò chơi học tập, những hình thức thi đua cá
nhân, nhóm tổ. Trong các tiết học, tôi luôn cố gắng tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều
được tham gia đánh giá nhận xét và trình bày suy nghĩ và giải bài tập của mình giúp các

em nhận thấy cái sai mà mình mắc phải để khắc phục và làm bài tốt hơn, với nhiều hình
thức như: chữa bài theo nhóm,…để học sinh tham gia hoạt động học tập một cách sôi nổi,
hào hứng. Bên cạnh đó tôi tổ chức phong trào thi đua đôi bạn cùng tiến để các em giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ, cuối mỗi đợt có nhận xét, tuyên dương rõ ràng, khuyến khích , động
viên kịp thời để các em cố gắng hơn.
- Gặp gỡ, trao đổi, nắm bắt tình hình học tập của học sinh ở nhà. Phân tích cho phụ
huynh học sinh thấy sự cần thiết của việc học toán để hỗ trợ và tạo đà cho học sinh học tốt
các môn học khác. Từ đó phụ huynh sẽ nhận thức đúng và coi trọng việc rèn đọc cho học
sinh cả khi ở nhà.
- Đối với mỗi bài dạy tôi luôn nghiên cứu, tìm tòi,lựa chọn phương pháp tối ưu, phù
hợp nhất để hướng dẫn các em tìm ra cách giải tối ưu nhất đưa học sinh đến cái "đích " của
bài học. Trong mỗi tiết dạy tôi luôn chú trọng đến việc sửa sai mọi lỗi mà học sinh mắc
phải khi làm bài tập, dù đó là lỗi rất nhỏ.
3.4. Tính hiệu quả


- Trong quá trình làm đề tài tôi đã áp dụng những biện pháp đã nêu trên với học sinh lớp
5A do tôi phụ trách và thấy được sau mỗi biện pháp áp dụng vào thực tế giảng dạy, các em
tiếp thu bài nhanh hơn. Số lượng các bài toán có lời văn đã được các em giải đúng và chính
xác đã được nâng lên rõ rệt. Số lỗi mà các em hay mắc đã giảm rất nhiều và có bài hầu
như không còn mắc lỗi nào nữa.
- Các hoạt động của giáo viên và học sinh trong giờ học được phối hợp nhịp nhàng
hơn nên đã phát huy trí tuệ, tính sáng tạo, niềm đam mê và niềm tin học tập ở mỗi học
sinh.
Với cách giảng dạy đã nêu trên làm cho tiết học văn bớt đi phần căng thẳng học sinh đã
tạo hứng thú cho học sinh khi học toán đặc biệt là thể loại toán có lời văn, thể loại này là
mảng kiến thức quan trọng và chiếm thời lượng rất lớn trong chương trình toán lớp5.
Qua một thời gian nghiên cứu đề ra một số biện pháp giải toán có lời văn ở lớp 5, tôi
đã mạnh dạn tổ chức chuyên đề này về phương pháp , về cách tổ chức giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 5A của tôi, trong năm học: 2014 - 2015. Kết quả đạt được cụ thể như sau:

* Bài toán
Một ô tô đi từ hà nội lúc 6 giờ 15 phút và đến Hải Phòng lúc 8 giờ 56 phút. Giuã đường
otô nghỉ 25 phút. Vận tốccủa otô là 45 km/giờ. Tính quãng đường từ Hà Nội đến Hải
Phòng.
- Kết quả thu được như sau:
Số HS
điều
tra
32

HS làm
bài tốt
13

HS
Tỉ lệ

làm bài

Tỉ lệ

9

HS làm

bài đạt

bài không

yêu cầu


khá
40,6%

HS làm

28,1%

7

Tỉ lệ
21,9%

đạt

Tỉ lệ

3

9,4%

Bảng thống kê số lỗi học sinh mắc phải trong khi giải toán:
Các lỗi sai

Số học sinh mắc lỗi

Tỉ lệ


Sai câu lời giải:


0

0%

- Sai phép tính giải:

1

3,1 %

- Sai về trình bày bài giải:

1

3,1 %

- Sai về cách thực hiện các phép tính trong bài giải:

1

3,1 %

- Sai về cách ghi các danh số đơn vị trong bài giải:

0

0%

Như vậy so với khi chưa áp dụng biện pháp rèn kỹ năng giải toán cho học sinh tôi

thấy chất lượng giải toán của học sinh lớp tôi được nâng lên một cách rõ rệt, kết quả đó
được thể hiện rất rõ ở các bảng thống kê số lỗi ở mỗi bài toán và kết quả thi khảo sát cuối
kì 2. Đa số các em giải toán tốt. Từ thực trạng 67% học sinh giải toán chậm và mắc nhiều
lỗi sai đến bài cuối cùng thì chỉ còn 13% em giải toán còn mắc lỗi. Tuy vẫn còn một số
em mắc lỗi sai khi giải toán nhưng số lượng những em học sinh này không nhiều. Nếu cứ
áp dụng các biện pháp trên vào việc rèn cho học sinh tôi chắc chắn rằng kết quả của các em
sẽ không ngừng nâng cao hơn nữa. Kết quả đã khẳng định những biện pháp, kỹ năng mà
tôi đã nghiên cứu và áp dụng trong năm học 2014 – 2015 đối với học sinh lớp 5A đã thực
sự mang lại hiệu quả cao.
* Kết quả kiểm tra cuối năm đạt như sau:
Tổng

Kết quả

số HS

Giỏi
SL

Khá
%

SL

TB
%

SL

%


Từ những kết quả thống kê nêu trên, tôi thấy dạy giải toán có lời văn ở lớp 5 không
chỉ những giúp cho học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức đã học, mà còn giúp cho các
em phát triển năng lực tư duy, óc sáng tạo, tính kiên trì trong học toán và vận dụng thực
hành vào thực tiễn trong cuộc sống.
4 Phạm vi áp dụng
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng vào thực tế trong quá trình giảng day hàng
ngày tại lớp 5A Trường tiểu học TT Hương Sơn- huyện Phú Bình- Thái Nguyên do tôi chủ
nhiệm và thấy được hiệu quả đáng kể.


5 Kết quả, hiệu quả mang lại
6. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Sau khi áp dụng các biện pháp đã nêu ở trên trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 4B
có hiệu quả. Tôi đã mạnh dạn chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp trong tổ 4 + 5 khi họp tổ
chuyên môn để cùng thảo luận và đều được các đồng chí trong tổ ủng hộ đồng thời cùng
triển khai áp dụng đối với các lớp trong khối 4 và đều có kết quả tốt. Bởi vậy các đồng
nghiệp trong khối đều đánh giá rằng: Sáng kiến kinh nghiệm của tôi rất phù hợp và sát thực
tế, có biện pháp đối với mọi đối tượng học sinh: Khá, giỏi, trung bình, mỗi đối tượng đều
có biện pháp riêng, thích hợp. Mặt khác các biện pháp đó rất đơn giản, dễ thực hiện đối với
mọi giáo viên, học sinh cũng như phụ huynh học sinh khi kèm con em của mình nên thiết
nghĩ rằng sáng kiến này của tôi có thể áp dụng và triển khai cho mọi đối tượng học sinh
trên toàn quốc.
PHẦN THỨ TƯ

KẾT LUẬN-ĐỀ XUẤT
I KẾT LUẬN
Hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các em phát triển tư duy
trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, rèn luyện tốt phương
pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó, đây là là một dạng toán rất gần gũi với đời sống thực tế

với học sinh.
Do vậy, có thể nói đây là một nhiệm vụ của mỗi người giáo viên đứng lớp. Việc
giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh
hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hằng ngày.
Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là
cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bạc tiểu học song lại là cái mới đối với bản
thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội
dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học. Tôi tự cảm thấy mình
được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì , nhẫn nại, sự ham muốn, lòng say sưa với nghiên cứu
tìm tòi trong công việc dạy học, nhằm đem lại sự tươi sáng cho học sinh và niềm đam mê
cho chính bản thân. Tuy nhiên, đề tài này của tôi đang trong giai đoạn đầu nghiên cứu và
áp dụng trong lĩnh vực khoa học nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong


muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo Hội đồng khoa học các cấp , các
bạn đồng nghiệp và những ai quan quan tâm đến vấn đề: “Giải toán có lời văn” cho học
sinh ở bậc tiểu học nói chung, và “Giải toán có lời văn” ở lớp 5 nói riêng.
II MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Qua thực tế giảng dạy môn toán ở trường tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Tôi
thấy người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi học hỏi, trau rồi kinh nghiệm để nâng cao trình
độ nghiệp vụ.
Từ kinh nghiệm thực tế trong những năm giảng dạy, để giúp học sinh thích học và
giải toán có lời văn, tôi kiến nghị với các nhà soạn sách giáo khoa hãy lựa chọn, sắp xếp hệ
thống các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để các em có thể vận dụng tốt
các kiến thức đã học.
Đối với giáo viên ở mỗi dạng toán cần hướng dẫn học sinh nhận dạng bằng nhiều
cách: đọc, nghiên cứu đề, phân tích bằng nhiều phương pháp (mô hình, sơ đồ đoạn thẳng,
suy luận...) để học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt bài hơn. Không dừng lại ở kết quả ban đầu
( giải đúng bài toán ) mà nên có yêu cầu cao hơn đối với học sinh.
Ví dụ: Như yêu cầu học sinh ra một đề toán tương tự hoặc tìm hiểu nhiều lời giải

khác nhau...
Giáo viên phải luôn luôn đổi mới phương pháp giạy bằng nhiều hình thức như: trò
chơi, đố vui...phù hợp với đối tượng học sinh của mình: “Lấy học sinh để hướng vào hoạt
động học, người thầy là người hướng dẫn tổ chức, học sinh nhận thức chủ động trong việc
giải toán”
Trong giảng dạy giáo vien cần chú ý phát triển tư duy, khả năng phân tích, tổng hợp,
khả năng suy luận logic, giúp các em nắm chắc kiến thức cụ thể.Với bài toán có lời văn, đó
là cách giải và cách trình bầy lời giải, sử dụng tốt các phương pháp đã nêu ở trên.
Không dừng lại ở kết quả ban đầu (giải đúng bài toán) mà nên có yêu cầu cao hơn
với học sinh. Ví dụ: yêu cầu một học sinh ra một đề toán tương tự hoặc tìm nhiều lời giải
khác nhau...
Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: “Làm phép tính đó để làm gì?” Từ
đó có hướng giải đúng, chính xác.
Sau mỗi bài toán, học sinh phải biết xem xét lại kết quả của mình làm để giúp các
em tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề nào đó.


Qua cách dạy đã nêu trên đây, so với các lớp học theo chỉ dẫn của sách giáo khoa và
sách giáo viên tôi nhận thấy học sinh dễ hiểu bài hơn, để áp dụng hơn. Qua kết quả học tập
của học sinh lớp tôi, các đồng nghiệp trong khối cũng nhận thấy cách hướng dẫn trên hay
và có hiệu quả.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Cương Sơn, ngày 20 tháng 6 năm 2011
Người thực hiện

Nguyễn Văn Tiến

MỤC LỤC
NỘI DUNG


Trang

Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Phần thứ hai: NỘI DUNG

4


I. Cơ sở khoa học

4

1. Cơ sở lý luận

4

2. Cơ sở thực tiễn

5

II. Các phương pháp dùng để giải toán có lời văn

8

1. Phương pháp trực quan

8


2. Phương pháp gợi mở - vấn đáp

8

3. Phương pháp thực hành và luyện tập

8

4. Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng

8

5. Phương pháp giảng giải minh họa

9

III. Một số biện pháp để nâng cao chất lượng giải toán
có lời văn ở lớp 5

9

Phần thứ ba: KẾT QUẢ ÁP DỤNG NĂM HỌC 2010-2011

17

Phần thứ tư: KẾT LUẬN-ĐỀ XUẤT

18


I. Kết luận

18

II. Đề xuất

19

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC
CƯƠNG SƠN XÉT DUYỆT


HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT LỤC NAM
XÉT DUYỆT



×